a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Sáu, 24 tháng 11, 2017

LỀU TRẠI NƠI GÓC BIỂN



Tôi ăn một chén mì, thấy đã no, ăn không nổi nữa, có lẽ mệt quá. Sau đó một thanh niên đến hướng dẫn tôi lại lều của dì Sáu để biết chỗ liên lạc với chị Ðiệp. Trời tối đen thui không thấy gì hết, nó đi len lỏi trong đám người đi mờ mờ, đèn đuốc không có, quanh quanh co co mãi một hồi lâu thì đến nơi. Nhìn quanh thì hỡi ơi! Ðó là một cái lều cây nhỏ ọp ẹp, bước vô cửa phải cúi thật thấp nếu không muốn bị đụng bể đầu. Trong lều có sàn duy nhứt hẹp té làm bằng những đoạn cây nhỏ cỡ ngón chưn cái ghép lại. Cái sàn này vừa dùng để hành lý, để ngồi và cũng để ngủ. Cái mặt sàn nổi u nổi nần làm sao mà nằm? Một đống đồ đạc chất gần sát vách choán gần hết phân nửa mặt sàn. Một mình dì Sáu cũng đã chật rồi, bây giờ lại thêm chị Ðiệp với hai con nhỏ và mấy đứa em. Vậy thì phải giải quyết ra làm sao, tôi không biết. Ðông qua, chỗ đứng cũng không có nói chi đến chỗ nằm. Trên boong ghe BL 1648 cũng còn rộng hơn.
Dì Sáu khoe đã mua căn lều này giá một lượng vàng. Nó khá nhứt ở khu này đó! Tôi thụt lùi trở ra và đó là lần đầu tiên biết thế nào là một căn lều ở Bidong. Tôi vội từ giã để về, đêm hôm khuya khoắc. Chết rồi, hướng cũ chỗ nào, trời lại tối đen, thôi cứ đi đại. Tôi len lỏi trong các đường hẻm sình lầy, chưn mang đôi dép đứt đi bước thấp bước cao. Ðường đi lại có nhiều gốc cây nhỏ chặt không sát, thỉnh thoảng trồi lên một gốc, vô ý đá mạnh vào xước da chảy máu, đau thấu tận trời xanh. Mò mẫm đi một hồi lâu ra tới bờ biển lạ hoắc. Nhìn kỹ đây không phải là chỗ lên hồi chiều. Tôi nghe tiếng nhạc bập bùng, giọng ca eo éo, rải rác trên bãi một đám đông nhàn hạ thảnh thơi hóng gió nghe nhạc ké trong quán vẳng ra. Tôi còn bụng dạ nào nấn ná chần chờ ở đây để thưởng thức những giọng oanh vàng. Phải hỏi đường cho kỹ để về khu tạm trú. Tôi hướng về cầu tàu rồi loay hoay cũng về được chỗ cũ. Tôi vừa về tới nơi thì vợ chồng con cái anh Tư Trần Hưng Ðạo cũng trở lại tìm chỗ ngủ. Rồi tới chị Thuần, kế đó là mẹ con chị Ðiệp với mấy đứa em. Thì ra Bidong lòng ai cũng rộng nhưng lều thì hẹp quá, thôi tất cả đành ngủ tạm trên bãi cát dơ!
Sương khuya lành lạnh, sóng vỗ rì rào, mọi người đã chọn chỗ nằm, tha hồ mà ngắm sao đêm nay. Tôi và Chiêu còn ngồi nhìn đọt dừa nói chuyện. Các gian hàng chợ trời đã dẹp sạch trơn. Trên con đường trước mặt, một người nhỏ con lùn thấp đen đúa, mặc một cái áo thun trắng dài sọc gần tới đầu gối đang đi ngang. Tôi khều Chiêu, thì thầm trong bóng đêm:
-Nhìn nè, có thằng nhỏ không bận quần đi kia kìa...
Chiêu nhìn rồi trả lời:
-Sao anh biết nó không bận quần?
-Có thấy cái quần chỗ nào đâu. Cái áo phủ tới đầu gối. Có thể có mà cũng có thể không. Theo anh đoán thì không có…
Chiêu cười hà hà, hỏi lại :
-Tại sao anh đoán như vậy?
-Dễ hiểu quá mà, ở Bidong nầy trời nực… để trống trải vậy cho mát.
Hai anh em cười hăng hắc, bỗng nhiên Chiêu chợt nhỏm dậy, chạy theo người vừa đi ngang, miệng hỏi:
-Xin lỗi, anh phải anh Năm, Trung Sĩ Biệt Động Quân không?
-Anh Chiêu, anh qua đây hồi nào. Tôi chờ anh mấy tháng nay…
Hai người găp lại nhau, có nhiều chuyện để nói. Tôi rán nhìn kỹ để kiếm coi anh bạn mới, ngoài cái áo thun dài ra, còn có mặc gì nữa không? Tiếc quá, trời tối mò mò, nên không thấy được gì hết trơn! Lần lần qua câu chuyện, tôi được biết anh Năm trung sĩ là người quen với anh rể Chiêu. Lúc trước anh rể Chiêu qua Bidong dựng cái lều cây kế khu chợ trời nầy để ở. Sau đó anh được đi Mỹ có nhờ anh Năm ở lại giữ lều dùm, dặn kỹ là kiếm Chiêu để giao lại. Như vậy cũng đỡ. Anh Năm thấy có nhiều trẻ em còn nhỏ, bèn nói:
-Đằng lều còn chỗ trống, anh Chiêu sắp xếp cho mấy chị có con nhỏ dời qua bên đó ngủ tạm đêm nay đi… chớ ở ngoài trời sương gió như vầy bất tiện.
Tôi sửa soạn khăn và nước uống cho mẹ con Bi đi với chị Điệp cùng Trung, Dung, miệng nói:
-Tụi tôi cám ơn anh Năm nhiều lắm. May mà gặp anh đêm nay, nếu không thì phải ngủ hết ngoài trời.
Anh Năm cảm động:
-Có gì đâu anh, gặp lại Chiêu em mừng lắm. Để em giao cái lều lại cho… Em cũng gần được đi Úc rồi, rủi khi đi mà không gặp được ảnh, em cũng không biết phải làm sao?
Rồi anh cười, nói tiếp:
-Nói thì nói vậy chớ, em cũng đã tính rồi, đâu đó xong xuôi. Cái lều tốt quá, hổng lẽ bỏ uổng, lúc đó chắc phải bán rẻ, kiếm một mớ xài đỡ… rồi khi nào có gởi qua Mỹ trả lại.
