Khi nhắc đến lặn biển, ta thường nghĩ đến những bộ đồ hiện đại, bình dưỡng khí và công nghệ tiên tiến. Nhưng sự thật là, người Assyria đã sử dụng kỹ thuật lặn từ cách đây hơn 3.000 năm!
Một bức phù điêu có niên đại từ thế kỷ 9 TCN, hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Anh, đã hé lộ một phát minh đáng kinh ngạc: binh sĩ Assyria bơi dưới nước với túi da dê bơm hơi. Đây không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn là bằng chứng về khả năng sáng tạo và chiến thuật tài tình của họ.
Túi da dê này không chỉ giúp binh sĩ nổi trên mặt nước mà có thể đã hoạt động như một ống thở thô sơ, giúp họ ẩn mình dưới mặt nước trong thời gian dài. Nhờ đó, quân Assyria có thể băng qua sông một cách bí mật, thoát khỏi tầm mắt kẻ thù và thực hiện những cuộc tấn công bất ngờ.
Người Assyria nổi tiếng với các công trình thủy lợi, kỹ thuật xây dựng và chiến lược quân sự vượt bậc. Việc họ sử dụng công nghệ lặn từ hàng ngàn năm trước là minh chứng rõ ràng về sự thông minh và thích nghi của con người trước thiên nhiên.
Từ trước đến nay, chúng ta vẫn nghĩ rằng scuba diving là phát minh của thế kỷ 20, nhưng bằng chứng này cho thấy, con người đã luôn tìm cách chinh phục đại dương từ rất lâu trước đó.
Ba ngàn năm trước, chiến binh đã lặn dưới nước để chiến đấu. Hôm nay, chúng ta lặn để khám phá. Lịch sử vẫn luôn là hành trình đầy bất ngờ!
#kienthucthuvi #khampha #kienthuc #khoahoc
Vào một buổi chiều năm 2012, trong khu rừng rậm rạp trên đảo Borneo (Indonesia), các nhà nghiên cứu của một tổ chức bảo tồn linh trưởng đã chứng kiến một khoảnh khắc khiến họ xúc động đến nghẹn lời. Một con tinh tinh cái không may mắc vào bẫy dây do thợ săn giăng sẵn. Chiếc bẫy siết chặt vào chân, khiến nó đau đớn rên rỉ, máu chảy loang lổ trên nền lá mục. Nó vùng vẫy, ánh mắt hoảng loạn như cầu cứu giữa cánh rừng vắng.
Tiếng kêu đau xé lòng ấy vang đến tai một con tinh tinh đực trong đàn. Nó lập tức chạy tới. Trái với bản năng thường thấy là bỏ chạy khi gặp nguy hiểm, con đực ấy không hề sợ hãi. Nó ngồi xuống bên bạn mình, chăm chú quan sát chiếc bẫy. Gương mặt nó căng thẳng, ánh mắt đầy lo âu và quyết tâm.
Sau vài phút suy nghĩ, nó tìm một cành cây chắc, dùng như đòn bẩy, cẩn trọng cạy từng phần của chiếc bẫy sắt. Nhiều lần thất bại, nhưng nó không bỏ cuộc. Cuối cùng, sau bao nỗ lực, bẫy bật tung. Con tinh tinh cái rên lên một tiếng nhẹ nhõm. Con đực nhẹ nhàng liếm vết thương cho bạn, rồi từ tốn dìu bạn rời khỏi nơi nguy hiểm, từng bước một, như thể sợ bạn ngã đau thêm.
Khoảnh khắc ấy đã làm lay động trái tim con người. Nó không chỉ cho thấy tinh tinh có trí thông minh vượt bậc, mà còn có khả năng cảm thông và tình thương – điều tưởng chừng chỉ con người mới có. Câu chuyện được ghi lại và đăng tải trên một tạp chí khoa học danh tiếng, như một minh chứng kỳ diệu cho sự kết nối giữa muôn loài.
Enzo
Ferrari – Người đàn ông sinh ra để tạo nên huyền thoại
Enzo Anselmo Ferrari sinh ngày 18 tháng 2 năm 1898 tại Modena, một thành phố nhỏ
nằm giữa lòng nước Ý. Trong những ngày còn bé, Enzo theo cha tới các đường đua
địa phương và bị mê hoặc bởi tiếng gầm của động cơ, bụi khói và ánh mắt đầy quyết
tâm của những tay đua. Giấc mơ về tốc độ nhen nhóm từ đó, và không gì có thể dập
tắt được.
Thập niên 1920, Enzo trở thành tay đua cho Alfa Romeo – khi ấy là một thương hiệu
xe thể thao đang lên. Năm 1929, ông sáng lập Scuderia Ferrari, ban đầu là đội
đua đại diện cho Alfa Romeo, nơi tập hợp những tay đua tài năng nhất và chế tạo
những chiếc xe đua cạnh tranh ở tầm cao nhất. Nhưng Enzo không chỉ muốn thắng
cuộc – ông muốn vượt qua mọi giới hạn.
