a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2015

Gen ảnh hưởng đến thói quen ăn uống của chúng ta như thế nào?

( TatyanaGl/iStock)
Khả năng cảm nhận vị ngọt của chúng ta rất đa dạng và được kiểm soát một phần do gen. (TatyanaGl/ iStock)
Bạn ghét mùi vị của những cây cải Bruxen ư? Bạn thấy kinh tởm mùi rau ngò hay nhận thấy mật ong là quá ngọt phải không? Gen của bạn có thể là nguyên nhân.
Mọi người có những sở thích khác nhau với thực phẩm và điều đó được định hình bởi sự kết hợp độc đáo giữa ba yếu tố tương tác: môi trường (sức khỏe, chế độ ăn uống và ảnh  hưởng văn hóa); kinh nghiệm trước đó; và các gen, là yếu tố gây ra sự khác biệt thuộc về tri giác của bạn đối với thực phẩm.
Thực phẩm mà chúng ta ăn vào được cảm nhận bởi các cơ quan thụ cảm ở trong lưỡi và mũi. Các cơ quan thụ cảm làm việc giống như một cái ổ khóa và hết sức chuyên biệt đối với các chất dinh dưỡng hoặc hương liệu (có thể ví như những chìa khóa) mà chúng nhận ra. Ví dụ, cơ quan thụ cảm vị ngọt chỉ phát hiện ra các phân tử ngọt và sẽ không phát hiện ra vị đắng.

Hiểu được ảnh hưởng của gen đối với vị giác sẽ là một gợi ý cho những sản phẩm được thiết kế riêng cho các nhu cầu của bạn

Khi bạn ăn, não của bạn kết hợp các tín hiệu từ các cơ quan thụ cảm chuyên dụng về vị (trong miệng) và khứu (mùi thơm trong mũi) để hình thành một hương vị. Hương vị còn bị ảnh hưởng bởi những đặc tính khác về tri giác, chẳng hạn như vị cay nóng của ớt, vị mát lạnh của bạc hà, hoặc độ đặc sánh của sữa chua.
Những thế giới cảm thụ độc đáo của chúng ta
Con người có khoảng 35 cơ quan thụ cảm chuyên dụng để phát hiện thấy các vị ngọt, mặn, đắng, chua, vị umami (như ở bột ngọt) và vị béo. Và khoảng 400 cơ quan thụ cảm để phát hiện mùi thơm. Các protein thụ cảm được sản sinh ra từ những chỉ dẫn được mã hóa trong DNA của chúng ta, và mã DNA của các cá nhân khác nhau thì có sự khác biệt rất lớn.
Năm 2004, các nhà nghiên cứu Mỹ đã xác định được rằng bộ phận thụ cảm thuộc khứu giác nằm ở các điểm dễ xảy ra đột biến. Những vùng này có sự dao động trong bộ gen cao hơn bình thường. Bất kỳ biến thể nào về mặt di truyền cũng có thể làm thay đổi hình dạng của bộ phận thụ cảm (ổ khóa trong ví dụ ở trên) và dẫn đến sự khác biệt trong cảm nhận về mùi vị giữa mọi người.
(bbbrrn/iStock)
(bbbrrn/iStock)
Một nghiên cứu của Mỹ cho thấy rằng hai cá nhân bất kỳ sẽ có những sự khác biệt về di truyền, được thể hiện thành sự khác biệt trong khoảng 30% đến 40% các bộ phận thụ cảm về mùi của họ. Điều này nói lên rằng tất cả chúng ta đều khác nhau trong sự cảm nhận hương vị thực phẩm, và rằng tất cả chúng ta sống trong thế giới cảm thụ độc đáo của chính mình.

Bạn thêm bao nhiêu đường vào tách trà của mình?