Tối đó Duyên ẳm Bi, chị Điệp dẫn Trung, Dung, cô Bằng ẳm bé Linh đến lều của anh Năm. Anh chị Năm nhường chỗ cho những người mới tới. Cả hai ngủ ở hai cái võng mắc vào các gốc cây. Lại một lần nữa vào phút chót, tôi được một ân nhân, không quen không biết ra tay giúp đỡ.
Còn lại ở đây toàn là người lớn. Tôi trải các quần áo, mùng mền bị mưa ướt buổi sáng ở Kapas chưa kịp phơi khô ra trên các ba lô, xách tay để phơi, rồi nằm ngủ đại trên tấm ny lông dơ, giấc ngủ chập chờn vì sợ người ta lấy cắp đồ đạc. Khoảng một hai giờ khuya, có trận mưa nhỏ, cả đám chạy vào lều bên cạnh núp mưa. Những luồng gió mạnh rít lên từng cơn, thổi tạt những giọt mưa bay ngang rào rào, nước thấm ướt đầu, ướt cổ man mát. Ở phía nhà chờ đợi một ngọn đèn điện sáng đỏ quạnh cô đơn. Chúng tôi lom khom nép người vào vách lều kế bên, nhìn mưa, không ai nói tiếng nào. Cả đảo im lìm, hiu quạnh thê lương… Mưa rồi cũng tạnh, tôi ra ngủ tiếp. Giấc ngủ mê man! Suy nghĩ cho cùng, trong cái khổ cũng có cái sướng. Trong đời chưa bao giờ, tôi được dịp nằm ngủ thẳng cẳng giữa chợ, không mùng mền chiếu gối, một cách bụi đời như tối nay!
Đó là đêm đầu tiên tôi bước chưn tới đảo Bidong, hải đảo nóng bức của vùng xích đạo, hải đảo mà hàng chục ngàn thuyền nhơn Việt Nam nghe tới tên phải xúc động thẩn thờ. Không biết kể từ bao giờ, mỗi khi nhắc tới nó, người tỵ nạn vừa âu yếm, vừa mỉa mai, gọi bằng một cái tên mới đặt, hải đảo Buồn Lâu Bi Đát. Cái tên sao mà bi quan và hơi cải lương. Thiệt tình mỗi khi nghe tới, đâm rầu thúi ruột!
Lều anh Năm áo thun ở tuốt về phía vách đá cuối bãi, khi tới nơi quẹo mặt một đổi rồi quẹo trái. Nó thuộc khu G của đảo. Muốn đi đến đó phải băng ngang qua khu D chợ trời. Trời vừa tang tảng sáng tôi đã dọn dẹp xong đống đồ đạc ngổn ngang, nhường cái bãi cát dơ lại cho mấy bà bạn hàng để quăng rác. Chiêu đi trước dẫn đường loanh quanh trong con hẽm nhỏ vừa đủ lọt một người đi. Tôi theo sát vì sợ lạc. Chung quanh lều cất san sát, cái cao cái thấp chen nhau, không còn một khoảng trống. Quang cảnh hổn độn rối nùi. Thỉnh thoảng tôi phải dừng lại, nhìn trái nhìn phải để định hướng. Đây rồi mẹ con Bi cùng mấy đứa nhỏ đang ngồi trên sàn. Tôi bồng lấy Bi, thằng bé ôm lấy tôi, mừng rỡ. Duyên hỏi:
-Hồi hôm hình như trời mưa, mấy anh làm sao? Có bị ướt nhiều không?
-Mưa cũng nhỏ, tụi anh chạy qua lều kế bên đụt tạm. Sao, mẹ con ngủ ngon không?
Duyên mặt mày tươi tỉnh:
-Mệt quá nên nằm ngủ một giấc tới sáng. Thôi, lo rửa mặt rửa mày rồi ăn điểm tâm.
Tôi đứng nhìn cái lều. Nó được dựng trên ba cây cột to bằng bắp chưn. Cây cột thứ tư là một gốc cây lớn cỡ vòng ôm, trên đọt còn đầy đủ cành lá xanh um. Nhờ vậy mà lều rất chắc chắn. Căn lều cao cẳng nầy cũng được lót sàn, cao chừng một thước rưỡi, có một cái thang ở ngay trước cửa, dùng để lên xuống. Như vậy cũng tiện, bao nhiêu bụi bậm rác rưởi đều lọt tuốt xuống đất. Mặt sàn cũng bằng cây tròn nhỏ dài cỡ hai thước, ghép sáy lại để nằm ngồi, sinh hoạt. Nhìn những mắt cây sần sùi, nổi u nổi cục, cây thì thẳng, cây thì cong, tôi lo lắng:
-Cái mặt giường lồi lõm như vầy, làm sao mà nằm?
Duyên trả lời:
-Khi nằm phải lựa thế từ từ ngả lưng xuống… chớ nằm lẹ thì bị cấn đau lắm.
Tôi sực nhớ ra ở Bidong, tất cả vật liệu xây cất đều phải tự kiếm trên núi. Đinh búa thì xuất tiền túi ra mua ở chợ trời. Ban quản trại chỉ phát cho đồ ăn với nước uống, làm gì có tới cây ván phẳng phiu để làm giường, làm chiếu. Mà nếu có, thì phải chở bao nhiêu tàu cho đủ? Có tất cả bao nhiêu cái lều ở đảo nầy? và bao nhiêu nữa đang được cất thêm? Diện tích mặt sàn cỡ bằng bộ ván lớn. Đằng trước, đằng sau, bên phải, bên trái, bị các lều lân cận ép kín mít, chỉ hở có trước cửa, một con đường ra vô chỉ khoảng một thước mà thôi. Cũng còn một chỗ trống nữa chớ. Ở vách bên phải còn dư một khoảng đất trống độ một thước ngang ba thước dài. Người anh rể Chiêu làm một cái nhà tắm và một cái bếp nấu ăn. Cái nhà tắm nhỏ như cái hộp cạc tông, còn cái bếp làm bằng đất sét, mỗi lần nấu nướng khói um mịt mù. Tất cả chỉ có bao nhiêu đó. Nếu muốn kể thêm thì có thể nói dưới sàn là rãnh nước chảy ngoằn ngoèo, dơ dáy. Cái rãnh chứa hết tất cả nước dơ của các lều khác chảy ngang qua đây rồi chảy về đâu nữa, làm sao tôi biết được!


