a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Sáu, 10 tháng 11, 2017

COI KHỈ HÁI DỪA



Tôi cầm cái bao ny lông, nhón gót đi lần xuống nước. Chỗ nầy không còn cát mịn như ở đàng kia mà đầy những mảnh vụn san hô trắng lột xột, nằm xen lẫn với những tảng đá lớn, rong rêu đen ngòm. Nước trong xanh lắp xắp ngang bắp vế mát lạnh. Trời xế trưa nắng nóng trên lưng. Trước mặt, một đám đông đàn bà, con nít đang nghiêng mình mò mẫm dưới cát. Tiếng nói chuyện lồng lộng xen trong sóng gió rào rào. Tôi cũng bắt chước làm y theo họ, nhìn lom lom đám sỏi cát nhấp nhô gờn gợn theo làn nước chập chờn. Cách đó vài thước, một bà Tàu già cầm trên tay một cái túi ny lông, chứa những con đĩa biển nằm lềnh ra như môt đám bùn đen sền sệt bầy nhầy. Không biết do ai bày ra, cả trại xúm nhau nhào xuống biển bắt con đồn đột, một loại đĩa biển mềm nhũn, lớn cở trái chuối già, chín rục đen thui. Dưới đáy nước rải rác đó đây, những con đồn đột đen nằm phơi mình trên cát trắng nên dễ thấy. Tôi thò tay xuống mò bắt một con. Bàn tay vừa chạm trên mình nó, cảm thấy nhớt nhớt, trơn tuột mềm xèo nghe ghê ghê, thuận tay tôi quăng tòm trở lại, thất vọng đứng thẳng lưng, nhìn vào bờ.
Trên bờ Sơn đang lỏm bỏm đạp nước đi ra, miệng hỏi vang rân:
-Giữa trưa nắng mà lội ra biển bắt con đồn đột, bộ anh dám ăn hả?
-Thấy người ta làm thì mình bắt chước. Còn ăn được hay không thì thủng thỉnh tính sau.
Sơn cười hề hề:
-Tính trước tính sau gì. Chiều hôm qua anh Tư Trần Hưng Đạo bắt được cả rổ. Không biết cách làm, đem phơi nắng cho khô, nhè đâu nó rút lại teo nhách, không còn gì hết, phải đem đi bỏ...
Tôi nản chí quăng luôn cái bao xuống dưới nước, rủ Sơn lên bờ. Trưa nay, ít gió nên sóng chỉ lăn tăn. Hai đứa kéo nhau ngồi dưới đám dừa im mát. Chỗ nầy cỏ mọc loang lổ vì thiếu nắng. Sơn bận cái quần xà lỏn đen ở trần. Nó vốn đã ốm, cơm gạo đảo Dừa lại hiếm hoi nên xương sườn xương sống đã bắt đầu lộ nét. Tôi cũng không khá gì hơn, ốm nhôm ốm nhách, râu tóc lại không được cắt xén, mặt mày tay chưn đen thui... chắc cũng gần giống Mã Lai. Thực phầm trên ghe lúc mới tấp vô đảo, còn được tám bao gạo chỉ xanh, cả tuần nay chia nhau ăn, tuy tiện tặn từng chút nhưng cuối cùng rồi cũng hết, không còn một hột để cầm hơi, đành phải lấy phần cốm dẹp cuối cùng đem nấu cháo cho Bi. Rồi tới gói sữa bột còn lại, gói sữa nầy khi đi soạn để đem theo, ai thấy cũng cười. Nhè đâu nhờ có nó mà Bi cầm cự được vài buổi.
Thiếu hụt thực phẩm, sinh hoạt trên đảo dần dần ngưng đọng, im lìm. Người lớn đâm ra bớt nói năng, con nít thôi không chạy giỡn. Những ánh lửa vàng vọt không còn hắt hiu bên vách thì làm sao người ta còn thấy được những làn khói xám mờ nhạt uốn éo vươn cao vào lúc bình minh hay buổi chiểu tà. Tình cảnh tuy chưa đến nỗi thảm thương nhưng coi bộ hết đường cạy gỡ. Không biết tụi lính Mã Lai trên đảo xử trí ra sao mà không thấy chúng đến tiếp tế, giúp đỡ hỏi han gì. Cái điệu nầy mà kéo dài thì chắc đói hả họng cả đám. Tôi nắm lấy tay Sơn:
-Sơn nè, anh chị cám ơn em nhiều lắm. Làm sao mà Sơn còn được lon gạo để cho anh tối qua.
