a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018

Hai Dải Yếm Đào


Đào Đức Nhuận





Phất phơ trước gió biết vào tay ai.....?

Trước khi dùng xú-chiêng như người phụ nữ Tây Phương, người phụ nữ Việt Nam đã biết dùng cái yếm để che kín bộ nhũ hoa. Nói như thế không có nghĩa là cái yếm chỉ có công dụng như cái xú-chiêng của người Tây Phương mà thực sự công dụng của nó còn rộng rãi hơn nhiều. Trong lúc cái xú-chiêng chỉ dùng để che kín và nâng đỡ bộ nhũ hoa thì cái yếm của người phụ nữ Việt Nam đôi khi còn có thể dùng thay thế cho cái áo cụt “ra đường đi đâu gần gần mà chỉ bận yếm thì cũng chẳng ai rầy” hoặc, hơn thế nữa, “mùa nóng nực những người làm việc khó nhọc chỉ mặc yếm che ngực, đủ kín đáo, không mặc áo”.

Theo Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ trong Tự Điển Việt Nam (q.I, trang 669) chiếc yếm được định nghĩa như sau: “Yếm: Miếng vải hình tam giác dùng che ngực"

Cô kia mặc yếm hoa tằm,
Chồng cô đi lính cô nằm với ai.

Theo Trần Ỷ trong bài “Quê Rích Quê Rang”, chiếc yếm được mô tả “là một tấm vải đen hay màu hồng, gần như hình tam giác, có dải cột choàng ra sau cổ và sau eo”.

Theo Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu trong Đất Lề Quê Thói, “Yếm mặc để che kín ngực là mảnh vải vuông, một góc may cổ xẻ, cổ thìa, hay cổ xây, có dải bọc treo lên cổ, hai góc đối nhau vắt sang hai bên sườn may dải rộng quấn vòng sau lưng ra đàng trước bụng, thường quấn chặt không để cho vú ngóc lên phô trương đường cong nét gợi, không để cho rung rinh, dún dẩy, vươn ra quá cỡ.”

Theo Anh Thy trong bài Nghìn Năm Dải Yếm Bắc Cầu, “Cái yếm đó có cấu tạo khá đơn giản. Một mảnh vải hình thoi khoét tròn một đầu, được gắn dải lụa để buộc lại sau cổ và lưng”.

Hai ông Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ là người Nam, ông Trần Ỷ người miền Trung, ông Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu và ông Anh Thy là người Bắc.

Như vậy, có lẽ cái yếm của người miền Trung và người miền Nam có hình dáng gần giống như hình tam giác khoét cổ ở đỉnh. ; trong lúc đó cái yếm cuả người phụ nữ miền Bắc lại có hình dáng gần giống như hình vuông hay hình thoi và cổ yếm được khoét ở một góc.

Như ông Trần Ỷ đã nói trong bài vừa dẫn, “Yếm vừa che ngực vừa là món trang sức của các cô đang độ xuân thì, nhờ màu sắc, nhất là cái cổ yếm là một công trình tuyệt xảo của các cô gái khéo tay : đường viền chạy chân rết, luồn được vào trong là cả một công phu.”

Nhác trông cái yếm cũng xinh
Khen ai khéo dệt ra hình hoa mai
Khen người khâu yếm cũng tài
Cổ thêu con nhạn có hai đường viền

Cổ thì em ngả màu hiên
Thắt lưng mùi huyền, dải yếm cũng xinh
Khen ai khâu yếm cho mình
Đường lên đường xuống ra hình lưng ong

Yếm này em ngả màu hồng
Yếm này nhuộm mất mấy công hỡi nàng?
Khi xưa lụa hãy còn vàng
Khen ai khéo nhuộm cho nàng, nàng ơi!

Về các loại vải may yếm còn tùy chủ nhân của chiếc yếm (giàu nghèo, già trẻ), tùy theo môi trường sử dụng yếm. Yếm mặc ở nhà hay khi đi lao động được may bằng vải ta hay vải trúc bâu. Vào những ngày hội hè đình đám người ta thường mặc yếm màu, con nhà khá giả mặc yếm vóc, yếm nhiễu là những loại vải quý đắt tiền:

Hỡi cô yếm thắm lòa lòa
Yếm nhiễu, yếm vóc hay là trúc bâu?
Hay là lụa bạch bên Tàu?
Người cắt cũng khéo, người khâu cũng tài.......

Về màu sắc, còn tùy theo sở thích cá nhân hay còn tùy theo môi trường sinh hoạt. Thông thường người ta thường mặc yếm trắng hay yếm nâu trong nhũng lúc ở nhà hay làm việc ngoài đồng áng. Những người đứng tuổi vẫn dùng hai màu này là chính dù ở trong bất kỳ môi trường sinh hoạt nào. Khi tham dự các cuộc hội hè đình đám, phần lớn phụ nữ trẻ tuổi thích mặc yếm màu.

Cô kia yếm trắng lòa lòa
Lại đây đập đất trồng cà với anh

Ngoài chiếc yếm trắng hay yếm nâu thường may bằng loại vải ta mặc ở nhà hay trong những lúc lao động, những chiếc yếm màu cũng được may bằng các loại vải kể trên nhưng cũng có khi được may bằng những loại vải đắt tiền hơn và thường được dùng trong các dịp Tết nhất, giỗ chạp hay trong các cuộc hội hè đình đám:

* Con cò lặn lội bờ ao
Phất phơ hai dải yếm đào gió bay

* Hỡi cô áo trắng yếm hồng
Đi trong đám hội, có chồng hay chưa?

* Hỡi cô yếm thắm răng đen
Muốn lên mạn ngược ngồi thuyền cùng anh!

* Chùa này chẳng có Bụt ru
Mà đem chuông khánh treo chùa hồ sen?
Thấy cô yếm đỏ, răng đen
Nam mô di Phật lại quên mất chùa!

Cái yếm làm tăng độ duyên dáng của người phụ nữ nên cái yếm cũng có thể là một trong những điều kiện tạo nên nét đẹp, nét duyên dáng của người phụ nữ để người con trai lựa chọn ý trung nhân:

Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa.....

Tuy hình thức của cái yếm trông có vẻ đơn giản, nhưng vì công dụng của nó mà nó hóa ra quyến rũ khác thường. Mê cái yếm chính là mê con người mặc yếm. Hơn thế nữa, có những cách mặc yếm nó làm cho người nhìn cũng phải ngất ngây vì sự kín đáo nửa vời của nó. Theo tác giả Anh Thy, “Người phụ nữ khi làm lụng, nhất là trong bóng râm, dù là vào thời kỳ Hùng Vương hay đầu thế kỷ XX, vẫn thường mặc váy-yếm với hai tay và lưng để trần. Trời nắng thì thêm cái áo ngắn có xẻ tà hai bên hông gọi là áo cánh. Áo có đính cúc nhưng khi mặc thường không cài, vừa để cho mát, vừa để hở cái yếm làm duyên.”

Mà ngay cái yếm cũng chỉ để che kín phần ngực, phần lưng vẫn để trống và đôi khi cái yếm còn được cắt hẹp lại để hở hai bên sườn trông thật hấp dẫn. Câu ca dao dưới đây chắc đã được sáng tác trong khoảng thời gian người đàn ông Việt Nam còn đóng khố khi làm việc ngoài đồng áng:

Đàn ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh!

Vào cái thuở thật xa xưa đó, cái thuở chưa có cái xú chiêng ngự trị trên cặp nhũ hoa của người phụ nữ Việt Nam mà chỉ có cái yếm trắng, yếm đào . . đã có biết bao nhiêu chàng trai chết mê chết mệt vì những cái yếm đó nhỉ? Ngay cả những anh đồ, tức những ông thầy dạy chữ nho ngày xưa cũng phải lụy vì cái yếm của những cô nàng thôn nữ:

Yếm thắm mà nhuộm hoa nương
Cái răng hạt đỗ làm tương anh đồ!
Yếm thắm mà vã nước hồ
Vã đi vã lại anh đồ yêu đương!

Cái yếm đã đẹp và gợi tình thì cái dải yếm nào có kém gì. Hình ảnh của đôi dải yếm phất phơ trong gió sao mà quyến rũ, sao mà đa tình đến thế

Con cò lặn lội bờ ao
Phất phơ hai dải yếm đào gió bay!

Con cò ở đây là hình ảnh tảo tần của người phụ nữ Việt Nam.

Ngoài cái công dụng buộc miếng vải yếm vào phần ngực của người phụ nữ, có người còn dùng dải yếm để buộc cái túi vải nho nhỏ đựng dăm bảy khẩu trầu hay đựng mấy đồng tiền để dành:

Trầu em têm tối hôm qua
Cất trong dải yếm mở ra mời chàng!

Hay:

Trầu đã có đây, cau đã có đây,
Nhân duyên chưa định trầu này ai ăn
Trầu này, trầu túi trầu khăn
Cùng trầu dải yếm anh ăn trầu nào?

Hay:

Tiền buộc dải yếm bo bo
Trao cho thầy bói đâm lo vào mình!

Thông thường, người phụ nữ tự chọn vải, chọn màu rồi tự cắt may lấy cái yếm để dùng. Thế nhưng, đôi khi chiếc yếm cũng được sản xuất hàng loạt để đem bày bán. Và từ đây, chiếc yếm đã là một tặng phầm hết sức thân tình để trở thành những kỷ vật rất được trân trọng của người phụ nữ.