Khả năng nhận biết của chúng ta đối với độ ngọt thì khác nhau rất nhiều và một phần được kiểm soát do gen của chúng ta. Một nghiên cứu gần đây được đăng trên chuyên đề về các trường hợp sinh đôi cho thấy, di truyền học là nguyên nhân gây ra một phần ba sự biến thiên trong cảm nhận về vị ngọt của đường và chất tạo ngọt calo thấp. Các nhà nghiên cứu đã xác định được các biến thể gen đặc trưng trong các bộ phận thụ cảm phát hiện vị ngọt: TAS1R2 và TAS1R3.
Cũng có sự biến thiên lớn trong việc phát hiện vị đắng. Tuy nhiên, vấn đề này phức tạp hơn so với vị ngọt, vì chúng ta chỉ có 25 cơ quan thụ cảm phát hiện các phân tử vị đắng khác nhau. Bộ phận thụ cảm vị đắng ngăn không cho chúng ta ăn phải các chất độc hại, đó là lý do tại sao vị đắng lại không được nhiều người thích.
Một trong những bộ phận thụ cảm vị đắng (TAS2R38) kiểm soát khả năng phát hiện ra một hợp chất đắng gọi là PROP (propylthiouracil). Căn cứ vào khả năng phát hiện PROP thì con người có thể được chia thành hai nhóm: “nhóm những chuyên gia nếm” hoặc “nhóm những người không nếm”. Những chuyên gia nếm thường không thích rau xanh có vị  đắng, chẳng hạn như bông cải xanh và cải bruxen.
Tình trạng PROP cũng được sử dụng như một dấu hiệu về sở thích thực phẩm, nó cho thấy những người không nếm thích ăn nhiều chất béo hơn và chịu đựng độ cay của ớt tốt hơn.
Di truyền học cũng đã được liên hệ đến các loại thực phẩm nguyên chất, chẳng hạn như sở thích rau mùi, thích cà phê và nhiều thứ khác. Nhưng gen chỉ có ảnh hưởng chút ít đến sở thích đối với những loại thực phẩm này do sự phức tạp của cảm giác và sở thích chủ yếu là do tác động từ môi trường và những kinh nghiệm trước kia.

Hướng tới sự cá nhân hóa

Hiểu được ảnh hưởng của gen đối với vị giác sẽ là một gợi ý cho những sản phẩm được thiết kế riêng cho các nhu cầu của bạn. Chẳng hạn như thiết kế một chế độ ăn uống phù hợp với cấu trúc di truyền của một người nào đó để giúp họ giảm cân. Thật vậy, các công ty kiểm nghiệm di truyền hiện nay đã có thể đưa ra lời khuyên dinh dưỡng dựa trên bộ gen của bạn.
 (Photo by Joe Raedle/Getty Images)
Thực phẩm trong một ngày có thể được lập thành công thức cụ thể đối với sở thích được xác định theo gen. (Joe Raedle / Getty Images)
Những sản phẩm thực phẩm được cá nhân hoá cho phù hợp với sở thích ăn uống theo gen của riêng bạn là một ví dụ khác. Các loại thực phẩm dựa trên sở thích cá nhân giờ đây đã có mặt trong các siêu thị. Có thể mua nước xốt cay Salsa (được chế biến từ cà chua, hành, ớt) ở mức độ êm dịu, trung bình và cay nồng. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu bạn có thể mua được các loại thực phẩm được đặc chế, dựa theo những sở thích được quyết định bởi gen của riêng bạn?
Cá nhân hóa cũng có thể áp dụng ở mức độ quần thể. Các nhà sản xuất thực phẩm có thể thiết kế các sản phẩm thực phẩm của họ phù hợp với những quần thể khác nhau, dựa trên sự hiểu biết về mức độ phổ biến của một loại biến thể di truyền trong mỗi quần thể dân cư.
Chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu được các gen làm thay đổi khả năng thưởng thức hương vị như thế nào, và điều đó có thể có ảnh hưởng đến sở thích ăn uống ra sao. Cần có thêm nhiều nghiên cứu nữa để hiểu được sự kết hợp giữa nhiều gen có thể tác động như thế nào đến tri giác và chế độ ăn uống. Không dễ mà làm được điều này, vì nó sẽ đòi hỏi những nghiên cứu với số lượng người cực lớn.
Một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng khác là phải tìm hiểu liệu các gen về vị giác của chúng ta có thể được biến tính hay không. Hãy tưởng tượng, liệu bạn có thể làm thay đổi sở thích đồ ăn của mình và tiêu thụ các loại thực phẩm lành mạnh hơn hay không?
Nicholas Archer là nhà khoa học thuộc tổ chức CSIRO của Australia. Bài viết này đã được công bố trên The Conversation.

9 kỹ thuật thực hành thiền định

(kieferpix/iStock)
(kieferpix/iStock)
Thiền đích thực là một thực hành sinh động không thể định nghĩa bằng các biện pháp cụ thể, đó không phải là việc hướng ra bên ngoài mà trái lại là hướng vào bên trong con người bạn. Hãy từ bỏ suy nghĩ rằng bạn chỉ cần nắm bắt và làm đúng kỹ thuật thiền định thì tĩnh lặng sẽ đến với bạn. Tuy nhiên, tôi thấy rằng có một vài nguyên lý chỉ đạo đối với thực hành thiền định có thể dẫn dắt chúng ta tới trạng thái tự nhiên, thanh thản và tự do tự tại.