-Có gì đâu mà anh nghĩ ngợi hoài cho mệt vậy. Em còn dấu được hai lon. Tụi mình lớn, dầu có đói thì cũng rán chịu đựng được năm ba ngày. Chớ Tâm Bi còn quá nhỏ, thiếu ăn đâu có được, hổng có cơm thì phải có cháo chớ!
Nghe Sơn nói, tôi cảm động quá sức, không biết nói sao cho hết nỗi cám ơn, đành ngồi trơ ra như đất, mắt mơ hồ nhìn từng đợt sóng nối tiếp tan thành bọt trắng trên mé cát mà lòng rưng rưng. Trong những bạn đồng hành, mức độ thân tình của hai đứa cũng bình thường như bao người khác. Nào ngờ trong lúc túng hụt, Sơn lại là người giúp đỡ đầu tiên. Ở đời, có nhiều người bề ngoài bình thản, tình cảm ít biểu lộ nhưng bên trong chứa đựng một tấm lòng tốt đẹp bao la. Phải cùng chung hoạn nạn gian nguy, mới biết rõ lòng nhau. Sơn quay qua tôi chỉ về phía trước:

-Anh coi kìa, tụi con nít đi đâu mà kéo nhau cả lũ...
Ở phía đằng kia, một đám lóc nhóc, tốp năm tốp ba có cả người lớn, len lỏi đi thấp thoáng sâu vô trong đám cỏ tranh. Thấy có cái lưng mập ú của thằng Lĩnh, cái dáng ốm tong ốm teo của thằng Trung, con Dung, con Xuân Lan thì được má nó ẳm tòn ten bên nách. Có cả bốn đứa con gái nhỏ của Tư Trần Hưng Đạo vừa chạy vừa kêu nhau ơi ới. Giờ này nắng chang chang. Cũng vừa lúc đó, Út Trung đi ngang gặp tôi với Sơn nghỉ mát dưới bóng cây, bèn rủ:
-Đi vô rừng coi khỉ hái dừa...
À, thì ra như vậy. Tôi khoái chí đứng bật dậy, kéo Sơn theo. Chuyện hết cơm hết gạo để đó thủng thẳng rồi tính. Bây giờ đi coi khỉ hái dừa cái đã. Cả ba đứa lần theo đường mòn dẫn vô đám dừa dầy đặc. Một đám đông chùm nhum ở đó tự bao giờ. Mọi người cười nói chỉ chỏ trên cao. Tôi nhìn lên thấy một con khỉ nhỏ xíu như đứa con nít lên hai, cổ cột sợi dây dài, đang leo thoăn thoắt lên cây dừa. Cây dừa dài ngoằn cao vút ngó tới rớt ót, vậy mà trong giây phút, nó đã leo lên tới đọt. Hai tay hai chưn dài thườn thuợt lông xám ngoét, lều khều bám vô thân dừa xù xì, dính chặt như thoa kéo. Dưới đất, một người Mã Lai già da màu đất nâu, quấn một cái khăn có sọc màu xanh đỏ chùm bum trên đầu, đương đứng đốt thuốc hút. Con khỉ dùng tay và chưn vặn xoay tròn trái dừa. Cái cuốn dai nhách. Thằng nhỏ Trung, nhìn con khỉ vặn vẹo cái mình ốm nhách, khoái chí nhảy tưng tưng, nhe hàm răng sún ra cười hăng hắc, cái quần cụt xệ xuống khỏi rún, thiếu điều muốn tuột luôn. Một đám con nít chỉ chỏ, cười nói vang rân. Thằng khỉ đột Zăm Bri từ con đường mòn lù lù hiện ra, đi lặc lè tới, nhìn con khỉ đang vặn trái dừa, thấy thằng Trung quần xệ, ở trần nhảy choi choi cũng cười, bật nói:
-You, the monkey!
Thằng nhỏ không biết tiếng Anh, sợ bị phạt, đứng im.
Thấp thoáng qua kẽ lá đan nhau, một bóng người đi tới dịu dàng. Người đẹp dảo Dừa trưa nay bận chiếc áo mài xanh non lá mạ có thêu bông trắng. Út Trung nghiêng qua vai, nói thì thầm:
-Bà Chiều Tím cũng lặn lội ra đây coi khỉ hái dừa y như tụi mình..