Có thể các bậc phụ huynh chọn một chiếc yếm có giá để làm quà cho cô con gái trước ngày vu quy:

Con lạy cha hai lạy một quỳ
Lạy mẹ bốn lạy con đi lấy chồng
Mẹ sắm cho con cái yếm nhất phẩm hồng
Thắt lưng đũi tím, bộ nhẫn đồng con đeo tay

Có thể là một chàng trai mua một chiếc yếm để tặng người yêu:

Anh mua cho em cái yếm hoa chanh
Ra đường bạn hỏi, nói của anh cho nàng!

Có một chàng trai khen một cô gái mặc chiếc yếm thắm bé bé xinh xinh. Chàng khen “người cắt cũng khéo, người khâu cũng tài”. “Người” ở đây chưa xác định là ai. Thế nhưng, ngay mấy câu tiếp chàng lại xác định chính chàng đã thêu nhạn, thêu hoa trên chiếc yếm:

Hỡi cô yếm thắm lòa lòa
Yếm nhiễu, yếm vóc hay là trúc bâu?
Hay là lụa bạch bên Tàu?
Người cắt cũng khéo, người khâu cũng tài!

Một đàng anh thêu nên nhạn
Hai đàng anh mạng nên hoa
Yếm ấy anh để trong nhà
Khen ai mở khóa đem ra cho nàng!

“Khen” thì ai khen? Và “ai” ở đây là ai? “Yếm ấy anh để trong nhà” và chắc là “anh” đã cất kỹ lắm, có thể là trong rương và chìa khóa “anh” giữ. Vậy thì “ai” có thể “mở khóa đem ra cho nàng”? Còn ai trồng khoai đất này nữa chứ? Chính chàng đã tự khen mình tạo nên chiếc yếm xinh đẹp và chàng đã tự tay mang ra tặng cho nàng. Và chàng lại tự khen cái hành động tỏ tình tha thiết của mình. Khéo thật

Và cũng từ cái việc tặng yếm này, chúng ta còn bắt gặp một bài ca dao thật ngộ. Bài ca dao như thế này:

- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím
Em có chồng rồi, em trả yếm cho anh!
- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh
Yếm em em mặc, yếm gì anh anh đòi

https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEgPdNXY9hS1a0NMr8FmipYohyRv-jFFp3rYwutPLxF1itulM_Yzlcq4pkMnrxBKcCtTX-Dy44d_mJ2Ws1iDlxQVgjL99H2uLvu8yTv8W6ZMkSkgWKhKmD__HOW6YFowB5oIezBVRSK5NXMsRnJ9rYjk299oEzRyof8IebTvGCeSDI53=s0-d-e1-ft&image=/Kiwi35/2yd.jpg

Đây là một khúc ca đối đáp giũa một người nam và một người nữ. Chúng ta thử minh xác xem đây là một cuộc trả yếm hay là một cuộc đòi yếm.Vì đây là một khúc ca được thể hiện trong một buổi hát đối đáp nào đó nên nội dung đích thực của nó chỉ là một giả thiết. Tuy nhiên, dù chỉ là một giả thiết thì giả thiết đó cũng phải phản ảnh được tâm tình chung của quần chúng thì mới được quần chúng lưu truyền cho tới ngày nay.

Chúng ta sẽ không bàn đến câu 1 và câu 3, vì 2 câu này chỉ là câu đưa đẩy thuộc thể phú trong nghệ thuật cấu tạo một bài ca dao. Quả thực nó không liên quan gì đến câu 2 và câu 4, và vì vậy, dù hoa cúc vàng có nở ra bất kỳ loại hoa gì gì đi nữa thì nó cũng không làm thay đổi ý nghĩa đích thực của câu 2 và câu 4.

Có 2 giả thiết:

Giả thiết 1: Nếu cô gái hát trước thì đây là trường hợp xin trả yếm. Ta có thể nói xuôi ý câu này như sau: Đây là chiếc yếm anh tặng em khi chúng mình yêu nhau, nhưng nay vì duyên nợ không thành, bây giờ em đã có chồng, nên em xin trả chiếc yếm này cho anh . Và chàng trai đã trả lời một cách dịu dàng: Quả là anh có tặng em chiếc yếm đó, thế nhưng bây giờ em đã mặc nó và vì vậy bây giờ nó là của em. Nó đâu còn là của anh nữa mà bảo anh đòi!

Giả thiết 2: Nếu người con trai hát trước thì đây lại là đòi yếm. Lời người con trai thật cương quyết: Ngày trước tôi có cho cô một cái yếm. Nay cô đã có chồng cô phải trả lại cái yếm đó cho tôi. Cô gái đốp chát lại một cách đanh đá: Này, tôi bảo cho mà biết, yếm tôi đang mặc thì nó phải là yếm của tôi chứ yếm gì của anh mà anh lại đòi! Vô duyên!

Xét về phương diện tâm lý, đã có can đảm đòi lại cái yếm mà mình đã cho người mình yêu, dù rằng người yêu của mình đã ôm cầm sang thuyền khác, thì đó là một hành vi không còn tình nghĩa. Đã không còn tình nghĩa thì giọng điệu phải gay gắt. Giọng điệu của chàng trai đã gay gắt thì giọng điệu của cô gái cũng phải chua ngoa cho tương xứng. Cứ xét theo giọng điệu thì giọng điệu của câu 2 không thể là giọng điệu của một người “đòi nợ” và giọng điệu của câu 4 không thể là giọng điệu của một người “bị đòi nợ”. Chữ “em” và chữ “anh” trong câu 2 và trong câu 4 nghe hiền lành, tràn trề tình cảm. Thử là giả thiết 2, bài ca dao phải được chuyển cách xưng hô như sau:

- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím
Cô có chồng rồi cô trả yếm cho tôi

- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh
Yếm tôi tôi mặc, yếm gì anh anh đòi!

chứ không thể là cách xưng hô “anh-em” “em-anh” tình tứ như thế được. Vả lại, anh con trai nào lại chẳng nhớ nằm lòng câu ca dao này:

Bắc thang lên hỏi ông Trời
Của chàng cho thiếp liệu đòi được chăng?
Bắc thang lên hỏi ông Trăng
Của chàng cho thiếp nói năng thế nào?

Cái yếm nó cũng quái ác lắm. Những cô gái mặc những chiếc yếm đào, yếm hồng, yếm thắm, yếm đỏ . . . đã làm cho bao chàng trai chết mê chết mệt như ăn phải bùa mê thuốc lú, không còn biết trời trăng mây nước gì nữa:

Chùa này chẳng có Bụt ru
Mà đem chuông khánh treo chùa hồ sen
Thấy cô yếm đỏ, răng đen
Nam mô di Phật lại quên mất chùa!

Mà đâu có phải chỉ làm say mê những chàng trai dân dã, những anh đồ nhá chữ thành hiền, ngay những bậc tu hành mà lòng trần chưa dứt đôi khi cũng bị mấy cô yếm thắm, yếm đào đưa vào mê lộ:

Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư . . .
Ốm lăn ốm lóc nên Sư Trọc Đầu

Cái yếm là vật thiết thân của đàn bà con gái, thì cái yếm cũng là vật thân thiết của giới đàn ông con trai. Gặp cô gái không cần biết tên họ là gì, cứ theo màu yếm cô nàng đang mặc mà gọi, cô nàng cũng biết là chàng trai đang gọi ai rồi. Thiệt là kín đáo mà tình tứ biết bao!

Gặp một cô mặc yếm trắng, thế là anh chàng có cớ để chòng ghẹo :

Hỡi cô yếm trắng lòa lòa
Sao cô không bảo mẹ già nhuộm thâm?
Ước gì anh được ở gần
Để anh nhuộm hộ thấm nhuần công anh!


Sao mà tình tứ quá vậy! Sao mà hiền lành quá vậy! Chỉ xin được ở gần để nhuộm hộ cái yếm lấy công thôi! Sao anh chàng này lại khôn thế nhỉ? Thế nhưng, theo Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu trong Đất Lề Quê Thói, thì “thực ra, không ai mặc yếm nhuộm thâm, nhưng chàng trai đã mánh lới nói trái vậy để chòng ghẹo, và để cô gái dễ có cớ trả lời.”
Cũng lại cái “yếm trắng lòa lòa”, lần này cũng lại bị chọc quê :

Cô kia yếm trắng lòa lòa
Lại đây đập đất trồng cà với anh
Bao giờ cà chín, cà xanh
Anh cho một quả để dành mớm cơm!

Này đây một anh chàng ngồi trên con dò dọc đang buông lời tình tứ mời mọc một cô nàng yếm thắm:

Hỡi cô yếm thắm răng đen
Muốn lên mạn ngược ngồi thuyền cùng anh!

Này đây một anh chàng lái đò khác đang buông lời chòng ghẹo dớ dẩn:

Thuyền anh đã cạn lại đầy
Mượn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền

Cái dải yếm chỉ lớn bằng mút đũa con mà đòi “mượn . . . làm dây kéo thuyền”. Mượn gì mà oái oăm thế! Thế nhưng cô gái cũng không vừa. Cô không từ chối thẳng thừng sợ làm buồn lòng anh chàng lái đò “tinh nghịch”, cô chỉ hứa khéo với lời ước ao không bao giờ thành hiện thực:

Ước gì dải yếm em to
Để em buộc lấy mũi đò kéo lên
Ước gì dải yếm em bền
Để em buộc lấy kéo lên trên bờ!

