Theo tin tức khoa học mới nhất đăng trên website trường Đại học Alberta của Canada ngày 5/8/2021, một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế đã tìm thấy bằng chứng về trận lũ lụt thảm khốc xảy ra cách đây hơn 12.000 năm.
Thảm khốc nhất trong lịch sử Trái Đất
Theo tin tức khoa học mới nhất đăng trên website trường Đại học Alberta của Canada ngày 5/8/2021, một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế đã tìm thấy bằng chứng về trận lũ lụt thảm khốc xảy ra cách đây hơn 12.000 năm.
Nước rút mạnh đến mức đã làm cạn kiệt một hồ cổ với tốc độ rút nước của hơn 800 hồ bơi Olympic tiêu chuẩn MỖI GIÂY, có thể đẩy Trái Đất lúc đó đang nóng lên trở lại kỷ Băng hà lạnh giá.
Nhóm nghiên cứu quốc tế - do các nhà khoa học tại Đại học Alberta (Canada) dẫn đầu - ước tính, trận lụt thảm khốc cuốn cạn nước từ hồ băng Agassiz cách đây hơn 12.000 năm đó có thể là trận lụt lớn nhất từng được biết đến trong lịch sử Trái Đất.
Các nhà địa chất từ lâu đã biết đến một hồ cổ ở trung tâm Bắc Mỹ, hồ Glacial Agassiz (hay hồ băng Agassiz), chiếm diện tích 1,5 triệu km vuông của khu vực ngày nay là nam tỉnh Manitoba và trung tâm tỉnh Saskatchewan, cho đến biên giới tỉnh Alberta (3 tỉnh đều thuộc Canada ngày nay).
Hình ảnh về hồ cổ Agassiz. Nguồn: Sheffield University (Anh)
Hồ Agassiz được hình thành cách đây 16.000 năm khi tấm băng Laurentide dày 3.000 mét ở phía bắc Bắc Mỹ tan chảy, tạo ra một con đập tự nhiên ngăn dòng nước băng tan chảy vào Vịnh Hudson (thuộc lãnh thổ Nunavut của Canada).
Theo các nhà khoa học, nguyên nhân của trận lụt có thể là do Trái Đất khi đó ấm lên làm băng tan ồ ạt, chảy xuống hồ băng Agassiz đến quá ngưỡng chứa của hồ nước và con đập tự nhiên.
Dòng chảy "quái vật"
Bằng chứng địa mạo từ phía bắc Alberta cũng cho thấy rằng, nước của hồ Agassiz tràn ra phía tây bắc dọc theo một con đập chính được gọi là Clearwater-Athabasca Spillway, qua khu vực ngày nay gọi là thung lũng Fort McMurray (đông bắc Alberta) đi vào lưu vực sông Mackenzie (dài thứ hai của Bắc Mỹ) trên đường tới Bắc Băng Dương.
Cả quãng đường tràn nước này dài 233km!
Trong phần đầu tiên của nghiên cứu, các nhà khoa học sử dụng bằng chứng trầm tích để ước tính lực của nước, cũng như hơn 100 mặt cắt ngang của thung lũng để ước tính lưu lượng khổng lồ của dòng chảy.
Nhóm nghiên cứu đã tìm ra tốc độ xả nước khủng khiếp của trận lũ lụt - ở mức lớn nhất đạt 2 triệu mét khối nước MỖI GIÂY. Lưu lượng đó gấp khoảng 10 lần lượng xả trung bình của sông Amazon mỗi giây!
Tất cả nói lên rằng:Trận lũ lụt thảm khốc đó đã rút đi khoảng 21.000 km khối nước của hồ Agassiz - tương đương với tổng lượng nước của Ngũ Đại Hồ ở Bắc Mỹ - chỉ trong vòng chưa đầy 9 tháng.