Nghe Trung nói tôi đâm sực nhớ mình đang ờ trần, râu tóc mọc vô trật tự, da dẻ đen đúa. Dưới chưn mang một đôi dép đứt, cột vá víu bằng sợi dây nhợ đỏ lượm được. Tự dưng, tôi đâm ra ngượng ngùng, đưa mắt lên cao nhìn cái quài dừa còn trơ lại mấy trái non. Con khỉ sau khi đã được thưởng công bằng trái chuối, chuyền qua cây kế bên, kéo theo đám con nít mũi dãi thò lõ, cùng thằng Trung nhỏ bận quần xệ rún, thằng Zăm Bri chống gậy lặc lè, đi đâu mất tiêu từ hồi nào tôi không hay biết. Cái số gì mà xui xẻo. Mỗi khi ăn diện đẹp đẽ, tóc tai chải gỡ ngay hàng thẳng lối, thì không gặp được ai để khoe. Còn khi quần áo lôi thôi lếch thếch, mặt mày nhăn nhó xấu xí, thì trăm lần như một, hết gặp người nầy tới đụng người kia. Thiệt là hết đường làm ăn. Ông già Mã Lai lui cui lượm những trái dừa vừa được hái quăng vương vãi đó đây, gom lại thành đống. Xong rồi ông ta dùng con dao nhọn xé tách vỏ dừa xanh bóng một miếng xơ nhỏ, rồi dùng xơ cột hai trái dính chắc làm một, lấy chiếc đòn tre dài xỏ ngang qua như xỏ xâu chùm bánh tét, rồi è ạch kê đòn lên vai, gánh dừa chuyển dần xuống ghe. Mấy chục trái dừa nặng trì xuống, khiến cái vai của ông oằn nghiêng một bên theo nhịp bước chưn đi. Nải chuối sứ chín vàng lườm để dành cho khỉ ăn còn le que vài trái cũng được treo lủng lẳng ở đầu đòn. Ở đằng kia, cũng có vài người Mã nữa, họ đang trông coi cho khỉ hái tiếp những cây dừa còn lại.
Nàng đã tới gần. Tôi đâm luống cuống không biết nói năng ra sao đành mỉm cười gật đầu chào và đứng im. Các tàu lá đong đưa đầy nắng vàng rực rỡ. Con đường mòn cát trắng khô, chạy khuất trong đám lá xanh xanh. Xung quanh là những cây dừa cao vút. Tất cả đều chập choạng mơ hồ. Út Trung bước tới trước, đon đả làm quen:
-Chào chị. Chị ở đây lâu, có thấy khỉ hái dừa lần nào chưa, tụi tôi mới thấy lần đầu. Ngộ quá, con khỉ nhỏ xíu mà vặn nổi trái dừa...
Nàng chào lại, mắt sáng trưng:
-Dạ thưa, tháng trước cũng có thấy hái một lần. Lúc đó, số dừa tươi bị chúng tôi hái trộm nhiều quá, nó mét với Tăn Ku, thành ra bây giờ tụi lính Mã Lai kiểm soát chặt chẽ hơn. Rồi cấm đoán, khó khăn lắm..
Rồi nàng tiếp :
-Phải chi hái trái để ăn thì cũng không sao, mấy ảnh lại nhè đốn luôn cả cây. Tụi nó bắt gặp được tất cả bảy cây bị đốn. Thành ra mấy tuần nay bị cấm bẻ dừa, cấm câu cá, cấm đi vòng qua bên kia đảo tiếp xúc với ngư dân...
Tôi xen vô tiếp chuyện, mắt nhìn thấy một nốt ruồi nhỏ bên mép phải, trong bụng nghĩ thầm, cái miệng nầy chắc cũng ăn hàng dữ lắm:
-Hèn chi, từ ngày ghe tụi tôi tấp vô đảo, tụi lính Mã Lai coi bộ gầm gừ quá. Nó ra đủ thứ luật lệ... loay hoay ở mé biển hoài, không được đi đâu hết. Lều của mấy anh chị ở sát bên, vậy mà cũng không được liên lạc... thành ra không biết tin tức gì hết trơn. Hôm trước thấy chị nói chuyện với Tăn Ku, cứ tưởng chị là người Mã Lai.
Nàng cười rạng rỡ, má lúm đồng tiền tròn vo:
-Em học nói bập bẹ được vài câu thông thường. Anh Quang em thì nói được giỏi hơn. Tụi em đến đây cũng gần hai tháng rồi.