1. Bỏ ra ít nhất 25 phút rảnh rỗi

Hãy chắc chắn rằng bạn đang ở một nơi yên tĩnh, không bị quấy rầy và chuẩn bị một chỗ ngồi thật thoải mái.

2. Ghi nhớ rằng thiền định là một trạng thái tự nhiên

Bạn không cần phải kiểm soát tâm trí, hơi thở hay bất kỳ chi tiết nào khác.

3Hướng ý thức của bạn vào thân thể tự nhiên của bạn

Hãy bắt đầu bằng việc quan sát xem ý thức của bạn đang hướng vào đâu. Để ý thức được thoải mái, tự do thay vì cưỡng ép nó đến bất cứ nơi cụ thể nào. Bạn có cảm giác đặc biệt nào ở bên trong thân thể mình không? Hãy để cho ý thức trở nên cởi mở, tò mò, và cho phép nó là chính nó. Khi những suy nghĩ xuất hiện, đừng cưỡng ép để chúng mất đi mà hãy để chúng như vậy, hãy dẫn dắt ý thức hướng trở về cơ thể. Quan sát cảm xúc xem chúng thay đổi ra sao, bằng cách đó ý thức sẽ bị thu hút một cách tự nhiên đến một nơi khác như một bản tính tự nhiên. Đơn giản là để nhận thức của bạn đi theo hướng này. Trải nghiệm này có thể sẽ kéo dài một lúc trong khi bạn cảm thấy như đang xuyên qua tầng tầng lớp lớp khác nhau của cơ thể. Xin được nhắc lại một lần nữa, hãy tin tưởng vào trí tuệ của bạn và để nó dẫn dắt tâm trí bạn. Ý thức sẽ hòa tan năng lượng trong cơ thể và tâm trí sẽ bắt đầu trở nên ít bị chi phối hơn. Tôi nhận thấy đây là bước then chốt để tâm trí trở nên tĩnh lặng.
4. Chú ý tới những gì đang chú ý
Nói cách khác, bạn nhận biết được những suy nghĩ, những cảm giác và âm thanh…, và khi bạn để cho chúng tồn tại một cách tự nhiên, bạn sẽ chú ý tới sự có mặt của chúng. Sự hiện diện này không phải là ở trong cơ thể bạn, cũng không thể định rõ ra theo bất cứ cách thức nào. Nó là không gian mênh mang, tự do, và chân thực đến từng chi tiết. Nó giống như bầu trời rộng lớn vô hạn bao hàm và chứa đựng tất cả mọi thứ.
(Grekov/iStock)
(Grekov/iStock)

5.Tồn tại trong sự hiện diện của ý thức

Thả lỏng trong khi nhận thức. Khi bạn nhận thấy chính mình đang dấn sâu vào những suy nghĩ hay cảm giác hoặc những cảm xúc, hãy để chúng tự nhiên như thế. Đừng cưỡng ép chúng mà hãy thư giãn cùng chúng theo bất cứ cách nào. Điều này sẽ giúp khai mở ý thức và cho phép bạn trải nghiệm nhiều hơn.

6. Lặp lại bước 4 và 5 để tiến nhập vào trạng thái thiền định

Đắm chìm vào một mục tiêu, một đối tượng… để cho nó tự nhiên… nghỉ ngơi thư thái và vẫn thanh tỉnh ý thức…

7. Theo thời gian, bạn sẽ nắm bắt ý thức nhanh hơn

Bạn sẽ tận hưởng được sự hiện diện sâu hơn của mọi cảm giác trong khoảng thời gian dài hơn.

8. Hãy tự hỏi mình xem liệu có phải bạn đang cố gắng tìm cách kiểm soát sự trải nghiệm của bạn?

Bạn đang tránh né những tư tưởng cụ thể, cảm xúc hay cảm giác phải không?

9. 25 phút là thời gian lý tưởng tối thiểu để luyện tập

Thông thường phải mất một khoảng thời gian 15 hoặc 20 phút để thoát khỏi những ý nghĩ lộn xộn dai dẳng trong tâm trí. Nếu bạn rút ngắn thời gian thực hành thiền định, bạn sẽ hiếm khi có được cơ hội đắm mình trong sự ngọt ngào của cảm giác vô vi đang hiện diện. Hãy ghi nhớ rằng thiền định là một thực hành mang tính tiếp diễn. Hãy tận hưởng cuộc hành trình đó!
Bài viết này được công bố lần đầu trênwww.NaturalySavvy.com