VÕ KỲ ĐIỀN
Pulau Bidong Miền Đất Lạ (chương 23)

Hoa Tím Bằng Lăng



Vì chiều cao “rất khiêm tốn” của mình, tôi cứ phải loay hoay điều chỉnh cái máy video cầm tay, cố gắng thâu lại hình ảnh của Tuân đang từ từ bước lên khán đài nhận bằng kỹ sư để mai mốt mang về Việt Nam “vinh quy bái tổ”. Tuân là đứa con “rất đặc biệt” của chúng tôi. Vợ chồng tôi mới cưới nhau được 10 năm nhưng Tuân năm nay vừa tròn 22 tuổi! Gia đình bên vợ và người ngoài cứ nghĩ nó là con riêng của tôi mang theo từ Việt Nam; và chúng tôi nghĩ Tuân cũng tin như thế, vì mỗi lần gọi điện thoại về Việt Nam nó vẫn gọi mẹ tôi là bà nội. Tuy nhiên, Tuân vẫn một lòng kính trọng Oanh như mẹ ruột, và vợ tôi cũng rất thương yêu và lo lắng cho nó ngay cả trước khi chúng tôi nên vợ thành chồng.

Sau bao nhiêu lần thử nghiệm và biết chắc chắn tôi không thể có con; thay vì buồn phiền, Oanh lại săn sóc cha con tôi nhiều hơn. Đã mấy tháng nay nàng chạy ngược chạy xuôi lo thu tục giấy tờ để tuần sau chúng tôi về Việt Nam nhận một đứa cháu gái của tôi làm con nuôi. Ngày nhận được kết quả thử nghiệm xác định tôi không thể có con, Oanh đã âu yếm nhìn tôi thỏ thẻ: “Ngay từ đầu em vẫn tin anh. Em không buồn đâu anh ạ! Em chấp nhận số phận, nhất là chúng mình đã có Tuân... Tuy nhiên, em nghĩ chúng mình cũng nên nhận thêm một đứa con nuôi cho vui cửa vui nhà. Nếu anh đồng ý, em sẽ lo giấy tờ để chúng mình nhận một đứa con của chú Khang làm con nuôi. Mình nuôi cháu vẫn tốt hơn...” Đó là lý do Oanh sắp xếp để ngay sau khi Tuân ra trường, chúng tôi sẽ về Việt Nam thăm gia đình và nhất là đưa Tuân về thăm lại mộ Trang, người mẹ ruột của Tuân đã ra đi trong tủi nhục ngày nó mới được 3 tháng tuổi, và Tuân trở thành “con trai” của tôi từ hơn hai mươi năm về trước tại Bình Giả, Việt Nam.
° ° ° ° °
Ngày đó tôi cũng khoảng tuổi của Tuân bây giờ... Tôi trở về Bình Giả năm 1979, sau mấy năm gồng mình cầm cự với nghề “gõ đầu trẻ” tại một trường tiểu học ở vùng kinh tế mới thuộc tỉnh Sông Bé. Tôi thương đám học trò nghèo đói nhiều lắm nhưng chính tôi cũng không chịu nổi cảnh đói nghèo vì lương không đủ ăn nên đành phải bỏ trường về quê ăn bám gia đình sống qua ngày. Sau mấy năm vừa dạy học, vừa làm rẫy sống lây lất qua ngày, sức tôi đã kiệt quệ! Tôi đã “cắt hộ khẩu” ở trường cũ, nhưng không xin “nhập hộ khẩu” tại Bình Giả vì tôi trở về với ý định tìm đường vượt biên. Đã mấy năm rồi, bà con trong làng ai cũng biết tôi đi dạy học ở vùng “Kinh Tế Mới”, và thỉnh thoảng vẫn về quê thăm cha mẹ cũng như xin thêm gạo, bắp... nên không ai thắc mắc hay hỏi han giấy tờ tạm trú. Mùa mưa năm đó, ngoài việc chuẩn bị dầu nhớt cho chuyến vượt biên chung với một số bạn bè ngoài Láng Cát, tôi vẫn theo các em làm rẫy, làm ruộng, và nhất là vào rừng kiếm măng tre. Trong một dịp mò mẫm giữa rừng tre, tôi đã gặp lại anh Thành, một người trốn trại cải tạo, đang lẩn trốn trong rừng để tìm cách liên lạc với người vợ mới cưới được mấy tuần trước ngày anh đi học tập. Hôm đó trời trở cơn giông đột ngột, tôi chạy vội tới một gốc cây bằng lăng để trú mưa vì lúc đi rừng tôi quên không mang theo áo mưa. Lúc tới được gốc “cây cổ thụ”, tôi đã “hồn vía lên mây” khi nghe tiếng gọi tên mình vọng xuống từ ngọn cây:
- Toàn. Toàn phải không?
Tôi ngơ ngác kiếm tìm xem ai đã gọi mình, nhưng trời đã tối mịt vì cơn mưa trong rừng nên chẳng thấy gì. Tôi sợ quá, đang định chạy trốn thì một sợi giây thòng xuống từ một cành bằng lăng rậm rạp phía trên đầu... Một bóng người trùm kín trong chiếc áo mưa cũ kỹ, vừa tuột xuống vừa lên tiếng:
- Mình đây. Thành đây.
Anh Thành đã xuống đất. Tôi đứng chết sững ngó đăm đăm người “đàn anh” nổi tiếng đẹp trai và hào hùng của mấy năm về trước, bây giờ ốm yếu da bọc xương, đen đủi hốc hác đang run cầm cập vì đói và rét. Tôi ngập ngừng:
- Trời ơi! Đúng là anh Thành đây mà. Sao anh ra nông nỗi này?
- Mình trốn trại cải tạo về đây đã mấy tuần rồi nhưng không dám về nhà vì sợ bị bắt lại. Trời xui đất khiến cho mình gặp được Toàn ở đây. Đúng là số mình chưa chết.
- Anh đừng nói gở. Bây giờ anh tính sao?
- Toàn có gì ăn không? Hơn hai tuần nay mình...

Tôi chỉ định đi kiếm măng vài tiếng đồng hồ nên chẳng mang theo gì ngoài con dao cán dài để đào măng. Cũng may trong túi còn gói thuốc lá và mấy miếng kẹo cao-su (chewing gum). Sau khi kể cho tôi nghe sơ qua về cuộc đào thoát từ trại cải tạo, anh bẻ một cành hoa bằng lăng mầu tím, khắc một dấu hiệu đặc biệt lên đó và nhờ tôi mang về cho Trang, vợ anh, đang ở với cha mẹ chồng trên Xuân Mỹ, Làng Ba. Tôi vội vàng trở về, hẹn hôm sau sẽ dẫn người nhà của anh vô rừng sớm. Thấy tôi trở về với một cành hoa bằng lăng mầu tím, mẹ và em gái tôi ngạc nhiên lắm, nhưng tôi cũng chẳng giải thích. Tôi dò hỏi đứa em gái về Trang, vợ của anh Thành. Lúc đó tôi mới biết chuyện anh Thành trở về Bình Giả sau năm 1975 với một cô gái người miền Nam, bổn đạo mới. Gia đình anh Thành không chấp nhận nhưng cũng đành xin cha xứ làm phép cưới cho hai người mấy tuần trước ngày anh ấy lên đường đi “học tập”. Năm đó Trang mới 17 tuổi, nhưng vì loạn lạc, gia đình chẳng còn ai nên đã theo người yêu là anh Thành trở về Bình Giả. Niềm vui chưa trọn vẹn thì hoàn cảnh ngang trái đã chia cách đôi vợ chồng trẻ hơn bốn năm nay. Trang ở với gia đình cha mẹ chồng như một chiếc bóng cô đơn bên đường, mòn mỏi đợi chờ ngày chồng trở lại!