A, thì ra ông Chiều Tím, tên Quang. Nàng, người đã đẹp, lại ăn nói ngọt ngào. Ba tiếng ‘anh Quang em’ thoáng nghe dễ thương, mà cũng dễ giận hết sức. Ở đời, sao có những người tốt phước, chắc lúc trước anh ta tu đúng chín kiếp, chưa từng phạm giới lần nào. Bỗng dưng tôi muốn biết mặt mày, tướng tá của anh chàng nầy. Cũng không biết để làm chi !
Từ bên trong rừng dừa, chị Điệp tay dắt thằng Trung, con Dung, chị Kiều bồng con Xuân Lan và mấy đứa nhóc tì coi khỉ đã trở ra. Cả đám dừng lại khi thấy người đẹp đảo Dừa đang nói chuyện với hai đứa tôi. Trước lạ sau quen, mấy bà gặp nhau thì ôi thôi, có biết bao nhiêu điều để nói. Câu chuyện xoay dần quanh việc mua bán đổi chác. Tôi chú ý lắng nghe vì biết rồi mình cũng sẽ cần. Nàng mở đầu:
-Em có quen với Tăn Ku, mỗi ngày đều có ghe liên lạc với đất liền. Nó có thể mua dùm cho mình thực phẩm và các thức cần dùng. Cũng tiện lắm. Mấy ngày nay, em biết là anh chị đã hết gạo muối nhưng tụi lính Mã Lai chưa cho em đi ra ngoài nầy. Mãi đến hôm nay nó mới cho phép...
Chị Điệp ríu rít hỏi thăm các chi tiết:
-Nếu mua được đồ ăn thì đỡ quá. Cái gì cũng thiếu thốn, chịu đựng hết muốn nổi. Mua được gạo là tốt nhứt. Nhưng làm sao có tiền Mã Lai để gởi mua...
Nàng giải nghĩa:
-Làm sao có tiền Mã cho được. Tụi nó chỉ xài đô la với vàng. Tiện nhứt là vàng. Nó sẽ qua Kuala Trengganu đổi ra tiền Mã, một chỉ tính ra được hai mươi lăm đồng, rồi mua đồ ăn. Mình tạm sống cho qua ngày để chờ được đưa qua đảo Bidong. Còn nếu có đô la, thì tính một đô ăn hai Mã...
Chị Kiều lẩm bẩm tính:
-Nếu vậy thì một lượng vàng chạy ra có một trăm hai mươi lăm đô. Sao ít quá vậy?
Tôi cũng loáng thoáng thấy giá đó quá thấp so với giá vàng hiện tại nhưng sợ người đẹp mích lòng đổi ý, bèn xen vô:
-Thôi kệ nó, mắc rẽ gì. Mình không mua chịu nhịn đói sao! Thôi, nếu được vậy nhờ cô mua dùm...
Nàng trả lời, giọng ngây thơ:
-Em cũng đâu có biết. Lúc đi còn dấu được một ít. Cứ đưa cho nó, nhờ mua dùm, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Nhưng theo em thấy nó cũng không gạt gẫm gì mình. Lính tráng mà, đâu biết mua bán gì. Thông thường thì có gạo, đường, sữa, đồ hộp... Các anh chị muốn mua gì, thì ghi vô giấy đưa cho em...
Chuyện thảo luận mua bán kể như đã xong. Người đẹp trở thành người môi giới liên lạc giữa TănKu và dân tỵ nạn. Ai còn dấu được chút ít vàng bạc, thì cứ đưa cho nàng để đổi lại một mớ thực phẩm để cầm hơi. Tôi chạy u về lều, bàn với Duyên mua các thức cần dùng, lấy một nhẫn vàng đưa cho nàng và chờ đợi.
Mặt trời đã nghiêng xuống bên kia sát mặt biển loáng vàng, nắng đã dịu hơn. Gió lào rào trên đọt dừa. Ba người Mã Lai còn trẻ lục tục khiêng những xâu dừa nặng trĩu trở ra ghe. Trên đầu mỗi đòn gánh, vắt vẻo con khỉ con, miệng ngậm ngồm ngoàm trái chuối, mắt láo liêng. Coi thiệt giống... khỉ hết sức!

Võ Kỳ Điền
Pulau Bidong Miền Đất Lạ - Chương 17