a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Ba, 17 tháng 5, 2022

Những tảng đá “sống” có thể lớn lên, sinh sôi và di chuyển.....

 Bạn có thể sẽ thắc mắc khi đọc tiêu đề này, nhưng quả thực thiên nhiên có tồn tại sự việc như vậy. Trovant ở Romania là những tảng đá lạ thường bởi chúng có thể lớn lên, sinh sôi, thậm chí di chuyển được. Đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa thể đưa ra lời giải thích về hiện tượng bí ẩn này. 

(Ảnh: cge2010/Shutterstock)

Vào mùa khô, Trovant hoàn toàn bất động và giữ nguyên vị trí mà không thay đổi kích thước. Nhưng khi mùa mưa đến, những tảng đá dường như trở nên sống động, bắt đầu tăng kích thước và thậm chí di chuyển.

Loại đá “sống” có tên Trovant này, được xem là một hiện tượng địa chất kỳ thú, được phát hiện trong khu vực ngôi làng nhỏ Costesti của Romania. 

Tên gọi Trovant đồng nghĩa với thuật ngữ tiếng Đức “Sandsteinkonkretionen”, có nghĩa là Cát kết dính. Những trận động đất được cho là nguyên nhân tạo ra loại đá kỳ lạ này, chúng xuất hiện cách đây khoảng 6 triệu năm trước. 
Các hồ chứa cát được tạo ra sau quá trình bồi lắng liên tiếp của các vật chất mà những con sông đưa đến. 

Đá Trovant phát triển khi đá và cát hòa lẫn với nước, từ những viên đá nhỏ khoảng 6 – 8 cm chúng phát triển thành những tảng đá lớn có kích thước từ 6 – 10 m.


Một tảng Trovant trồi ra như nấm. Ảnh: Whenonearth

Khi cắt ngang một hòn đá Trovant, mặt cắt của chúng có hình cầu hoặc hình trái xoan và có nhiều vân đá giống như mặt cắt của cây. Một giả thuyết được đưa ra để lý giải hiện tượng này là đá Trovant có một lõi chính, sau đó các hạt cát bám vào xung quanh lõi đá lâu năm tạo nên các lớp vỏ giống như vân cây.

(Ảnh: Michal Zduniak/Shutterstock)

Trovant có thể được tạo ra bởi sự tích tụ cát có độ xốp cao và trầm tích sa thạch được kết dính bởi nước giàu canxi các-bo-nát. Cái tên “Trovant” (trovanti) được đặt bởi nhà tự nhiên học Gh. M. Murgoci trong tác phẩm “The Tertiary in Oltenia”.

Nhưng điều gì khiến những tảng đá này sinh sôi nảy nở? Bất kỳ dạng nước nào giàu canxi các-bo-nát đều cần thiết để hình thành Trovant, và đó có thể là nguyên nhân khiến những tảng đá này phát triển khi có nước mưa.


Sau mỗi trận mưa lớn, Trovant sẽ hấp thụ các khoáng chất trong nước mưa. Các khoáng chất được kết hợp với thành phần hóa chất đã có trong đá sau đó tạo ra phản ứng và áp suất bên trong. Áp lực tự phát khiến cho đá phát triển từ tâm ra bề mặt và sinh sôi, với tỷ lệ lắng đọng lõi rơi khoảng 4 – 5 cm trong 1000 năm.

Đá Trovant xuất hiện với hình dạng nhẵn và không có góc cạnh, thường là có hình trụ, nốt sần hoặc hình cầu. Trovant phát triển những hình dạng không nhất quán này khi chúng “lớn lên” và “sinh sôi” do quá trình tiết ra “xi măng” không đều.

(Ảnh: Ciocan Cosmina Carmen/Shutterstock)

Trên thực tế, có nhiều thuyết giải thích về nguồn gốc và hoạt động kỳ lạ của đá Trovant. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một tài liệu nghiên cứu nào hoặc các cuộc thí nghiệm đáng tin cậy liên quan đến loại đá này. 

Theo Đại hội Địa chất Quốc tế tại Oslo 2008, “Trovant” được coi là một loại “bê tông sa thạch”. Theo giả thuyết đưa ra tại đại hội, Trovant của Romania có kết cấu từ tính phản ánh các điều kiện cổ động lực học (địa chấn cổ) và tương ứng với các thành phần cụ thể của trầm tích cát (đặc biệt là các-bo-nát) tích tụ trong cát, xuất hiện trong những chấn động địa chấn quan trọng.


Trovant trở thành điều kỳ thú thu hút khách du lịch . Ảnh: Whenonearth


Trovant không chỉ kỳ lạ do cấu trúc và khả năng phát triển, sinh sôi của chúng. Loại “đá sống” này còn có thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Với các đặc điểm kết hợp của một loại thực vật và một tảng đá, thật khó nói những Trovant này nên được phân loại là sinh vật sống hay sinh vật không sống. 

Hiện Trovant là một trong những điểm đáng chú ý thu hút du khách gần xa đến với Romania. Những hòn đá này hiện đang được UNESCO bảo quản như một di sản.