Tôi mang cành hoa bằng lăng mầu tím lên Xuân Mỹ tìm nhà anh Thành. Hai bác tỏ vẻ khó chịu khi tôi hỏi thăm và muốn gặp Trang. Về sau tôi mới hiểu là ở Bình Giả đâu có ai mang hoa tới nhà cho con gái; hơn nữa, nàng lại là một người con gái đã có chồng! Từ nhà bếp đi lên, nhìn thấy tôi cầm cành hoa bằng lăng mầu tím trong tay, nàng đứng sững sờ nhìn tôi, miệng ấp úng nói không nên lời. Tôi vội vàng lên tiếng:
- Có người nhờ tôi trao cành hoa này cho Trang. Có dấu hiệu khắc trên đó.
Trang cầm cành hoa rồi bật khóc nức nở:
- Trời ơi! Anh Thành! Anh đã gặp anh Thành...
Bác gái vừa đỡ Trang ngồi xuống bên cạnh, vừa dồn dập hỏi tôi:
- Cậu Toàn gặp thằng Thành nhà tôi ở mô rứa? Công an đang truy nã nó mấy tuần nay. Trang nín đi con. Tai vách mạch rừng. Chết! Chết cả nhà bây giờ! Ngày nào cũng có người tới nhà hạch hỏi về nó. Ông đóng cửa lại mau đi. Khổ thân con tôi!

Tôi thầm thì kể lại cuộc gặp gỡ anh Thành trong rừng hồi chiều cho hai bác và Trang nghe. Cuối cùng cả nhà quyết định sẽ chuẩn bị một số thức ăn và thuốc men rồi tờ mờ sáng hôm sau Trang xuống nhà tôi đi vào rừng tìm gặp anh Thành. Nếu có ai hỏi thì nói là gia đình tôi thuê nàng đi làm cỏ lúa ở Đồng Tròn. Bác trai cũng muốn đi theo nhưng không dám vì sợ hôm sau công an lại tới nhà làm việc.

Suốt một tuần liền, ngày nào Trang cũng “đi làm thuê” cho tôi để vào rừng gặp gỡ anh Thành. Cám cảnh trước hoàn cảnh hiện tại, sau mấy ngày bàn bạc cùng gia đình, tôi đã quyết định nhường chỗ trên ghe cho anh Thành. Chúng tôi cũng sắp xếp cho anh Thành theo xe bò của một người quen ở Hòa Long đi lấy cọc tiêu để tránh gặp gỡ những người quen, rồi tôi đón anh ấy ra Long Hương “ở nhờ” nhà một người bạn thân của tôi để chờ ngày ra đi. Hơn hai tháng trời, tôi và Trang trở thành những người đi buôn chuyến. 

Thực ra, tôi chỉ chở Trang ra Long Hương gặp chồng, có khi ở đó một hai ngày trong lúc tôi đi Hố Nai, Gia Kiệm... lo việc riêng. Người trong làng đã bắt đầu đồn đãi về việc tôi và Trang đi buôn chung với nhau, nhất là còn đi qua đêm nữa! Mẹ tôi buồn lắm! Mặc dầu tin tôi, nhưng “lời ong tiếng ve” đồn thổi nhiều chuyện ly kỳ hấp dẫn về chúng tôi nên bà rất khổ tâm. Cha mẹ của anh Thành có vẻ bình tĩnh hơn vì nghĩ rằng những lời đồn đãi đó sẽ làm người ta quên dần chuyện anh Thành trốn trại cải tạo. Tôi vẫn xem Trang như một người bạn thân vì tôi cũng chỉ hơn nàng một tuổi, còn anh Thành thì xem tôi như một đứa em ruột, “một vị cứu tinh” đã dám liều mình cưu mang và giúp đỡ anh trong cơn hoạn nạn.

Anh Thành và một số bạn bè của tôi đã ra đi đột ngột trước ngày dự tính vì công việc “bến bãi” bị đổ bể. Sau một tuần không thấy tin tức gì về chiếc ghe đó, chúng tôi yên chí anh Thành đã ra khơi bằng yên. Tôi lại theo bạn bè tìm cách mua lại một chiếc ghe cũ ở Cần Giờ, đút lót xin giấy tờ tạm trú và bắt đầu công việc sửa chữa chuẩn bị một chuyến đi mới. Công việc bề bộn nên gần ba tháng sau tôi mới trở về thăm gia đình. Mẹ tôi vừa khóc vừa kể cho tôi nghe về hoàn cảnh của Trang. Nàng đã có thai, bụng càng ngày càng lớn. Anh Thành coi như mất tích vì không có tin tức gì. Bà con trong họ chất vấn nàng nhiều lần về đứa bé trong bụng. Lúc đầu cha mẹ anh Thành tin Trang, nhưng không biết làm sao để giải thích. Mọi người đổ tiếng xấu cho tôi và nàng. Dần dà cả gia đình nhà chồng cũng tin lời đồn đãi của thiên hạ, nhất là chờ mãi không thấy tin tức gì của anh Thành nên bắt đầu hạch hỏi và coi khinh nàng. Hai bác đã xuống nhà nói chuyện với mẹ tôi, có vẻ trách móc và đặt vấn đề tại sao chính tôi cũng trốn biệt từ mấy tháng nay. Mẹ tôi chỉ biết ngồi khóc vì tủi nhục! Em gái tôi cũng nửa tin nửa ngờ nên đã tìm gặp Trang để hỏi cho ra lẽ. Nó tin lời giải thích của Trang nên càng ngày càng thân với nàng.

Tuổi trẻ bồng bột và nhiều tự ái nên tôi đã lên gặp cha mẹ anh Thành đôi co và cãi vã với cả gia đình và giòng họ anh ấy để bênh vực cho Trang, nhưng rồi mọi người lại càng khinh bỉ và ghét bỏ Trang nhiều hơn trước. Quá tủi nhục và hổ thẹn, Trang đã liều mình tự tử! Cũng may người nhà phát giác kịp thời và cứu chữa cho nàng và bào thai trong bụng. Mặc dầu được cứu sống nhưng Trang trở nên lầm lì ít nói, sống vật vờ như một cái xác không hồn giữa sự khinh ghét của giòng họ nhà chồng.

Lúc bấy giờ em gái tôi cũng mới mang thai nên đã bàn với mẹ xin cho Trang về ở chung cho đỡ buồn và cùng đỡ đần giúp đỡ nhau trong lúc bầu bì cho có chị có em. Chính vì lòng tốt của em gái tôi mà cả làng đều nghĩ đứa con trong bụng Trang là của tôi. Mỗi lần tôi về thăm, Trang khóc nức nở không phải vì nỗi tủi nhục khi bị mọi người phỉ báng, nhưng nàng khóc vì đã làm hại danh dự của gia đình tôi. Lại một lần nữa, mẹ tôi gọi hai đứa lên hỏi han ngọn nguồn, và khi nghe chúng tôi thề thốt không hề có tà ý với nhau, mẹ tôi đã “ngồi xổm trên dư luận” để nhận Trang làm con tinh thần trong khi mọi người nghĩ rằng mẹ tôi làm thế để tránh tiếng vì bà đã biết chắc chắn bào thai trong bụng Trang là cháu nội của bà. Mẹ tôi âm thầm ngậm đắng nuốt cay để an ủi vỗ về Trang, mong cứu vớt một linh hồn vì mẹ tôi sợ rằng Trang lại liều mình tự tử như mấy tháng trước. Ôi! Mẹ đã hy sinh chịu nhục vì con và vì thương một người côi cút trong cơn hoạn nạn. Con xin cúi đầu bái phục lòng can đảm của mẹ cho đến trọn đời.