Sau khi rời Alfa Romeo vào năm 1939, ông bị cấm sử dụng tên “Ferrari” trong các
hoạt động ô tô trong vòng bốn năm, nhưng điều đó không thể ngăn ông chuẩn bị
cho một chương mới. Năm 1947, chiếc xe đầu tiên mang tên Ferrari – 125 S – lăn
bánh ra khỏi xưởng tại Maranello, chính thức khai sinh nên thương hiệu Ferrari
như ta biết ngày nay.
Từ đó, Enzo xây dựng Ferrari thành biểu tượng của hiệu suất, sự sang trọng và
nghệ thuật cơ khí. Những chiếc Ferrari không chỉ để đua – chúng là hiện thân của
khát vọng, đam mê và chất Ý đặc trưng. Từ chiếc 250 GTO mê hoặc những nhà sưu tầm
cho đến chiếc F40 gầm rú trong giấc mơ của bao tín đồ tốc độ, tất cả đều mang dấu
ấn của Enzo: sự chính xác, sự đẹp đẽ và cả sự ám ảnh với sự hoàn hảo.
Enzo không ưa đám đông, tránh né báo chí và rất ít khi xuất hiện nơi công cộng.
Điều kỳ lạ nhất là ông chưa từng rời khỏi nước Ý, chưa từng đặt chân đến bất kỳ
quốc gia nào khác – kể cả khi Ferrari đã là thương hiệu toàn cầu. Suốt đời, ông
sống giữa Modena và Maranello, gần như không bao giờ xa rời nơi khởi nguồn lý
tưởng của mình. Đó không phải là sự giới hạn, mà là sức mạnh – ông tin rằng giấc
mơ không cần phải đi xa để trở nên vĩ đại.
Enzo Ferrari mất ngày 14 tháng 8 năm 1988 ở tuổi 90. Nhưng hình bóng ông vẫn
còn đó – trong tiếng gầm động cơ, trong ánh đỏ rực cháy của những chiếc
Ferrari, trong từng đường cong thiết kế đầy cảm xúc. Ông không chỉ tạo ra xe.
Ông tạo ra một huyền thoại.
CÂY
CẦU CÓ NHIỀU VỢ NHẤT TẠI VIỆT NAM ?
Đó là cầu ÔNG LÃNH
Theo học giả Trương Vĩnh Ký, một trong 18 nhà bác học thế giới thế kỷ 19 cho rằng:
Ông Lãnh là vị lãnh binh tên Nguyễn Ngọc Thăng (1798-1866), võ tướng nhà Nguyễn
thời vua Tự Đức. Ông thuộc thế hệ tham gia chiến đấu chống Pháp đầu tiên của
Nam Kỳ. Còn 5 người phụ nữ được đặt tên chợ ở Sài Gòn vốn là các bà vợ của ông.
Những vị quan đa thê thời xưa thường áp dụng phương pháp kinh tế tự túc nên vị
lãnh binh đã lập 5 chợ ở khu vực khác nhau, giao cho mỗi bà cai quản một cái.
Việc này tránh các bà đụng mặt nhau, đồng thời chuyên tâm làm kinh tế.
Các bà vợ được đặt tên các chợ như Bà Hạt (quận 10), Bà Quẹo (quận Tân Bình),
Bà Chiểu (Bình Thạnh), Bà Hom (Bình Tân) và Bà Điểm (huyện Hóc Môn)... là những
địa danh nổi tiếng, có lịch sử hàng trăm năm gắn với nhiều thế hệ người Sài
Gòn. Tuy ở những vị trí khác nhau, nhiều chợ đã đổi tên nhưng người bản địa
ngày nay ai cũng rành rọt các địa danh này. Bản thân ông cũng có một cái chợ có
tên là chợ cầu Ông Lãnh.
Lãnh binh Thăng quê ở Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, từng tham gia các trận đánh ở đồn
Cây Mai, đồn Thủ Thiêm và vùng phụ cận khi quân Pháp chiếm thành Gia Định. Ông
nổi tiếng với chiến dịch Mù U gây tổn thất nặng cho địch. Về sau ông phối hợp với
nghĩa quân Trương Định ở Gò Công tiếp tục chống Pháp.
Năm 1866, tướng Thăng tử trận ở Gò Công, được đưa về an táng tại quê nhà. Hiện,
ông được thờ với vị Thành Hoàng và đức Trần Hưng Đạo ở đình Nhơn Hòa, đường Cô
Giang (quận 1). Ngôi đình gần cây cầu và chợ mang tên ông. Ngoài ra, tên Lãnh
Binh Thăng cũng được đặt cho một con đường tại quận 11.
Sưu tầm