Paul Carling, đồng tác giả nghiên cứu từ Đại học Southampton, Vương quốc Anh cho biết: "Điều tôi cảm thấy vô cùng hài lòng là với mô hình thủy lực hiện đại, khi được áp dụng cho các bằng chứng trầm tích bảo tồn tại đó, đã cho chúng tôi hình dung bức tranh về một trận lũ lụt kinh hoàng đã lan truyền cách đây 12.000 năm như thế nào".
Mặc dù các nhà khoa học không chắc điều gì đã khiến Trái Đất quay trở lại kỷ Băng hà, nhưng giả thuyết về lũ lụt của hồ Agassiz chắc chắn là hợp lý.
Các nhà khoa học sử dụng bằng chứng trầm tích để ước tính lực của nước, cũng như hơn 100 mặt cắt ngang của thung lũng để ước tính lưu lượng khổng lồ của dòng chảy. Ảnh: Đại học Alberta, Canada.
"Chúng tôi không biết chắc chắn rằng trận lũ lụt gây ra bởi việc hồ Agassiz tràn nước có khiến Trái Đất quay trở lại kỷ Băng hà hay không, nhưng có một điều chắc chắn rằng nếu bạn đổ lượng nước khổng lồ đó (21.000 km khối nước) xuống Bắc Băng Dương, thì các mô hình cho thấy, khí hậu Bắc Bán cầu sẽ mát mẻ hơn nhiều" - Duane Froese, Trưởng ban Nghiên cứu Canada về Thay đổi Môi trường Phương Bắc, thuộc Khoa Trái Đất và Khí quyển (Đại học Alberta) cho biết.
Tiếp theo đây, các nhà nghiên cứu sẽ cố gắng tìm hiểu cũng như tìm kiếm bằng chứng về trận lụt xảy ra đã kích hoạt sự kiện khí hậu Younger Dryas, hay nó chỉ là một phần của các sự kiện khác.
Trước đó, vào tháng 6/2021, một nhóm các nhà nghiên cứu riêng biệt đã nói rằng một tác động vũ trụ, có thể là một tiểu hành tinh, đã va vào Trái Đất và có khả năng gây ra sự thay đổi khí hậu Younger Dryas. Sự thay đổi này có khả năng là 'tác động tàn khốc nhất kể từ khi khủng long tuyệt chủng' và dẫn đến một tiểu Kỷ Băng hà kéo dài hơn 1.000 năm.
Theo Trang Ly/Pháp luật & Bạn đọc
Những sự thật ít biết về các kim tự tháp Ai Cập.
Trong các kim tự tháp Ai Cập vẫn chứa nhiều bí ẩn mà con người vẫn chưa khám phá ra.
Kim tự tháp Ai Cập.
1. Công dụng và ý nghĩa của kim tự tháp Ai Cập
Theo nhiều tài liệu ghi lại, người Ai Cập cổ đại có niềm tin mãnh liệt về sự hồi sinh và bất tử. Họ chuẩn bị rất cẩn thận và chu đáo cho cái chết của bản thân mình và những người trong gia đình, dòng họ bằng cách xây dựng lăng mộ. Kim tự tháp đóng vai trò là lăng mộ cho các Pharaoh và hoàng hậu trong hai thời kỳ Cổ vương quốc và Trung vương quốc.
Hình dạng của kim tự tháp Ai Cập được cho là tượng trưng cho mô đất nguyên thủy mà người Ai Cập tin là từ đó Trái Đất được tạo ra, cũng như những tia nắng Mặt Trời chiếu xuống. Tên của các kim tự tháp cũng có liên hệ tới ánh sáng mặt trời. Chẳng hạn như kim tự tháp Cong tại Dahshur có tên là kim tự tháp Tỏa sáng ở phía Nam, còn kim tự tháp Senwosret ở el-Lahun có tên là Senwosret đang Tỏa sáng.