Trước ngày ra đi, tôi đã trở về để từ giã gia đình. Ngay khi biết tin tôi sắp sửa ra đi, Trang đã khóc nức nở và chuyển bụng sinh con. Vì bao nhiêu biến cố xẩy ra dồn dập suốt thời kỳ mang thai, Trang đã trải qua một đêm dài đau đớn, quằn quại đến kiệt sức nên y tá trong làng đề nghị phải đưa nàng đi cấp cứu ở bệnh viện để mổ. Đáng lẽ sáng hôm sau tôi phải trở lại Cần Giờ để chuẩn bị ra đi, nhưng tôi đi không đành nên đã lỡ một “chuyến đò”. Tôi theo mẹ và Trang ra bệnh viện. Trong lúc làm thủ tục giấy tờ trước khi đưa Trang lên bàn mổ, người ta đòi phải có thân nhân ký tên trong giấy tờ nên tôi đã đứng ra lo liệu... Cũng có thể vì lầm lẫn, và cũng có thể do số phận an bài nên các bác sĩ và y tá đã ghi tên tôi là “chồng” của Trang trong hồ sơ bệnh lý. Đó là lý do tại sao Tuân trở thành con tôi! Khi nghe tin Trang đi mổ, cha mẹ anh Thành cũng ghé thăm và xin lỗi mẹ tôi vì những hiểu lầm trước đây. Mẹ tôi cũng không chấp nhất gì nên mọi người đều vui vẻ.

Sau hai tuần Trang được xuất viện, trở về nhà với mẹ tôi. Mẹ tôi bàn qua với hai bác việc lên cha xin rửa tội cho cháu, và chính tờ giấy bệnh viện ghi tên tôi là cha đứa nhỏ đã gây nên sóng gió ồn ào cả xứ đạo. Cha xứ lắng nghe, nhưng Ban Hành Giáo và bà con trong họ anh Thành quyết liệt phản đối. Họ đến nhà hạch hỏi mẹ tôi đủ điều. Tuổi trẻ háo thắng nên tôi đã nổi nóng đuổi hết mọi người và quyết định chẳng thèm xin rửa tội cho Tuân nữa! Tôi chỉ muốn mọi người để cho chúng tôi yên nhưng miệng người không phải dễ “khóa”! Tôi ngang tàng chấp nhận sự dèm pha của mọi người và cứ hiên ngang ngẩng đầu tiếp tục chạy mánh tìm ghe lo chuyện vượt biên lần nữa. Lần này tôi quyết định sẽ đưa mẹ con Trang cùng đi.

Tôi có thể “đạp dư luận xuống bùn đen” để sống, nhưng Trang phải âm thầm than khóc từng đêm, nức nở đè nén “nỗi oan Thị Kính” từng giờ từng phút nên đã bị băng huyết cho đến chết, và chết trong tủi nhục vào một đêm tôi vắng nhà! Tôi trở về nhìn xác Trang nằm im bất động mà thấy lòng muốn nổi loạn. Tôi biết chắc chắn những phút cuối đời Trang đã phải quằn quại trong đớn đau tủi nhục! Tôi đã thực sự thù ghét mọi người trong xứ khi biết tin “người ta” không muốn cho tôi chôn Trang ở nghĩa trang giáo xứ vì bà con trong làng nghĩ rằng Trang đã tự tử! Tôi không hiểu tại sao cả xứ lại lên án và “trừng phạt” thân xác một người đã chết trong khi hằng tuần ở nhà thờ vẫn đọc kinh“Thương Người Có 14 Mối, Thương Xác 7 Mối”, trong đó có ghi rõ việc “chôn xác kẻ chết!”

Đâu có ai hiểu được nỗi đau đớn và tủi nhục đã gặm nhấm tim gan Trang từng giây từng phút vì bị cả làng, cả xứ kết tội oan ức, và nhất là sự dằn vặt nàng phải gánh chịu vì đã “gieo họa” cho gia đình tôi! Đâu có ai ở gần kề bên Trang trong những giây phút cuối đời của nàng để “kết án” nàng đã “liều mình tự tử”!!! Mẹ tôi muốn lên xin cha xứ giúp đỡ nhưng tôi đã điên lên phản đối. Tôi nhờ bạn bè ở xa về đào huyệt chôn Trang trong một góc rẫy của gia đình tôi ở mép rừng. Tôi đã bỏ xưng tội, bỏ lễ cả mấy năm trời vì lòng thù hận vẫn chưa nguôi! Đã nhiều đêm tôi gục đầu dưới tượng chịu nạn van xin lòng nhân từ hay thương xót của Chúa thay đổi trái tim “thù hận” của tôi, và tôi cũng xin Ngài thương tha cho những người đã kết tội “oan” cho chúng tôi! Tôi chỉ thật sự trở về với Chúa như “một con chiên lạc” mấy tuần trước ngày vượt biên... 

Cháu Tuân tuy mồ côi mẹ nhưng được bú nhờ sữa của em gái tôi cũng mới sinh được vài tháng nên cháu vẫn lớn lên theo ngày tháng trong tình thương yêu đùm bọc của gia đình tôi. Tôi vẫn đi đi, về về tìm mối làm ghe vượt biển. Những hôm ở nhà, thỉnh thoảng tôi bế Tuân ra rẫy, đến ngồi bên mộ Trang khấn nguyện. Công việc làm ghe càng ngày càng khó khăn nên mãi 4 năm sau tôi mới thành công. Trước khi lên đường, tôi đã vô rừng tìm kiếm và đào được một cây bằng lăng nhỏ đem trồng bên mộ Trang để làm kỷ niệm. Lúc bấy giờ Tuân đã chạy nhanh, nói sõi và lúc nào cũng quấn quít bên tôi những ngày tôi về quê. 

Cuối cùng tôi quyết định sẽ dẫn Tuân cùng đi mặc dầu mẹ tôi can ngăn nhiều lần. Tôi đã đi và tôi đã đến. Chính nhờ sự liều lĩnh của tôi mà Tuân có được ngày hôm nay. Tôi hãnh diện vì sự thành đạt của Tuân. Tôi mang ơn Oanh vì nàng đã tận tình yêu thương săn sóc “cha con” tôi từ bao nhiêu năm qua. Nếu không có tình yêu và lòng vị tha thông cảm của Oanh, tôi đã ngã quỵ trong cô đơn nơi xứ lạ quê người, và Tuân lại một lần nữa thành trẻ “mồ côi”! 