Này đây một anh chàng buông lời đùa cợt cái kiểu “muốn cho mình rinh cho người” :

Con cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?

Hay:

Hỡi cô yếm đỏ lòm lòm
Lại đây tôi gả thằng còm cho cô....

Nhưng cái anh chàng dưới đây mới thật là “tinh nghịch”.

Hỡi cô yếm thắm đeo bùa
Bác mẹ có bán anh mua nửa người
Anh mua từ rốn đến đùi
Từ bụng đến mặt mặc trời với em!

Vậy là cái “yếm thắm” dù có đeo bùa cũng không quyến rũ nổi anh chàng “tinh nghịch”! “Ý tại ngôn ngoại” mà lại!

Này đây một anh chàng đang buông lời chòng ghẹo chua ngoa:

Hỡi cô mặc yếm hoa tằm
Chồng cô đi lính cô nằm với ai?

Đây có thể là một câu hỏi có vẻ “lần khân” nhưng nó lại có thể phản ảnh cả một thực tế lịch sử chua cay của người phụ nữ Việt Nam trong những thời chinh chiến. Có những thời kỳ mà người đàn ông phải ở trong quân ngũ suốt cả một quãng đời trai trẻ “tuổi chưa đến 60 chẳng được về làng cùng cha mẹ vợ con đoàn tụ...” (Thích Đại Sán - Hải Ngoại Ký Sự)

Có những phụ nữ sống trong khắc khoải chờ chồng thời chinh chiến thì cũng có những phụ nữ sống buông thả luông tuồng “chính chuyên lấy được chín chồng, vo viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi!...” để rồi bị người thiên hạ mỉa mai trách móc:

Hỡi cô yếm thắm bùa đeo
Chồng cô cô bỏ cô theo chồng người!

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương có một bài thơ vịnh “Thiếu nữ ngủ ngày” vẽ ra một hình ảnh thiệt ngộ : cô thiếu nữ “quá giấc nồng” để gió thổi tụt yếm xuống đến giữa ngực “yếm đào trễ xuống dưới nương long”phơi bày cả bộ nhũ hoa mát rượi “đôi gò bồng đảo sương còn ngậm”, khiến cho anh chàng “quân tử dùng dằng đi chẳng dứt ; đi thì cũng dở, ở không xong!”. Chàng “quân tử” ở đây còn dùng dằng, lưỡng lự, “tiến thoái lưỡng nan”, chứ chàng trai trong ca dao gặp cảnh này đã sấn sổ đến ngay không chút e dè.:

Đôi cô vác gậy chòi đào
Cô lớn, cô bé, cô nào với ai?
Cô lớn vuốt bụng thở dài:
Trời ơi, đất hỡi! Lấy ai đỡ buồn?

Cô bé mặc yếm hở lườn
Đêm nằm ngỏ cửa con lươn bò vào!
Gió nam đánh tốc yếm đào
Anh nghĩ oản trắng, anh vào thắp nhang
Hai cô bốn oản rõ ràng
Anh xin một chiếc, cô nàng không cho!

Rõ ràng là chàng trai đã giả vờ “trông gà hóa cuốc” để rồi lần khân sấn sổ đến gần hỏi xin một “phẩm oản” và dĩ nhiên là cô nàng từ chối!

Như đã được mô tả, chiếc yếm có lớn lắm cũng chỉ bằng hai bàn tay xòe là cùng. Ấy vậy mà, đã có chàng trai mơ ước được đắp chiếc yếm của người tình và chàng nghĩ nó sẽ ấm, ấm lắm, không chiếu chăn nào có thể sánh nổi:

Đêm nằm đắp chục chiếc chăn
Làm sao sánh được ấm bằng yếm em!

Đắp chiếc yếm mà thấy được hơi ấm đã là lạ, nhưng không lạ bằng chàng trai sau đây. Óc tưởng tượng cuả chàng đã vẽ nên một hình ảnh tuyệt diệu mà chúng ta có thể nghĩ rằng chỉ có tình yêu mới có thể cho chàng được sức tưởng tượng dồi dào đến mức ấy:

Trời mưa trời gió kìn kìn
Đắp đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông!

Trời ạ! Đắp đôi dải yếm! Phải chăng hơi hướm của người tình đã chuyền hơi ấm vào đôi dải yếm đa tình để tạo cho nó thành một lò sưởi?

Đôi dải yếm tuyệt diệu làm vậy nên chàng trai đã có một ước mơ thật kỳ lạ, đó là giấc mơ hóa kiếp của chàng. Tương truyền Nguyễn Công Trứ đã có lần ước mơ hóa kiếp thành “cây thông”:

Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Sườn trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông

Ông là một nhà tướng, ông lại là một nhà thơ, ông muốn tiếng thơ của ông cùng đất trời vang vọng, còn chàng trai trẻ đa tình của chúng ta thì có một ước vọng “đa tình” một cách lạ kỳ. Chàng muốn biến thành cái dải yếm để mãi mãi được quấn quýt bên cạnh người tình:

Kiếp sau đừng hóa ra người
Hóa ra dải yếm buộc người tình nhân!

Trong lúc chàng trai ước hóa ra dải yếm để được “buộc người tình nhân”, thì cái ước vọng của cô gái – cái ước vọng mãnh liệt muốn được giao hòa, muốn được cảm thông – đã biến cái dải yếm mong manh thành chiếc cầu bất hủ của tình ái để đón người tình:

Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi!

Quả là người ta không thể lấy cái kích thước bình thường để đo lường rồi phê phán hình ảnh tuyệt diệu trong câu ca dao này mà người ta phải lấy kích thước của “khát vọng tình yêu” để nhận chân một tấm chân tình.

Nếu có một chàng trai nói lên giấc mơ “đa tình” của mình thì lại có một cô gái nói lên giấc mơ “tinh nghịch” thật oái oăm:

Ước gì dải yếm em dài
Để em buộc lấy những hai anh chàng!

Bởi cô nàng ao ước “buộc lấy những hai anh chàng” nên cô nàng đã bị thiên hạ mỉa mai:

Lả lơi cho rách yếm ra
Về nhà dối mẹ yếm thông hoa không bền!

Hình thức của cái yếm cũng là biểu tượng về đời sống thường nhật của người phụ nữ Việt Nam. Khi còn son trẻ, người phụ nữ còn nghĩ đến cách ăn mặc, còn nghĩ đến việc giữ gìn sắc đẹp:

Tấm yếm đào sao em khéo giữ màu
Răng đen rưng rức, mái tóc đầu em hãy còn xanh.

Hay:

Con gái đang thì đã nên con gái
Cái áo em mặc chải chải hoa hồng

Nhưng khi đã có gia thất, trong đời sống khổ cực hằng ngày, họ thường hoài niệm về thời con gái còn sống dưới sự đùm bọc, yêu chiều của mẹ cha. Với họ, đây quả là một thời vàng son:

Khi xưa em ở với cha
Một năm chín yếm xót xa trong lòng
Từ khi em về nhà chồng
Chín năm một yếm, em lộn trong ra ngoài!

Khi đã có chồng, người phụ nữ Việt Nam thường ít khi nghĩ riêng về mình mà họ dồn tất cả cho chồng cho con, đúng với quan niệm “có chồng gánh vác giang sơn nhà chồng!”. Họ không còn nghĩ về bản thân mình nữa:

Chửa chồng nón thúng quai thao
Chồng rồi, nón rách quai nào thì quai.
Chửa chồng yếm thắm đeo hoa
Chồng rồi hai vú bỏ ra tày giành!

Và nhất nữa khi đã có con, càng có nhiều con, .đời sống của họ càng ngày càng vất vả hơn và bản thân họ trông cũng thật thảm não hơn:

Gái một con trông mòn con mắt
Gái hai con con mắt liếc ngang
Ba con cổ ngẵng, răng vàng
Bốn con quần áo đi ngang khét mù
Năm con tóc rối tổ cu
Sáu con yếm tụt, váy dù vặn ngang.

Cái yếm đã là vật thân thiết của người phụ nữ Việt Nam từ ngàn xưa.

Những chiếc yếm trắng, yếm nâu, yếm đào, yếm thắm . . . những chiếc yếm vải, yếm trúc bâu, yếm vóc, yếm nhiễu... .... đã quấn quýt với người phụ nữ Việt trên hai ngàn năm đó... bỗng một hôm bị cái xú-chiêng của người phương Tây tranh giành mất địa vị.

Chiếc yếm thủy chung gợi cảm đã phải từ tốn âm thầm rút lui vào bóng tối nhường chỗ cho chiếc xú-chiêng ôm ấp bộ ngực căng tròn nõn nà của người phụ nữ Việt Nam cho đến một ngày người ta không còn nhắc nhở đến cái yếm nữa. Ngày nay có nhiều phụ nữ Việt Nam không còn có thể hình dung ra hình dáng của cái yếm. Và đáng tiếc biết bao nhiêu, những chàng trai Việt không còn đêm đêm nằm mơ

Kiếp sau đừng hóa ra người,
Hóa ra dải yếm buộc người tình nhân!