Đến nay, các nhà khoa học đã tìm ra 138 kim tự tháp ở Ai Cập. Chúng đa phần đều được xây trên tả ngạn sông Nile, nơi mặt trời lặn và được xem là có liên quan tới thế giới của người chết trong thần thoại Ai Cập. Sông Nile là sông chính của khu vực Bắc Phi, thường được coi là con sông dài nhất trên thế giới, với chiều dài 6.853 km và đổ nước vào Địa Trung Hải. Sông Nile có ảnh hưởng nhất ở châu Phi, gắn liền với sự hình thành, phát triển và lụi tàn của nhiều vương quốc cổ đại, góp phần tạo dựng nên nền Văn minh sông Nile.
Trong số các kim tự tháp ở Ai Cập, đại kim tự tháp Giza hay còn gọi là kim tự tháp Khufu là kim tự tháp cổ đại và lớn nhất nằm ở quần thể kim tự tháp Giza của Ai Cập, chỉ có duy nhất kim tự tháp này là nằm trong danh sách bảy kì quan thế giới cổ đại. Đại kim tự tháp Giza được xây trong khoảng thời gian 24 năm từ khoảng năm 2560 TCN, là lăng mộ của Pharaoh Cheops thuộc Triều đại thứ 4 thời Ai Cập cổ đại.
2. Nhiệt lượng dị thường bên trong các Kim tự tháp
Dù bên ngoài nhiệt độ rất nóng nhưng bên trong các kim tự tháp, cụ thể là kim tự tháp Giza nhiệt độ luôn ổn định ở khoảng 20 độ C. Theo sách lịch sử văn minh thế giới, các nhà khoa học mang những đồng xu hoen gỉ vào trong kim tự tháp và sau hơn 1 tháng thì những đồng tiền đó đã trở nên sáng bóng và mới tinh.
Họ tiếp tục mang một cốc sữa tươi vào bên trong kim tự tháp và sau 1 tháng thì mùi vị và màu sắc của ly sữa vẫn không hề thay đổi, hay hoa quả mang vào đó để nửa tháng vẫn còn rất là tươi, không hề bị mất nước, khô héo hay hư hỏng. Đó vẫn là một bí ẩn lịch sử mà chưa nhà khoa học nào giải thích được.
3. Cách xây dựng kim tự tháp
Cho tới nay, các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra cách chính xác giúp người Ai Cập cổ xây dựng các kim tự tháp.
Kim tự tháp được xây dựng từ 2,3 triệu khối đá, mỗi khối đá có trọng lượng từ 2,5 – 15 tấn. Con người đã đưa ra rất nhiều giả thuyết về quá trình xây dựng các kim tự tháp. Một số cho rằng các kim tự tháp do các sinh vật ngoài trái đất xây dựng, còn những người khác lại tin rằng người Ai Cập cổ đại đã sở hữu một bí quyết thất truyền nào đó qua nhiều thế hệ để xây dựng các kim tự tháp.
Các Pharaoh đều bắt đầu xây dựng các kim tự tháp dành cho mình ngay khi họ lên ngôi. Thường những lăng mộ đặc biệt này được đặt bên bờ tây sông Nile, với quan niệm rằng linh hồn của các Pharaoh sẽ hòa cùng với ánh mặt trời và tiếp tục chu trình bất diệt cùng vầng thái dương.
Phần trung tâm của các kim tự tháp thường được xây dựng từ đá vôi có chất lượng tốt, những lớp đá vôi này được dùng để xây lớp ngoài của kim tự tháp giúp chúng có một màu trắng lấp lánh có thể nhìn được từ cách xa hàng dặm. Đá đặt trên đỉnh thường là đá granit, bazan hoặc bất kì loại đá cứng nào khác có thể mạ được vàng, bạc hoặc electrum – hợp kim vàng và bạc. Đặc biệt những viên đá đó phải phản chiếu tốt với ánh sáng Mặt Trời.