Nhìn hình ảnh Tuân hiên ngang bước lên khán đài, tôi cảm động rưng rưng nước mắt. Tôi không khóc khi Trang chết. Tôi không khóc khi phải chôn nàng ở mép rừng thay vì chôn ở nghĩa trang của giáo xứ. Tôi không khóc khi từ giã mẹ già và gia đình ra đi, nhưng giờ này tôi khóc vì biết chắc chắn Tuân đã trưởng thành, và mấy ngày nữa sẽ về thăm mộ mẹ đang nằm cô đơn hiu quạnh dưới gốc cây bằng lăng “cha con tôi” đã trồng trước ngày “biệt xứ”.
° ° ° ° °
Oanh đứng nép sát vào người tôi, run run cảm động nhìn Tuân đốt hương cắm lên mộ Trang rồi quỳ xuống gục mặt khóc thật to. Tôi dìu Oanh đến cạnh gốc cây bằng lăng đã bị đốn từ mấy năm trước, chỉ còn một số chồi non mới lên được vài mét. Tôi kinh ngạc khi khám phá ra một cành bằng lăng mới chớm vài nụ hoa mầu tím. Tôi với tay bẻ rồi cùng Oanh đến quỳ bên cạnh Tuân, nhẹ nhàng đặt cành hoa mầu tím trên ngôi mộ của Trang. Tuân ngẩng mặt lên nhìn hai chúng tôi khẽ nói:
- Con biết mẹ con đang mỉm cười bên kia thế giới. Con xin thay mặt cha mẹ quỳ lạy ba má đã nuôi con nên người.
Tuân nhẹ nhàng trao cho tôi tờ giấy thử nghiệm mẫu DNA xác định nó và tôi không phải “cha con”!   

Nguyễn Duy-An
   
Nước mắt nụ cười qua từng câu chuyện kể

1. Lương tâm  . 
Con ốm, nhập viện. Làm thủ tục, bác sĩ mặt lạnh tanh. Biết ý, tay mẹ run run dúi trăm nghìn vào túi “lương y”… Bác sĩ thân mật: “Nằm giường này cháu, đừng lo có bác!”. Biết đâu mẹ đang xỉu dần vì bán máu cho con. Lương tâm?

2. Xứ lạ quê người . 
Qua xứ người được vài năm thì ông anh họ của tôi bắt đầu gởi tiền về, giục các con lo học tiếng Anh và vi tính đẻ mai mốt qua đó có thể dễ dàng kiếm việc làm. 
Hôm vừa rồi, anh gọi điện về thăm gia đình chúng tôi, tôi hỏi anh có địa chỉ eMail chưa để tiện liên lạc, giọng anh chùng hẳn xuống: ”Suốt ngày tích- cực  lao-ôộng, làm thêm "over time", đâu rảnh để chơi internet!" 

3. Chung Riêng. 
Chung một con ngõ hẹp, hai nhà chung một vách ngăn. Hai đứa chơi thân từ nhỏ, chung trường chung lớp, ngồi chung bàn, đi về chung lối. Chơi chung trò chơi trẻ nhỏ, cùng khóc cùng cười, chung cả số lần bị đánh đòn do hai đứa mãi chơi. Đi qua tuổi thơ với chung những kỷ niệm rồi cùng lớn lên…
Uống chung một ly rượi mừng, chụp chung tấm ảnh... cuối cùng khi anh là chú rễ còn em chỉ là khách mời. Từ nay, hai đứa mình sẽ không còn có gì chung nữa, anh giờ là riêng của người ta…

4. Bàn tay

Hai đứa cùng trọ học xa nhà, thân nhau. Lần vào quán nước, sợ tôi không đủ tiền trả em lòn tay xuống gầm bàn đưa tôi ít tiền. Vô tình đụng tay em... mềm mại. 
Ra trường, hai đứa lấy nhau. Sống chung, em hay than phiền về việc xài phí của tôi. Bận nọ tiền lương vơi quá nửa đem về đưa em... chợt nhận ra tay em có nhiều vết chai.
Tự trách, mấy lâu mình quá vô tình.

5. Vòng cẩm thạch  . 
Cha kể, cha chỉ ao ước tặng mẹ chiếc vòng cẩm thạch. Tay mẹ trắng nõn nà đeo vòng cẩm thạch rất đẹp. Mỗi khi cha định mua, mẹ cứ tìm cách từ chối, lúc mua sữa, lúc sách vở, lúc tiền trường…
Đến khi tay mẹ đen sạm, mẹ vẫn chưa một lần được đeo. Chị em hùn tiền mua tặng mẹ một chiếc thật đẹp. Mẹ cất kỹ, thỉnh thoảng lại ngắm nghía, cười:  
-Mẹ già rồi, tay run lắm, chỉ nhìn thôi cũng thấy vui. Chị em không ai bảo ai, nước mắt rưng rưng.

6. Ngậm ngùi
Ba mất nửa năm, má dẫn hai con nhỏ về quê. Xin được mảnh đất hoang, cùng mần cỏ, dọn nền, lối xóm lạ hoắc tới tiếp dựng mái lá ở tạm. Tối, má gói bánh – nấu. Sáng, hai nhỏ út bưng bán. Má mượn xuồng đi chợ, áo thâm kim, nón lá rách.
Anh Hai ở Sài Gòn, thành đạt, giàu. Hôm về quê, anh đi dọc bờ sông, má thấy, bơi xuồng riết theo, goi tên con hụt hưởi. Anh ngoái nhìn rồi quay mặt đi tiếp. Má tủi, gạt dầm, cúi mặt khóc.. Nước mắt má làm xuồng quay ngang!

7. Tết  . 
Ngồi một mình trong căn phòng chung cư ở tầng 15, anh đón Tết một cách lặng lẽ. Ở nơi này vẫn có bánh chưng, bánh tét, vẫn có pháo, có hoa nhưng hình như vẫn thiếu một thứ gì đó.
Đã 35 cái Tết tha hương nhưng hình như trong anh vẫn còn tìm kiếm, dẫu rằng sự tìm kiếm đó ngày càng nhạt nhòa theo năm tháng. Phải chăng ‘thứ ấy’ là hương vị Tết quê nhà?
“Phải đi ngủ sớm thôi” Anh tắt đèn tự nhủ, “Mai còn phải đi làm…” 
 
8. Nghĩa tình  . 
Bố bị tai biến mạch máu não, nằm liệt giường. Em phải xin nghỉ việc để về nhà phụ mẹ chăm sóc bố. Hơn năm sau, bố mất. Em lại phải đi làm xa kiếm tiền gởi về cho mẹ trả nợ nần, thuốc men. Mãi bươn chải vì chén cơm manh áo, hơn ba mươi tuổi vẫn chưa lập gia đình.
Anh hai giục mẹ bán nhà ra ở với ảnh, có dâu có cháu cho vui tuổi già. Ngày về căn nhà ngày xưa đã đổi chủ, em chỉ còn biết khóc.  

9. Bóng nắng, bóng râm
Con đê dài hun hút như cuộc đời. Ngày về thăm ngoại, trời chợt nắng, chợt râm. Mẹ bảo: 
- Nhà ngoại ở cuối con đê. 
Trên đê chỉ có mẹ, có con
Lúc nắng, mẹ kéo tay con: 
- Đi nhanh lên, kẻo nắng vỡ đầu ra. 
Con cố.
Lúc râm, con đi chậm, mẹ mắng: 
- Đang lúc mát trời, nhanh lên, kẻo nắng bây giờ. 
Con ngỡ ngàng: sao nắng, râm đều phải vội ?
Trời vẫn nắng, vẫn râm... 
.... Mộ mẹ cỏ xanh, con mới hiểu: đời, lúc nào cũng phải nhanh lên.