Đào Đức Nhuận

SUM VẦY




PHÚC ĐỨC TẠI MẪU - ĐỌC ĐỂ SUY NGẪM



Ngày còn bé con cứ thắc mắc, tại sao trên đất nước này cái gì cũng mang dấu ấn sự tôn vinh người Mẹ. Dòng sông lớn nhất ở phía Bắc đất nước ta quen gọi sông Hồng cũng còn có tên khác là sông Cái. Con đường nào lớn gọi là “đường cái”. Thứ tiếng ta nói hàng ngày cũng gọi là tiếng “Mẹ đẻ”.

Tổ Quốc thiêng liêng cũng được gọi với giọng tha thiết là “đất Mẹ”. Trên dải đất nhỏ hẹp mang hình chữ S này đâu đâu cũng có những đền thờ Mẫu. Bài học đầu tiên con trẻ được học cũng là từ trường Mẫu giáo và do các cô bảo mẫu truyền dạy. Đến cái đũa lớn nhất để xới cơm ở quê mình cũng gọi là “đũa cái”, “đũa cả”.

NHỚ LỜI MẸ DẶN

Mẹ không được học chữ, vậy mà khi con học xa nhà, có một lần mẹ đã cố gắng viết cho con mấy dòng ngắn ngủi, nét chữ run rẩy và to như trẻ con học mẫu giáo tập viết. Mẹ viết: “Mẹ ít học hơn con nên mẹ tin con hiểu đời nhiều hơn mẹ. Mẹ chỉ muốn dặn con một điều rằng con đi xa hãy nhớ: Ăn một miếng của người con tạc ân vào dạ; Học một chữ ở đời con xem nặng nhẹ bao nhiêu”.

Lời dặn của mẹ đã làm con khóc. Và con tâm niệm điều đó suốt cả cuộc đời và nó đã trở thành lẽ sống của con.

Hôm con phỏng vấn xin việc vào công ty của Nhật cùng với ba chục người khác. Con không giỏi vi tính và ngoại ngữ như họ, song người được lựa chọn lại là con. Mẹ có biết họ hỏi con câu gì không? Họ hỏi con câu nói nào và của ai gây ấn tượng và có tác động mạnh đến cuộc sống của con, con đã nói lại lời mẹ dặn.

Họ bảo: “Vi tính và ngoại ngữ cần, nhưng bạn có thể học trong vài tháng. Chúng tôi cần hợp tác với một người nặng lòng biết ơn và biết chắt lọc trong học hỏi”. Mẹ ơi, chính mẹ đã để phúc đức cho con!

NHỮNG LÁ THƯ CŨ

Con và chồng con có xích mích lớn vì con nghi anh ấy vẫn gặp gỡ với người bạn gái cũ. Con bực mình bỏ nhà chồng về khóc lóc với mẹ. Tối ấy mẹ mang từ trong chiếc hòm cũ ra một tập thư đã ố vàng. Đó là những lá thư của người yêu cũ gửi cho bố con trước đây.

Mẹ bảo khi bố quyết định lấy mẹ, bố định đem hết đám thư và ảnh của người yêu cũ ra đốt đi để chứng minh sự “một lòng một dạ với mẹ”. Mẹ đã ngăn lại và bảo: “Thư anh đốt mà lòng anh còn nhớ cũng chẳng ích gì. Hãy cứ để em giữ lại làm kỉ niệm.

Thỉnh thoảng anh đọc lại cũng thấy vui. Dù sao đấy cũng là những kỉ niệm gắn bó với anh một thời, sao lại cạn tàu ráo máng như vậy”. Bố sững sờ và ôm chầm lấy mẹ cảm động lắm. Thỉnh thoảng bố mẹ còn đọc lại những lá thư ấy, nhưng bố cả đời thuỷ chung với mẹ.

Hôm ấy con đã khóc thật nhiều và con tự tìm về nhà làm lành với chồng. Mẹ nói ít nhưng mẹ dạy nhiều. Chính mẹ đã lấy lại cho con hạnh phúc!

HAI VÙNG SÁNG TỐI

Khi em trai con đưa người yêu về ra mắt, con không ưng ý lắm. Mẹ im lặng không nói gì. Sau hôm gặp mẹ cô ấy, mẹ nhận xét: Mẹ cô ấy hiền hậu, phúc đức lắm. Người mẹ như thế chắc chắn cô con gái sẽ là đứa con ngoan, dâu hiền.

Mẹ đã không lầm. Hôm mẹ chồng tương lai của con sang chơi với mẹ, cụ cũng nhận xét về con y như thế. Hoá ra nhiều người nhìn nết mẹ mà đoán tính cách của con.

Năm trước con đọc báo thấy có chuyện một cô gái đang tâm đẩy con chồng xuống sông Hồng. Một thời gian sau thấy có bà dì ghẻ bắt con chồng tự khâu miệng mình lại. Con nhận xét rằng phụ nữ nhiều người ác quá. Mẹ lại bảo “phúc đức tại mẫu, những người như thế rồi lại ác giả ác báo thôi”.

Mẹ nói với con rằng những người ác chỉ là số ít, đừng vì thế mà vơ đũa cả nắm. Mẹ chỉ cho con thấy bao nhiêu người mẹ đã hy sinh hết lòng vì con, không ít người phụ nữ đã nhận nuôi hàng mấy chục trẻ mồ côi mặc dù bản thân mình còn khó khăn, vất vả. Trong đời có hai vùng sáng tối, mẹ bảo con nhìn ánh sáng mà đi!

CƯỜI CHÚT CHƠI CHO VUI VUI !!!

RỂ QUÝ

Chàng rể đến nhà bạn gái chơi và nói chuyện với bố nàng. Ông bố muốn thăm dò tính tình chàng trai nên đặt câu hỏi thử thách.:
- Nếu bây giờ có một túi tiền và một túi đạo đức rơi trên đường thì anh nhặt túi nào?
- Cháu nhặt túi tiền - chàng trai nhanh nhảu trả lời.
Với vẻ mặt thất vọng, bố cô gái nói:
- Tôi biết ngay mà, các anh chị bây giờ coi tiền là trên hết, ngay cả đạo đức cũng chẳng coi vào đâu. Nếu là tôi thì tôi sẽ nhặt túi đạo đức. Chàng trai nghe thế bèn vội vàng sửa chữa:
- Vâng, cháu nghĩ không nhất thiết phải nhặt túi tiền. Ai thiếu cái gì thì nhặt cái đó ạ.

XIN SỐ ĐIỆN THOẠI

- Alô ! Con chim nhỏ của anh đấy à ?
- Không ! chim bố đây.
- Ấy chết ! Cháu xin lỗi bác! Bác có khỏe không ạ ?
- Khỏe để đánh nhau với ai ?
- Dạ ... cho cháu hỏi Trang có nhà không ạ ?
- Nó không có nhà thì là dân vô gia cư à ?
- Dạ, dạ ... ý cháu là Trang có ở nhà không ạ ?
- Nếu không thì sao?
- Thế ... Trang đi đâu ạ ?
- Ðến cơ qua rồi.
- Bác cho cháu số điện thoại của Trang được không ạ ?
- Nó có nhiều số lắm !
- Bác cho cháu xin một số thôi ạ !
- 8...
- 8 rồi... mấy nữa ạ?
- Thì cậu bảo chỉ cần một số thôi mà?
- Dạ bác cho cháu xin nốt mấy số còn lại luôn ạ
- 5 7 3 6 8 2, còn... sắp xếp sao thì tùy cậu .

CHIỀU VỢ

Vợ cằn nhằn:
- Từ hồi lấy nhau tới bây giờ, tôi làm cái gì ông cũng cản, nào là “Đừng mua sắm...”, “Đừng ăn diện...”, nào là “Đừng ngồi lê đôi mách với mấy người hàng xóm...”, tôi chán mấy chữ “Đừng” đó lắm rồi. Sao chẳng bao giờ ông nói: “Ừ, mua đi em” , “Ừ làm đi em...”. Chắc tôi phải dọn về nhà ba mẹ tôi ở quá!
- Ừ, đi đi em !!!!

CHÀNG RỂ KHIÊM TỐN 

Bố vợ nói với con rể tương lai:
- Thế là con gái tôi đồng ý làm vợ anh rồi. Anh đã định ngày cưới chưa?
- Con sẽ dành điều đó cho vợ chưa cưới của con.
- Thế anh muốn cưới ở hội trường thuê hay ở nhà riêng?
- Dạ thưa, con để cho mẹ vợ quyết định.
- Sau khi cưới vợ anh sẽ sinh sống bằng nguồn nào?
- Dạ, con sẽ hoàn toàn dành điều đó cho bố đấy ạ.

ĐÀN BÀ GIỎI THẬT

Một bà sau khi cho tiền ông hành khất ở cuối nhà thờ liền hỏi:
- Sao ông ra nông nỗi này, vợ con ông đâu?
- Thưa bà, vợ tôi chẳng may qua đời rồi ạ. Nếu vợ tôi còn thì tôi đâu đến nông nỗi này ạ.
Bà quay sang ông chồng:
- Thấy chưa, đàn bà là đảm đang lắm. Không có đàn bà là chỉ có nước đi ăn mày. Nhưng khi còn sống bà ấy làm gì hả ông?
- Thưa nó đi ăn mày thay cho tôi ạ.