Phương pháp cắt và vận chuyển đá của người Ai Cập cổ đại hiện vẫn đang được nghiên cứu. Các nhà khoa học đã tìm được bằng chứng người Ai Cập cổ sử dụng những cái đục bằng đồng đỏ để khai thác sa thạch và đá vôi. Đối với những loại đá cứng hơn như granit hay diorit đòi hỏi phải có những dụng cụ mạnh hơn. Dolerit – một loại đá lửa màu đen rất cứng được người Aswa sử dụng để lấy đá granit.
Để vận chuyển đá đến công trường, một nhóm người đàn ông hoặc đàn bò sẽ kéo những tảng đá trên một con đường được bôi trơn bằng dầu trước đó. Kế tiếp, người ta sẽ dùng những con dốc nhỏ được làm từ gạch bùn rồi phủ vữa lên trên để làm cứng bề mặt và vận chuyển những tảng đá lên trên kim tự tháp.
4. Các loại bẫy bên trong kim tự tháp
Có rất nhiều loại bẫy khác nhau được đặt trong các lăng mộ cổ nhằm mục đích bảo vệ các vua chúa khỏi sự quấy nhiễu, làm phiền của những người không mong muốn. Bẫy dây làm từ những sợi thép vô cùng mỏng, sắc được treo ngang tầm cổ. Bẫy rắn cũng thường xuất hiện trong nhiều lăng mộ cổ Ai Cập, chúng thường là những con rắn hổ mang cực độc, được huấn luyện để coi giữ lăng mộ. Loại bẫy không thể thiếu là bẫy chất độc, người ta sẽ rải rất nhiều bột hematite - loại bụi kim loại sắc nhọn, nếu vô tình hít phải bột hematite thì cơ thể sẽ bị bào mòn dần và chết từ từ trong đau đớn.
Bảo Tuấn
Vùng đất kỳ lạ khiến cây trồng cao lớn khổng lồ như trong thế giới cổ tích.
Vùng đất này có những loại cây như kiều mạch, ngưu bàng, cây bìm bịp cao tới 5m, gấp nhiều lần so với cây bình thường.
Theo một báo cáo trên tờ Izvestia của Nga vào năm 2009, các nhà khoa học của Nga từ lâu đã nghiên cứu những loài thực vật khổng lồ, mọc ở một số vùng nhất định trên đảo Sakhalin.
Báo cáo cho thấy, có những cây kiều mạch cao 3m, cây ngưu bàng cao 5m, những bức ảnh về những loại cây khổng lồ này được lan truyền trên mạng xã hội, cho thấy chúng hoàn toàn có thật.
Các nhà nghiên cứu từ Viện Địa chất và Viện Hàn lâm Khoa học Nga cho biết, họ đã thực hiện các nghiên cứu về các loài thực vật thân thảo lớn bất thường ở 12 khu vực khác nhau ở phía nam các đảo Sakhalin và Kunashir, phát hiện ra những loài thực vật khổng lồ chỉ mọc ở một số khu vực nhất định các hòn đảo.
Chúng dường như bị ảnh hưởng bởi hoạt động kiến tạo thường xuyên trên đảo, tạo ra nhiệt lượng đáng kể.
Rõ ràng kích thước ấn tượng của những loài cây này không liên quan tới bản thân chúng thuộc loại thực vật nào. Bởi khi đưa đi trồng ở nơi khác, chúng sẽ phát triển với kích thước bình thường vốn có.
Các loài thực vật khổng lồ phát triển trên đất liền, vùng ngập úng nước nằm trên các đứt gãy của vỏ Trái đất, qua đó một lượng lớn nhiệt và hydrocacbon dầu mỏ được cung cấp cho rễ cây.
Nồng độ cao hơn của các hợp chất đồng và crom cũng được xác định là một yếu tố khiến cây cối tăng trưởng phi thường.
Cư dân mạng có những phản ứng trái chiều nhau, có người tin và không tin.
Theo Phan Hằng/Báo Giao thông