10. Câu Hỏi  . 
Ngày đầu tiên cô phụ trách một lớp học tình thương đa phần là những trẻ lang thang không nhà cửa.
Cuối buổi học.
- Cô ơi. Dạy tụi con hát đi cô.
- Hát đi cô.
Còn mười phút. Nhìn những cái miệng tròn vo và những đôi mắt chờ đợi, cô dạy cho tụi trẻ bài "Đi học về".
- Hát theo cô nè... Đi học về là đi học về. Con vào nhà con chào ba mẹ.. Ba mẹ khen...
Phía cuối lớp có tiếng xì xào:
- Tao không có ba mẹ thì chào ai?
- ...
Cô chợt rùng mình, nghe mắt cay cay.

11. Ba Và Mẹ . 
Mẹ xuất thân gia đình trí thức nghèo, yêu thích thơ, văn. Ba tuy cũng được học nhưng là con nhà nông “chánh hiệu”.
Mẹ sâu sắc, tinh tế. Ba chất phác, hiền hòa.
Mỗi khi ba mẹ đấu lý, chị em nó thường ủng hộ mẹ, phản đối ba. Mẹ luôn đúng và thắng.
Hôm ba bệnh nặng, cả nhà lo lắng vào ra bệnh viện.
Tối ba nói sảng điều gì đó không ai hiểu. Nhưng lần đầu tiên nó nghe mẹ nói “Đúng! Ông nói đúng…” Quay đi, mẹ sụt sùi. Nó thút thít khóc.
 
12. Tình Đầu . 
Về quê, lần nào cũng vậy, hễ chạy qua ngã ba An Lạc là tôi cho xe chạy chậm hẳn lại, mắt nhìn vào ngôi nhà khuất sau vườn lá. Một lần, đứa con trai mười tuổi của tôi hỏi:
- Ba tìm gì vậy?
- Tìm tuổi thơ của ba.
- Chưa tới nhà nội mà?
- Ba tìm thời học sinh.
- Nội nói, lớn ba học ở Sài Gòn mà?
- À, ba tìm người... ba thương.
- Ủa, không phải ba thương mẹ sao?
- Ừ, thì cũng ... thương.
- Ba nói nghe lộn xộn quá. Con không biết gì cả.
- Ba cũng không biết.
Chỉ có Hồng Hạ biết. Mà Hạ thì hai mươi năm rồi tôi không gặp.

13. Bão . 
Sống miền duyên hải, công việc của anh gắn liền với tàu, với biển, với những chuyến khơi xa. Anh đi suốt, về nhà chẳng được bao ngày đã tiếp tục ra khơi. Mỗi lần anh đi chị lại lo. Radio, ti vi báo bão. Đêm chị ngủ chẳng yên, sợ bão sẽ cuốn anh ra khỏi đời chị.
Cuộc sống khá hơn, anh không đi biển nữa mà kinh doanh trên bờ. Anh đi sớm về trễ, có đêm vắng nhà, bảo vì công việc làm ăn. Nhưng nghe đâu...
Không phải bão, anh vẫn bị cuốn xa dần. Sóng gió, bão trong lòng chị.

14. Khóc . 
Vừa sinh ra đã vào trại mồ côi, trừ tiếng khóc chào đời, chồng tôi không hề khóc thêm lần nào nữa.
Năm 20 tuổi, qua nhiều khó khăn anh tìm được mẹ, nhưng vì danh giá gia đình và hạnh phúc hiện tại, một lần nữa bà đành chối bỏ con. Anh ngạo nghễ ra đi, không rơi một giọt lệ.
Hôm nay 40 tuổi, đọc tin mẹ đăng báo tìm con, anh chợt khóc. Hỏi tại sao khóc, anh nói:
- Tội nghiệp mẹ, 40 năm qua chắc mẹ còn khổ tâm hơn anh.
 
15. Đánh Đổi . 
Chị yêu anh vì vẻ lãng mạn và coi thường vật chật. Chị xa anh cũng vì lẽ đó. Nhân chứng của cuộc tình là chiếc xe đạp, nó chở đầy kỷ niệm của một thời yêu nhau. 
Mười năm xa cách, anh lao vào cuộc mưu sinh và có một gia sản ít ai bằng. 
Tình cờ anh gặp chị tại nhà, nhìn thấy chiếc xe đạp ngày xưa, chị hỏi: anh còn giữ nó? Anh nghẹn ngào: anh làm ra những thứ này mong đánh đổi những gì anh có trên chiếc xe đạp ngày xưa. 
 
16. Mẹ tôi . 
Mẹ sinh tôi giữa ruộng bùn vì lúc có mang tôi cũng là lúc gia đình lâm vào túng quẫn, mẹ đi cấy thuê lặn lội đồng sâu nước độc nên sinh tôi thiếu tháng. Tôi ốm đau èo uột. Mẹ thường cõng tôi qua sông đến nhà thầy thuốc. Tôi khỏe. Nhưng mẹ phải còng lưng ba năm trời để trả nợ.
Lớn lên tôi định bỏ học đi làm sớm. Mẹ quyết nhịn ăn bắt tôi đến trường. Mẹ là tấm gương soi suốt đời tôi.

17. Túi khoai thối 
Thử hình dung những cơn giận dữ của ta như những củ khoai, mỗi lần giận là bỏ vào túi một củ, ngày càng nhiều và chúng dần thối đi. Nếu không biết bỏ qua lỗi lầm của người khác, cứ giận họ mãi thì với ta chẳng lợi ích gì, họ cũng chẳng vì ta giận họ mà mập hay ốm đi, còn ta khác nào phải mang theo túi khoai vừa thối vừa nặng. Nếu biết bỏ qua, ta sẽ có nhiều bạn, không còn phiền lòng vì túi khoai thối ấy.        

18. CHUYỆN CÁI VÉ
 Một người cha dắt đứa con 6 tuổi đi sở thú chơi. Đến quầy bán vé, người cha dừng lại đọc bảng giá:
"Người lớn: $10.00
Trẻ em trên 5 tuổi: $5.00
Trẻ em dưới 5 tuổi: Miễn phí"
Đọc xong, ông nói với người bán vé:
- Cho tôi 1 vé người lớn và 1 vé trẻ em trên 5 tuổi.
- Con ông trên 5 tuổi à? – Người bán vé tò mò hỏi lại.
- Vâng.
- Nếu ông không nói cho tôi biết thì thằng bé được miễn phí rồi.
- Vâng, có thể không ai biết, nhưng con tôi tự nó biết.

19. Ba…
Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba rồi ba đích thân lên đưa cho tôi.
Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo không có xe máy, ba phải đi xe đạp. Chiếc xe gầy giống ba…
Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi:
- "Có dư đồng nào không con?".
Tôi đáp:
- "Còn dư bốn ngàn ba ạ".
Ba nói tiếp:
- "Cho ba bớt hai ngàn, để lát về, xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa".
Ba về, tôi đứng đó, nước mắt rưng rưng.