THIẾU SỮA TỐT 

Một anh chàng có vợ mới sinh. Anh viết thư về khoe với mẹ :
- "Vợ con đã sinh một đứa con trai nhưng vì vợ con không có sữa nên đã phải nhờ một bà da đen cho bú. Vì thế, khi con gặp thì thấy đứa bé có tóc xoăn và da đen như người châu Phi...."
Bà mẹ ngay lập tức viết thư cho con trai:
- "Con trai yêu quí, mẹ rất mừng khi nhận được thư con. Ngày xưa, khi mẹ sinh con, mẹ cũng không có sữa nên đã phải cho con bú sữa bò. Vì thế, bây giờ con vừa ngu vừa có sừng.......''

BÁC SĨ GIỎI

Bác sĩ cẩn thận kiểm tra sức khoẻ cho nó và phát hiện thằng bé bị thiếu cân khá nhiều do suy dinh dưỡng. Bác sĩ hỏi:
- Hàng ngày, chị cho cháu bú sữa mẹ hay bú bình?
- Sữa mẹ! - Người phụ nữ đáp. -
- Vậy thì chị cởi áo ra! - Bác sĩ yêu cầu.
Người phụ nữ làm theo và bác sĩ khám tỉ mỉ, xoa nắn trên, dưới, xoắn phải, xoắn trái một hồi. Ra hiệu cho người đàn bà mặc áo vào, ông bác sĩ kết luận: - - Hèn gì thằng bé suy dinh dưỡng. Chị chẳng có chút sữa nào cả!
- Tôi biết! - Thiếu phụ công nhận - Nhưng tôi là bà ngoại của nó mà!

hiếc đĩa cổ trong phiên chợ Tết





Tôi có thú vui duy nhất là chơi đồ cổ. Không thể diễn tả cái niềm đam mê cuồng nhiệt ấy trong một vài trang giấy. Hệt như người ta mê cải lương, mê bóng đá, mê các ngôi sao, mê sách vở… Nói tóm lại, đứng trước món đồ cổ nào càng xưa càng cũ là lòng tôi mềm nhũn xuống, tim đập liên hồi, mắt chớp liên tục, tay chân như cuống lên và điều cuối cùng là phải tìm cách mua cho bằng được món đồ ấy! 
Nghề bán đồ cổ đã cho tôi nhiều lần trúng đậm, dạy cho tôi nhiều bài học, lời lãi khá lớn nhưng cũng cho tôi nhiều vố xất bất xang bang, mua lầm đồ giả cổ, thiếu điều bán nhà trả nợ. Nhưng cái máu mê đồ cổ thì không gì dứt ra được. Hễ có ai giới thiệu món đồ nào thì dù ở đâu, khó nhọc cách mấy tôi cũng cất công tìm đến…

Như trưa nay trong phiên chợ Tết, khi tôi đang ngồi ngáp vặt vì hàng đang ế ẩm thì một ông già gầy gò, mặt xương xẩu, tóc lơ thơ búi thành chùm bạc trắng đâu như người miệt vườn đến gặp. Chẳng dông dài, úp mở, ông bảo nhà có món đồ cổ, là chiếc đĩa thời Khang Hy bên Tàu do ba ông để lại và mời tôi đến coi, định giá, phải thì bán không thôi. Đang rảnh việc và máu mê đồ cổ nổi lên, tôi đóng cửa tiệm, đèo ông già về tận Vĩnh Châu, một xã nghèo giáp biên giới, cách chỗ tôi hàng chục cây số. Trên xe, tôi có ý dọ hỏi về món đồ nhưng ông già kín như bưng, không hé răng nửa lời, chỉ nói chuyện khi tôi tận mắt thấy và định giá. Tôi biết là đã gặp dân rành chơi đồ cổ.Vì dân sành sỏi trong nghề mới nói chuyện tiền nong chỉ khi nào món đồ được đưa ra trước mặt.

Đó là một căn nhà rách nát, trống hoác từ ngoài vào trong. Không thấy đồ đạc gì ngoài chiếc chỏng tre tơi tả và một thằng bé dơ bẩn nằm bất động trên đó. Chắc là nó bệnh nên thỉnh thoảng cất tiếng rên nho nhỏ. Tôi hình dung trên đoạn đường đi là sẽ gặp một ngôi nhà to lớn, sang trọng cầu kỳ vì đồ cổ giá trị thường chỉ ở những ngôi nhà nầy. Cho nên, khi chưa vào nhà, tôi đã thất vọng định lui xe vì nếu có coi cũng thêm rách việc. Hoặc đó chỉ là đồ giả cổ hoặc là đồ ba mớ, chẳng giá trị gì mà người bán còn gân cổ cãi chày cãi cối cứ cho đồ mình là thật!

Nhưng rồi tôi cũng bấm bụng bước qua cái ngạch cửa bằng liếp tre nhớp nhúa đầy sình đất để vào nhà. Từng đàn muỗi vo ve dưới chân tôi và cả ngôi nhà như bốc lên mùi khó chịu. Tôi cố nín nhưng cuối cùng chịu không nổi đành bỏ ra ngoài. Đập vào mắt tôi là hình hài một thằng bé chỉ còn da bọc lấy xương, nước mắt nước mũi ròng ròng cố giương cặp mắt đờ đẫn lên nhìn khách lạ. Tôi biết mùi khó chịu kia là do chỗ thằng bé phát ra. Chắc nó đã nằm liệt giường từ lâu, không ai chăm sóc, rửa ráy nên mới thế. Thật tội nghiệp! Nó mới chỉ đâu chừng mười lăm, mười sáu tuổi, gương mặt lại không đến nỗi nào… Nhưng thôi! Chuyện thiên hạ, dính vô làm gì. Tôi tự bảo vậy và ngồi ngoài hịên chờ ông già mang chiếc đĩa cổ ra.

Chỉ một lát, ông già xuất hiện với tấm vải choàng rách bươm bọc chiếc đĩa trên tay. Lật hết lớp nầy đến lớp khác, chắc là chiếc đĩa được cất kỹ lắm, nên khi lớp vải cuối cùng được giở ra thì trước mắt tôi là một ánh bạc trong suốt và làn vân rồng phụng màu xanh lục nổi lên sáng trưng đập vào mắt. 



Là người trong nghề, tôi lạ gì những chiếc đĩa cổ. Đúng là đồ thật, không thể khác được, không cần coi tôi cũng biết chính xác nó được làm từ thời Khang Hy! Anh sắc sáng trưng, nét vân lộng lẫy và nước men như ngọc phách tinh tuyền. Chính là nó, vật tôi đang tìm cho một người khách nước ngoài. Ông ta dặn đi dặn lại nếu tìm được chiếc đĩa, ông sẽ mua với bất cứ giá nào! Tôi sung sướng cố kìm tiếng kêu mừng rỡ chỉ chực phát ra. Dịp may đã đến trong dịp tết nầy.

Nhưng tội gì không ép giá khi mà người bán lại là một ông già lẩm cẩm. Làm bộ lơ đãng săm soi, tôi cố nhìn và đánh giá người đối diện để xuất chiêu hơn là nhìn chiếc đĩa. Ông già coi bộ khù khờ nhưng không phải không biết gì. Máu con buôn của tôi nổi lên! Cứ theo lối dậm dừ, ngấm ngứ nghĩa là làm như thư thả, chẳng gì phải gấp gáp, vồ vập để người ta nghĩ mình không cần mua. Vừa lấy kiếng lúp soi các chữ tàu màu xanh tuyệt đẹp trên miệng đĩa, tôi hỏi thăm đủ chuyện trên đời cốt làm cho ông già mất phương hướng, không chủ ý tập trung. Kinh nghiệm mua bán mấy chục năm trời mách cho tôi biết hãy cứ làm cho người bán tin rằng mình không có ý dìm giá, thật lòng muốn mua rồi hẳn tính sau. Hơn nữa, nếu mà không mua được giá cao, thì thế nào người bán cũng nhờ mình đi tìm chỗ khác kiếm hoa hồng. Đằng nào cũng lợi!

Trong khi tôi ngôi tính kế cao thấp tìm cách mua chiếc dĩa với giá nào rẻ nhất thì thằng bé trong nhà khẽ rên lên. Nó uốn cong người có vẻ đau đớn lắm. Đôi tay khẳng khiu hình như muốn đưa lên cao nhưng không được vì đã quá yếu sức. Cặp mắt nó trợn ngược, mất hết vẻ tinh anh, chỉ toàn tròng trắng. Tôi biết đã đến lúc cần tranh thủ lúc ông già luống cuống, khổ sở để định giá. Không ai có thể minh mẫn khi đối diện với những cơn bối rối sốt ruột dù rành giá cách mấy. Trăm lần như một tôi mua được giá hời nhờ những lúc khó khăn bất ngờ như thế của người bán.

Ông già trở ra sau khi cho thằng bé uống một loại nước gì như rễ cây ép xanh lè mà tôi cứ ngợ ngợ giống màu chiếc đĩa. Ngật ngưỡng một hồi, nó mới chịu nằm yên. Tôi quay mặt đi nơi khác vì khó chịu quá, mùi nằng nặng từ người nó bốc lên không chịu nổi. Nếu không vì cái đĩa quý nầy cầm chân thì chắc hẳn có cho tiền tôi cũng không dám tới nơi đây.

Tôi đã tính đánh giá trước và định ra số tiền tôi muốn mua chiếc đĩa nhưng cứ phân vân, ngập ngừng. Phần tôi sợ ông già biết tôi bắt chẹt giá, phần khác tôi lo ông đã hỏi giá ai trước nên thôi, cứ để ông già lên tiếng. Chẳng mất đâu mà lo! Đằng nào chiếc dĩa nầy cũng là của tôi!
Săm soi chiếc đĩa một hồi, ông già mới nói, giọng tiếc nuối:

- Đây là vật cuối cùng có giá của dòng họ nhà tôi! Ba tôi trước kia giàu có lắm nhưng sau đó khánh kiệt vì mê chơi đồ cổ và hút thuốc phiện. Trước khi mất, ông chẳng để lại gì ngoài chiếc đĩa nầy dặn là đồ gia bảo, khi nào cấp thiết lắm mới bán. Đến khi tôi lấy vợ, có con rồi có cháu, chiếc đĩa vẫn ở đây, mặc dù nhiều lúc nhà không còn hột gạo. Thằng bé nằm trên giường mà cậu thấy là thằng cháu nội duy nhất còn ở với tôi. Ba mẹ nó đã mất trong một tai nạn xe cộ. Đến lúc ngặt nghèo nhất, tôi cũng cố giữ chiếc đĩa nầy… Nhưng bây giờ, nó bệnh nặng quá…

Tôi biết đã đến lúc thần tài lên tiếng với mình. Con người ai cũng có số! Cái đĩa quý nầy là của tôi, dù nó đã được định bán cách đây khá lâu. Tôi nhẩm tính trong đầu món lời khổng lồ nếu tôi mua được nó. Và thể hiện ngay điều đó bằng lời nói nhỏ nhẹ pha chút an ủi cảm thông:

- Tội nghiệp cho cháu! Thôi gì cũng không bằng mạng người, huống chi đây là cháu nội duy nhất của ông, lại mồ côi mồ cút! Tôi nghĩ, cứu cháu đi rồi hẳn hay! Biết đâu mai nầy cháu khoẻ mạnh lại chẳng làm ra tiền nuôi ông và sắm lại được những thứ còn quý giá hơn…

Có người cảm thông, chia xẻ với nỗi bất hạnh của mình, gương mặt ông già như bừng sáng hẳn lên. Ông nhìn tôi một hồi ,không nói tôi cũng hiểu là ông cần bán chiếc dĩa với giá cao nhất có thể. Và không đợi lâu như dự đoán của tôi, ông lên tiếng:

- Thú thật với cậu, tôi không rành giá trị của cái đĩa nên mời cậu về đây coi thử, được giá tôi mới bán. Nếu như không có thằng cháu bệnh nặng thế nầy, ai kêu giá bao nhiêu tôi cũng từ chối… Bây giờ cậu tính sao ?

Thật tình, đến lúc nầy, tôi mới thấy ngại. Chút lương tâm còn sót lại của tôi lên tiếng là tôi nên mua cho ông một giá cao, đúng với trị giá thật sự của chiếc đĩa để cụ lấy tiền trị bệnh cho thằng cháu. Nhưng cái máu con buôn lạnh lùng thì không bảo tôi như vậy… Đứng trước một món hời thế nầy mà không tìm cách kiếm lời nhiều thì hoạ có mà điên. Hơn nữa, tôi cũng cần tiền cho gia đình tôi… Tôi cũng có đứa con trạc tuổi thằng bé nầy. Nó đang đòi tôi mua cho nó bằng được chiếc xe gắn máy trong những ngày tết sắp tới…

Tôi lưỡng lự mãi nhưng cuối cùng cái máu nghề đã thắng. Là dân mua bán, khó ai dại dột không ép giá trong trường hợp nầy. Hơn nữa, như ông già nói, ông không rành về giá của chiếc đĩa cổ. Tôi lấy kiếng soi kỹ một lần nữa. Không một vết trầy sướt, không một lỗi sơ xuất dù nhỏ trong cái bảo vật thời Khang Hy kia… Khá cho đôi tay, con mắt tinh đời của người thợ xưa và cả người chơi đồ cổ! Một vết trầy hay một lỗi rất nhỏ thôi trên chiếc dĩa quý sẽ làm giảm giá trị rất nhiều. Nhưng phải nói với ông cụ bằng lời khác, bằng kiểu khác, kiểu của những con buôn ép giá. Phải tìm cách nào đó, sơ xuất nào đó để chê bai và nếu có thể, làm bộ dứt khoát không mua chiếc đĩa dù đã một vốn bốn lời.

- Thế nầy! - Sau một hồi suy nghĩ, tôi nói với ông già. - Như ông biết đây là chiếc đĩa quý và chẳng đăng đừng mới bán nó. Tôi sẽ mua nó nhưng sau khi xem kỹ, tôi thấy…

Ông già tỏ vẻ thất vọng, mặt buồn xo:

- Vậy là cậu… cậu… không mua. Thú thật với cậu, tôi đang cần tiền chữa chạy cho thằng cháu… Rất cần…

Con mồi đã vào bẫy! Chỉ chờ thế, tôi làm bộ suy nghĩ hồi lâu và đánh sập:

- Thấy hoàn cảnh ông cũng tội nghiệp, chiếc dĩa nầy tuy là thật đời Khang Hy nhưng có nhiều chỗ phồng dộp, lại vì để lâu ngày không biết cách lau chùi nên có mấy chỗ hoen màu. Ông coi không thấy đâu, chỉ dùng kính lúp như tôi mới nhận ra. Cảm thông với sự khó khăn của ông, tôi mua nhưng với giá không lời. Chỉ là mua giúp ông trong lúc ngặt nghèo. Không biết rồi tôi có bán lại cho ai được không?

Tôi đọc thấy trong mắt ông già sự biết ơn chân thành và nỗi vui mừng ra mặt. Lương tâm tôi chợt trỗi dậy, nặng nề và bức xúc. Thằng bé bệnh nặng nằm trên giường, con tôi, thuốc chữa bệnh, chiếc xe gắn máy… Những hình ảnh lướt qua lần lượt trong đầu làm tôi suy tính. Cả những đồng tiền nhảy múa trước mắt tôi… Chiếc đĩa nầy giá không dưới mười triệu…

Tôi nói như không phải là mình, tiếng lạc cả đi:

- Bốn triệu… Đó là giá mà tôi làm ơn mua cho cụ… Không thể cao hơn được nữa…

Như đặt cả niềm tin vào tôi, ông già ráng kèo nèo thêm ít tiền để chạy chữa cho thằng cháu nhưng tôi nhất định không chịu. Cái kỹ thuật cứng rắn, bắt chẹt và doạ bỏ về, không cần mua hàng của tôi hình như cũng có tác dụng. Cuối cùng ông già đồng ý với cái giá tôi đưa ra. Có lẽ trong đời, chưa bao giờ ông có được một số tiền lớn như thế. Run run cuộn lại tấm vải bó chiếc đĩa, ông nhìn tôi, khẩn khoản:

- Bây giờ chiếc đĩa đã là của cậu! Nhưng trước khi cậu mang đi, cho phép tôi được tạ lỗi với vong linh cha tôi vì đã không giữ được nó như lời trăn trối.

Ông già thành kính đặt chiếc đĩa lên giường, cạnh thằng cháu đang bệnh. Tôi thầm nghe ông khấn câu được câu mất rằng phải bán chiếc đĩa nầy để cứu cháu bé lòng ông cũng ân hận lắm, mong tiền nhân thứ lỗi vì không giữ được như ước nguyện… Rồi ông chậm rãi mở chiếc bọc, nhìn trân trối vào chiếc đĩa xanh lục kia như nói lời vĩnh biệt. Tôi thấy đôi mắt mờ đục của ông ngân ngấn nước. Lòng tôi cũng rối bời. Thật tình, đến nước nầy, tôi cứ mong trong đời tôi không có buổi mua bán nào như thế nữa…



… Câu chuyện có lẽ cũng qua đi như những chuyện mua bán hàng ngày của tôi về các món đồ cổ không có giá nào là chuẩn, chỉ tuỳ thuộc vào sở thích và giá trị lâu đời của nó đối với người mua. Sau chuyện mua được cái đĩa màu xanh lục thời Khang Hy với giá hời, tôi đã sắm cho cậu con trai chiếc xe gắn máy chơi tết. Rồi như phát vận từ chiếc đĩa may mắn nầy, nghề của tôi phất lên như diều gặp gió. Trở nên giàu có trong giới săn lùng đồ cổ, tôi giờ đã thành một người tăm tiếng, tiền bạc rủng rỉnh và nói theo ngôn ngữ của giới mua bán, tôi là một đại gia tầm cỡ…

Sáng nay, tôi đang ngồi uống cà phê trong nhà hàng thì một ông già chống gậy xin ăn tiến vào chỗ mình. Nhìn cái dáng gầy gò, gương mặt xương xương với mái tóc lơ thơ bạc trắng cột thành chùm, tôi đâm ngờ ngợ, hình như đã gặp ở đâu. Lục lại trí nhớ mình, tôi ngớ người ra! Thôi đúng rồi! Đúng là ông già bán chiếc đĩa thời Khang Hy màu xanh lục năm trước. Mới chỉ có một năm mà ông như già sọm đi, chân nhấc từng bước khó nhọc với cây gậy mò mẫm dò đường. Chiếc áo ông mặc đã rách bươm, trơ ra bờ vai nhăn nheo, gầy guộc. Ông lại gần, nghe tôi nhắc rất lâu mới nhớ ra đã có lần đưa tôi về nhà mua chiếc đĩa và run run trả lời khi tôi hỏi thăm thằng cháu với những giọt nước mắt đùng đục chảy ra từ trong hốc mắt sâu hoắm:

- Thằng cháu tôi mất rồi! Thuốc men chỉ cầm cự được vài tháng là hết tiền. Bác sĩ nói nếu có thêm vài triệu nữa đưa vào giải phẫu, may ra nó mới sống được. Nhưng cậu tính tiền đâu nữa. Chiếc đĩa là vật có giá cuối cùng tôi cũng bán mất rồi… Thật tình tôi cũng mang ơn cậu vì hồi đó cậu mua cái dĩa giúp tôi với giá cao, không lời lóm gì…

Tôi nghe mà chết điếng người, ngụm cà phê bỗng đắng ngắt trên môi. Hoá ra, tôi đã chèn giá hết sức nhẫn tâm trong vụ mua chiếc đĩa cổ, tôi lại được người khác mang ơn trong khi tôi chính là thằng lưu manh, độc ác, đáng bị phỉ nhổ. Nếu như người mua hôm ấy không phải là tôi… Nếu như tôi có lòng giúp cho thằng bé đủ tiền chạy chữa, mà cũng không cần có tấm lòng, nếu như tôi mua đúng giá trị mà chiếc đĩa vốn có, nếu như…

Tôi nhìn bóng ông cụ khuất dần ở phía bên kia đường với dáng đi xiêu vẹo mà bất giác rùng mình, sợ hãi cả chính tôi. Treo trên đầu tôi bây giờ là hình ảnh thằng bé nằm thoi thóp với chiếc đĩa thời Khang Hy màu xanh lục bọc trong những tấm vải rách nát ố vàng…


NGUYỄN MINH PHÚC

Tôi Phải Về Cho Mẹ Tôi Ăn…


Câu trả lời của anh bạn lớn tuổi làm tôi chưng hửng vì nhiều lý do. Thứ nhất là muốn tìm vài sợi tóc đen trên đầu anh không dễ. Không lẽ anh còn mẹ? Thứ hai là tôi chỉ nghe bạn bè từ chối rủ đi uống bia với ba lý do thường nhất: Thứ nhất là “vợ tôi nhằn quá ông ơi!” Thứ hai là “sợ cảnh sát quá ông ơi!” Và thứ ba là lý do sức khoẻ, “tôi đang uống thuốc ông ơi!”

Tôi như người lâu quá không được nghe những lời tử tế nên hụt hẫng với lời tử tế khi được nghe. Dĩ nhiên không ai biết trên đời còn bao nhiêu người con hiếu thảo, nhưng tôi thì biết có một người mẹ già đang hạnh phúc.

Trên đường tôi lái về nhà vì anh bạn đã từ chối lời mời ngắn gọn, không khách sáo gì nhiều của tôi: “Già Nguyên. Chiều nay trời đẹp. Ghé Wing Stop làm vài ly bia hơi không?”

Anh trả lời: “Sao hôm nay chú phá lệ thế? Chưa đến cuối tuần mà!”

Tôi đâu dám nói lời khó nghe trong hãng là tôi đã hay tin sáng mai anh vô hãng làm gì nữa cho mất công dậy sớm, vì anh đã có tên trong danh sách hãng cho nghỉ bớt công nhân theo tình hình ít việc nên dư người. Cũng vì thế mà tôi phá lệ, mời anh đi uống cốc bia tạm biệt những ngày vui từ hôm anh vô làm chung với tôi được vài tháng nay.

Nhưng lại đến anh gọi tôi qua điện thoại: “Hay chú ghé nhà tôi đi. Tôi cho mẹ tôi ăn… chay chiều nay. Nhanh thôi! Rồi anh em mình nhậu.”

Tôi trả lời anh: “Nói hay. Làm ơn ghé đâu đó, nhắn tin cho tôi địa chỉ nhà anh. Đừng vừa lái vừa nhắn tin nha anh!”
Tôi đến nhà anh lần đầu. Hoá ra anh không nói chơi mà là chuyện thật, sau khi chị nhà mở cửa cho tôi. Trong mắt tôi là người đàn ông đã làm ông ngoại từ mười năm qua. Nhưng tay anh bưng bát cơm, tay cầm thìa cơm, chạy xình xịch quanh ghế mẹ ngồi là bà cụ ở tuổi chín mươi. Cụ chúm chím cười, liếc mắt theo tàu hoả là thìa cơm không ra cơm mà cháo không ra cháo; Bà cụ đợi tàu hoả tài tình là hễ nó tới miệng thì cụ mở miệng ngay chứ không để nó chạy qua…

Có lẽ, hơn sáu mươi lăm năm trước, cụ là chiếc tàu hoả chở thìa cơm cho cậu con trai một tuổi. Rồi tôi rùng mình khi chợt nghĩ tới, nếu anh tử trận ở Cổ Thành vào mùa hè đỏ lửa 1972 thì bây giờ ai đút cơm cho mẹ anh ăn? Suy ra có bao nhiêu bà mẹ không có con trai đút cơm cho ăn khi về già vì các anh đã tử trận trên nhiều “địa danh tên vẫn chưa quen người dân thị thành” ở Việt Nam. Hôm nay lại tháng Năm đã về với ngày lễ “Chiến sĩ trận vong”, không biết trên thế giới có bao nhiêu bà mẹ tuổi già cô quạnh vì con trai đã chết bởi chiến tranh?

Tôi bị thôi miên bởi người lính cũ tóc đã bạc trắng vẫn phải đi làm. Đau đớn thay khi ngày mai là ngày anh mất việc, mà cũng không được biết trước “Ai là anh em tôi” theo tinh thần Công giáo của người anh sùng đạo. Người ngoại đạo tôi chăng? Những người được nghỉ lễ Chiến sĩ trận vong có hưởng lương đang làm gì nhỉ? Một vài người ngồi soạn ra cái danh sách những người hãng không còn cần mướn nữa vì hết việc. Sao người lính cũ này lại mất việc vào một ngày tháng Năm, vào mùa lễ nhân loại nhớ ơn người chiến sĩ…! Có quá nhiều câu hỏi trong tôi tới rối trí, rồi thành khiếm nhã vì cứ đứng trân ra đó, thay vì thăm hỏi mọi người.

Chị nhà xin lỗi đang dở tay trong bếp. Anh nhà với tôi thì đã quen nên khỏi khách sáo. Anh nói với tôi: “Bia trong tủ lạnh đó chú em. Làm trước một chai đi. Anh cho mẹ anh ăn xong thì mình nhậu.”

Tôi mới xuống tới cửa bếp để mở tủ lạnh lấy bia thì chị nhà đã trao cho tôi chai bia được chị tiện tay khui sẵn luôn cho tôi. Chị nhà có vẻ ít nói, nên những vết chân chim nơi khoé mắt sâu hơn người hay cười. Nhưng chị trông hiền, mẫu người kín kẽ…

Tôi đứng luôn ở cửa bếp để thăm hỏi chị. Mắt nhìn anh bạn đang làm trò trên phòng khách để dỗ mẹ anh ăn cơm chiều.

Dưới cửa bếp, chị nhà trò chuyện với tôi: “Nghe anh nói về chú, chị cũng mừng. Cảm ơn chú…”

“Nghe anh nói về chị, em cũng mừng. Cảm ơn chị.”

Tôi còn điều nhớ mãi sau xã giao dở tệ của mình khi nghe chị nói, “…đúng ra là việc của chị. Nhưng thậm chí từ hồi bà ngoại tụi nhỏ nhà chị nằm một chỗ, cũng một tay anh lo chứ chị làm được gì đâu. Nay tới bà nội, anh ấy cực quá mà chị cũng không giúp được gì…”

Tôi nói: “Hình như em thấy bà kém trí nhớ nhiều rồi, phải không chị?”

“Sao chú biết? Anh kể à?”

“Dạ không. Chỉ là ban nãy, em thưa bác lúc em đến. Bác nhìn em lạ lắm! Em không biết diễn tả. Xin lỗi chị.”
Phía nhà trên. Tàu hoả đã biến thành máy bay đầm già. “Còn vài thìa nữa thôi mẹ ạ! Bây giờ mình chơi máy bay đầm già cho mau hết nhá? Mẹ nuốt hết đi. Con bay nhanh lắm đó!”

Máy bay ông già tóc bạc chứ đầm già gì, ông bay từng thìa cơm cho mẹ đến vã mồ hôi trán.

Tôi không thể nào báo tin cho anh hay là ngày mai anh khỏi cần dậy sớm để vô hãng vì tôi đã được xem qua danh sách. Thôi thì chuyện của ngày mai. Nói chi sớm với người đã sáu mươi sáu tuổi. Chuyện gì tới cứ để Chúa, Phật độ trì cho anh…

Cảm ơn anh về chuyện kể của người lính cũ trong mùa Chiến sĩ trận vong không có mùi thuốc súng, trong mùa lễ mẹ không phải vất vả “đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” vì mẹ già đễnh đãng chỉ cần thìa cơm không chan nước mắt, chỉ cần vừa ăn vừa cười đã là hạnh phúc tuổi già.