20. Mẹ và con
Con lên ba, chơi bên nhà dì, bị xe đạp ngã, trúng đầu chảy máu. Mẹ đang nấu cơm, hốt hoảng bế con chạy ngay đến bệnh viện. Hú vía. Vết thương chỉ nhẹ bên ngoài thôi. Hoàn hồn, mẹ nhìn lại mình: chân không dép, quần ống cao ống thấp, áo loang lổ vết máu. Chả giống ai! Mẹ cười.
Con lớn, mẹ bỗng bị chứng nặng tai. Lần lữa mãi, mẹ mới nhờ con đưa đi khám bệnh. Bác sĩ bảo: Để quá lâu, hồi phục thính lực cũng khó. Nhìn mặt mẹ ngơ ngẩn, con khóc.

21. Anh
Năm 18 tuổi, anh quyết định nghỉ học đi phụ hồ. Bố mẹ giận dữ, mắng "Sanh ra… giờ cãi lời bố mẹ…phải chi nó ngoan, siêng học như bé Út…"
Anh lặng thinh không nói năng gì…Bố mẹ mắng mãi rồi cũng thôi. Anh đã quyết thế!
Ngày bé Út vào Đại học, phải xa nhà, lên thành phố ở trọ. Anh tự ý bán đi con bò sữa -gia tài duy nhất của gia đình-, gom tiền đưa cho bé Út. Biết chuyện, bố thở dài, mẹ lặng lẽ, Út khóc thút thít…Anh cười, "Út ráng học ngoan…"
Miệt mài 4 năm Đại học, Út tốt nghiệp lọai giỏi, được nhân ngay vào công ty nước ngoài, lương khá cao… Út hớn hở đón xe về quê…
Vừa bước chân vào nhà, Út sững người trước tấm ảnh của Anh trên bàn thờ nghi ngút khói…Mẹ khóc, "Tháng trước, nó bị tai nạn khi đang phụ hồ… lúc hấp hối, biết con đang thi tốt nghiệp, nó dặn đừng nói con biết…"

22. Cua rang muối
Khi xưa nhà còn nghèo, mẹ hay mua cua đồng giả làm cua rang muối. Cua đồng cứng nhưng mẹ khéo tay chiên giòn, đủ gia vị nên thật ngon. Thấy các con tranh nhau ăn, mẹ nhường. Các con hỏi, mẹ bảo: răng yếu. Giờ, các con đã lớn, nhà khá hơn, chúng mua cua biển gạch son về rang muối mời mẹ. Các con nói vui:
- Cua rang muối thật đó mẹ.
Rồi chúng ăn rất ngon. Riêng mẹ không hề gắp. Các con hỏi, mẹ cười móm mém:
- Còn răng đâu mà ăn?!

23. Xa xứ
Em tôi học đến kiệt sức để có một suất du học.
Thư đầu viết: "ở đây, đường phố sạch đẹp, văn minh bỏ xa lắc nước mình…"
Cuối năm viết: "mùa đông bên này tĩnh lặng, tinh khiết như tranh, thích lắm…"
Mùa đông sau viết: "em thèm một chút nắng ấm quê nhà, muốn được đi giữa phố xá bụi bặm, ồn ào, nhớ chợ bến xôn xao lầy lội… Biết bao lần trên phố, em đuổi theo một người châu Á, để hỏi coi có phải người Việt không…"


24. Đi thi
Chị Hai thi đệ thất. Ba thức dậy từ tờ mờ chở chị đi trên chiếc xe đạp cũ. Chị Hai đậu thủ khoa. Má bảo: “Nhờ Ba mày mát tay”. Từ đó, lần lượt tới anh Ba rồi cô út – cấp II, cấp III, tú tài, đại học – Đứa nào cũng một tay Ba dắt đi thi. Giờ cả ba đều thành đạt.
… Buổi sáng, trời se lạnh, Ba chuẩn bị đi thi “Hội thi sức khỏe người cao tuổi”. Má nhìn Ba ái ngại: “Để tôi gọi taxi. Tụi nhỏ đều bận cả”.
Buổi tối, má hỏi: “Ông thi sao rồi?”. Ba cười xòa bảo: “Rớt!”

25. THỊT GÀ
Tạnh mưa, bọn trẻ bưng cơm đứng ăn trước cửa. Tý khoe:
- Nhà Tý ăn thịt gà.
Đêm đó, bà Tám chửi:
- Mả cha nó, nghèo mạt kiếp tiền đâu ăn gà, nó ăn gà bà, nó chết bất đắc.
Ông giáo buồn lắm, ngã bệnh, qua đời. Thương tình, hàng xóm lo ma chay. Tý hớn hở vì nhà nó đông vui.
Trời đổ mưa.
Thằng Tý la lớn:
- Con gà vô nhà, dậy bắt làm thịt ba ơi.
Mọi người nhìn theo. Thì ra, một con cóc dưới kẹt tủ đang giương mắt nhìn lên quan tài ông giáo.
(Đừng vội kết tội cho người khác bạn nhé. Hãy bao dung độ lượng và tha thứ)

26. Chỉ có một người thôi
Người đến dự đám cưới khá đông. Ông hàng xóm gọi bác làm công đến và bảo:
- Này, anh đi xem xem có bao nhiêu người đến dự đám cưới bên ấy..
Bác làm công ra đi. Bác để lên ngưỡng cửa một khúc gỗ và ngồi lên bờ tường đợi khách khứa ra khỏi nhà. Họ bắt đầu ra về. Ai đi ra cũng vấp phải khúc gỗ, văng lên chửi và lại tiếp tục đi. Chỉ có một bà lão vấp phải khúc gỗ, liền quay lại đẩy khúc gỗ sang bên.
Bác làm công trở về gặp người chủ.
Người chủ hỏi:
- Ở bên ấy có nhiều người không?
Bác làm công trả lời:
- Chỉ có mỗi một người mà lại là bà lão.
- Tại sao vậy?
- Bởi vì tôi để khúc gỗ bên thềm nhà, tất cả đều vấp phải, nhưng cũng chẳng ai buồn dẹp đi. Thế thì lũ cừu cũng làm như vậy. Nhưng một bà lão đã dẹp khúc gỗ sang bên để người khác khỏi vấp ngã. Chỉ có con người mới làm như vậy. Một mình bà lão là người.

27. Phấn Son
Tốt nghiệp đại học, ở lại thành phố đi làm.
Tháng rồi, mẹ vào thăm. Mừng và thương. Mẹ khen: “Bạn gái con xinh”.
Cuối tháng, lãnh lương. Dẫn người thương đi shopping.
Em bảo: “Mỹ phẩm của hãng này là tốt nhất. Những loại rẻ tiền khác đều không nên dùng vì có hại cho da, giống mẹ anh đó, mẹ bị nám hết anh thấy không…”
Chợt giật mình. Mẹ cả đời lam lũ, nắng gió với cái ăn, nào đã biết phấn son màu gì./.