Anh nói với tôi: “…Em bước vô phòng bố mẹ anh mà xem. Anh kê hai cái giường đơn vì hai người già không thể ngủ chung một cái giường. Bởi người này ngủ thì người kia lại thức, phá giấc của nhau. Nhưng bố anh chăm sóc cho mẹ anh kỹ lắm từ ngày mẹ anh mất trí nhớ hoàn toàn. Chỉ ông trời oái oăm là cho bố anh đang mạnh khoẻ, tỉnh táo, nhưng cảm cúm một trận rồi đi luôn trong vài ngày. Từ đó, mỗi sáng khi anh vào phòng để lo cho mẹ anh trước khi anh đi làm, Mẹ anh hay hỏi, có thấy ông nhà tôi đâu không? Anh cứ nhớ bố anh hay trả lời khôi hài để mẹ anh cười, Ông nhà bà đi mua hoa về tặng cho ngày sinh nhật của bà rồi! Bà phải đẹp cho ông nhà vui đấy! Bà phải nghe tôi: đánh răng, tắm rửa, thay quần áo, cho thật đẹp vào… Những lúc ấy anh nghĩ mà ân hận với bố của anh lắm! Thường cha với con trai đâu có gần nhau trong đời sống gia đình, rồi con trai lớn lên thì cha lại già đi nhiều hơn lo nuôi cơm là lo lắng vì thời anh lớn lên là đi lính. Sự cách biệt tuổi tác, khoảng cách thế hệ nên suy nghĩ, lối sống, quan điểm, sở thích… càng xa đến như không có liên hệ gì với nhau! Nhưng thực sự là tình sâu nghĩa nặng, chỉ đàn ông không nói ra được tình cảm của mình với người cùng phái thôi!

Anh đi tù mất mấy năm về, hai món kỷ niệm anh làm được trong tù là cái tẩu cho bố anh, vì anh biết bố anh thích hút thuốc tẩu hơn thuốc lá; Vật thứ hai anh làm được trong tù là cọng dây điện thoại anh nhặt được thì ngồi uốn nắn thành tên của vợ anh. Những năm ấy mẹ anh, vợ anh đi thăm nuôi anh, nhưng từ tiền đò xe, tới chút đường thẻ, chút mắm ruốc xào sả ớt cũng một tay bố anh tiện tặn cho con lúc nó ngặt nghèo. Thế mà anh chưa bao giờ nói với bố anh được một tiếng cảm ơn, nói một lần cũng đủ là con thương bố lắm! Nhiều khi anh như thoáng thấy bố anh vẫn ra vô căn phòng này để chăm sóc cho mẹ anh. Anh muốn chận đường ông cụ chỉ để nói một lời, con cảm ơn bố! Nhưng đó chỉ là những lúc áp huyết anh lên cao quá nên hoa mắt thôi, ngồi nghỉ một lát sẽ rõ ràng lại. Chỉ ân hận trong lòng mình râm ran mãi...

Có những hôm mẹ anh thức dậy, nói một mình: đi đâu nữa rồi…? Mắt mẹ anh nhìn đăm đăm vào cái giường trống của bố anh. Nhưng chỉ một lát, một chút, một khoảnh khắc thời gian cũng có thể đúng. Vì sau đó là tình trạng mất trí nhớ trở lại ngay. Cụ không xuất thần nữa! Nhưng thoáng buồn đọng lại một chút trên gương mặt mất trí nhớ rồi mới tan hết…”

“Thế anh có cho bác sĩ hay không?” Tôi hỏi.

Anh trả lời tôi: “Theo bác sĩ, có thể sau giấc ngủ thì cụ tỉnh được một chút. Một chút thôi, không đủ để nhớ ra được một việc, một chuyện. Chỉ là một thoáng nhớ, mơ hồ…”

“Nhưng có hy vọng phục hồi lại trí nhớ cho cụ không?”

“Không. Người nhà còn không tin, nói gì tới bác sĩ. Anh chị thử mẹ anh nhiều lần lắm rồi! Cứ đem những vật mẹ anh yêu thích suốt cả đời ra để gợi nhớ. Nhưng cụ không nhớ hoàn toàn. Đem cho mẹ anh những món ăn mẹ anh thích nhất. Cụ cũng dửng dưng như không màng tới, thậm chí không thèm nhìn… Bây giờ cụ ăn như bản năng sống, vậy thôi. Anh nghĩ là cụ cũng không thưởng thức được hương vị gì nữa nên cụ lười ăn lắm!”
Anh em tôi ra bàn ăn ngoài sân sau nhà, ngồi bù khú với nhau rôm rả chuyện đời xưa ở quê nhà; từ thuở miền nam còn bình yên tới thời khói lửa mịt mù.

Chúng tôi im lặng khá lâu sau đó. Có lẽ mỗi người suy nghĩ riêng. Rồi chị nhà bưng ra cho đĩa trái cây và dọn đi những món mặn.

Tôi kể cho anh nghe…

“Hồi lâu rồi. Em bị mất việc trong hãng nên đi giao pizza trong thời gian chờ việc mới gọi mình đi làm. Em còn nhớ cái nhà già ở góc đường Coil. Rd với đường 15. Rd trên thành phố Plano. Em đem pizza cho mấy cô y tá ăn trưa. Nhưng em chứng kiến một ông cụ Mỹ trắng cự nự mấy cô y tá không cho ông đẩy xe lăn của một bà cụ Mỹ trắng. Em nghe ông dõng dạc nói: Vợ tôi không còn nhớ tôi. Nhưng tôi còn nhớ bà ấy là vợ tôi. Không ai đẩy xe cho vợ tôi an toàn hơn tôi đâu! Sao các người không cho phép tôi?

Ông cụ nói rồi khóc. Khóc bất lực với luật lệ khi phải trao tay cái xe lăn cho anh chàng hộ pháp người Mỹ đen to lớn. Làm em tò mò! Em hỏi cô y tá quen, Nếu họ là vợ chồng, thì làm khó họ chi?

Cô y tá trả lời cho em: Bạn không biết! Tuy họ là vợ chồng. Nhưng khi đã vào đây thì ông được chăm sóc riêng bên khu nam, bà được chăm sóc riêng bên khu nữ. Họ chỉ được trò chuyện, gặp nhau trong giờ xem tivi chung ngoài đại sảnh. Ai không khoẻ thì xem tivi nhỏ trong phòng riêng. Họ chỉ được gặp nhau trong giờ phơi nắng ngoài trời. Nhưng để cụ ông đẩy xe cho cụ bà, nhỡ xảy ra tai nạn thì trách nhiệm lại thuộc về chúng tôi vì chúng tôi chịu trách nhiệm đẩy xe lăn cho cụ bà chứ không phải cụ ông…

Từ đó, mỗi lần tới nhà già, em ưa để ý cụ ông. Em có cảm tưởng ông ấy luôn để mắt tới vợ ông khi có thể vào những lúc được gặp nhau. Vì em bắt gặp ông rất ranh mãnh, ông đi đến chỗ vợ ông thì bị cô y tá nhắc nhở ông đừng có đẩy xe của bà. Ông cãi là ông đi bỏ rác mà. Nhưng ông cụ cũng lượn ngang xe lăn của bà vợ, đẩy đẩy vài cái cho đỡ ghiền hay sao đó! Rồi cười trừ với cô y tá khi cô ấy đến tháo tay ông ra khỏi xe lăn của bà…”

“Ừ. Phải như hồi trẻ thương vợ được một phần thôi thì mấy bà cũng đỡ. Bố anh chăm sóc cho mẹ anh cả chục năm chứ ít đâu. Lúc mẹ anh tuy mất trí nhớ nhưng còn khoẻ, bố anh lấy sợi dây xích chó xích tay ông một đầu dây, tay bà một đầu dây, rồi dắt bà đi bộ thể dục. Ai thấy cũng phải cười. Có những chiều anh đi làm về tới xóm nhà mình, nhìn bố mẹ anh xích tay nhau bằng sợi dây xích chó, anh cũng bật cười, nhưng mắt cay sè…

Khi mẹ anh yếu nhiều vì không ăn ngủ được. Bố anh gõ mõ tụng kinh cả đêm. Con cháu gì chạy hết, có đứa nào ở nhà nữa đâu. Chúng nó làm sao mà ngủ thì làm sao đi làm! Nhưng bố anh tin là nghe kinh thì mẹ anh ngủ được. Chuyện thật ra là ông ngủ gục chứ bà có ngủ đâu! Nhưng ông cứ tin là bà ngủ. Đó là đoạn bố anh hết sức. Ông mất sau khi đuối sức không lâu. Nhắc lại chuyện thấy thương bố anh quá!”

Tiếng chị nhà gọi anh vô giúp mẹ. Tôi sẵn cáo từ ra về vì trời đã nhá nhem tối. Nghĩ đến từ mai anh được ở nhà suốt ngày để chăm sóc mẹ, cũng đỡ vất vả cho anh. Nhưng eo hẹp tài chánh cũng khó lắm vì anh chị với mẹ sống chung nhà thì chỉ mình anh đi làm. Sáu mươi sáu tuổi còn đi làm đã đủ biết chính phủ và con cháu không giúp đủ cho những người già cần giúp đỡ. Chỉ còn Ơn trên giúp được họ, nhưng họ mới chỉ là một hoàn cảnh, còn bao hoàn cảnh khó khăn hơn nữa. Trong khi Ơn trên chỉ có một thượng đế, lại ở xa…

Phan