Phan Anh (Whenonearth, Sciencealert)

Loài cá cầu vồng tuyệt đẹp,có thể phát sáng trong bóng tối

Một loài cá với màu sắc đẹp mắt như cầu vồng đã được phát hiện tại một vùng biển ngoài khơi Maldives, ở độ sâu từ 40 đến 70 m. Loài động vật này gây ấn tượng với phần đầu hồng sặc sỡ và khả năng tự phát sáng trong bóng tối.


(Ảnh: chonlasub woravichan/Shutterstock)

Tên khoa học của cá cầu vồng này là Cirrhilabrus finifenmaa. 
Từ “finifenmaa” có nghĩa là “hoa hồng” trong tiếng địa
 phương. Trong điều kiện gần như không có ánh sáng, Cirrhilabrus finifenmaa nằm trong số nhiều loài cá có thể phát sáng để thuận tiện khi di chuyển dưới đại dương.

(DailyMail)

Philo Farnsworth, nhà phát minh ra chiếc tivi đầu tiên

Farnsworth tại phòng thí nghiệm điện tử ở San Francisco.
Người phát minh ra chiếc tivi đầu tiên, từ đó mở ra ngành công nghiệp truyền hình, khiến cả thế giới thay đổi, nhưng lại hầu như không ai biết đến, nhắc đến. Một thiên tài có số phận long đong lận đận, cuối đời nghèo túng.
Vào một buổi chiều mùa hè năm 1920, cậu thiếu niên Philo Taylor Farnsworth mới 14 tuổi, đang cày ruộng khoai tây trong trang trại Idaho của gia đình mình, cùng con ngựa đang kéo bừa, cậu chỉ đi theo phía sau.

Farnsworth, con ngựa và cái bừa cày hết một hàng rồi quay lại cày hàng khác, cứ như thế cho đến khi hoàn thành công việc.

Chính lúc này, cậu thiếu niên yêu thích khoa học đã nảy ra một ý tưởng. Nếu mình có thể làm cho các hạt electron chuyển động với cùng một phương pháp, chuyển động theo vòng tuần hoàn như thế thì mình có thể truyền tải một loạt hình ảnh qua không khí.

Thế là nguồn cảm hứng của một chiếc tivi bắt nguồn từ một con ngựa.

Bước tiếp theo
Mùa thu năm sau, Farnsworth bắt đầu học trung học. Vào cuối năm học, ông đã đưa ra ý tưởng của mình cho một giáo viên khoa học là thầy Justin Tolman, và viết lên bảng về cách thức truyền tải hình ảnh sẽ hoạt động như thế nào.

Thầy Tolman đã gặp khó khăn khi nghe những gì mà một học sinh năm đầu tiên cấp 3 đang nói. Vào cuối cuộc trò chuyện, Farnsworth đã vẽ vào sổ tay của mình một bản phác thảo về hoạt động bên trong của một chiếc máy quay truyền hình, sau đó xé trang giấy này đưa cho thầy Tolman. 30 năm sau, sơ đồ thô sơ này được sử dụng là một bằng chứng quan trọng trong một vụ kiện.

Sau đó Farnsworth đã nghỉ học để phụ giúp gia đình, và sau khi bố ông qua đời, ông đã không quay trở lại trường. Năm 19 tuổi, Farnsworth kết hôn với một cô gái hàng xóm là Elma Gardner, biệt danh của cô là Pem. Ông đã tìm được hai nhà đầu tư giúp mình thực hiện ước mơ này là ông Les Gorrell và ông George Everson, họ đã thành lập một phòng thí nghiệm ở California với số vốn đầu tư là 6.000 USD. Farnsworth biết rằng mình sẽ dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu, vì vậy đã đề nghị Pem cùng làm việc với mình và bà đã đồng ý.

Theo thông tin được ghi lại trong sổ tay hàng ngày của Farnsworth, lần đầu tiên trình diễn truyền tải hình ảnh thành công diễn ra vào ngày 7/9/1927. Everson đã gửi một bức điện cho Gorrell với một câu duy nhất "cái thứ chết tiệt này hoạt động!"
Bản vẽ sổ tay của Farnsworth tạo ra, cho thấy Farnsworth có ý tưởng về truyền tải hình ảnh. 

Sự cạnh tranh
Hầu hết sự nổi tiếng đều thu hút cạnh tranh. Trong trường hợp của Farnsworth, đó là Công ty Phát thanh Hoa Kỳ, do David Sarnoff điều hành vào thời điểm đó. RCA là một công ty điện tử của Mỹ, được thành lập vào năm 1919, về cơ bản là một công ty độc quyền trong ngành công nghiệp điện tử thời đó. Không thể sản xuất hoặc bán thiết bị vô tuyến mà không trả tiền bản quyền cho RCA.

Vào tháng 4/1930, một trong những cộng sự của Farnsworth đã sắp xếp một chuyến thăm đến phòng thí nghiệm của ông ở San Francisco cho một người bạn đồng hành trong lĩnh vực điện tử. Farnsworth cũng biết Tiến sĩ Vladimir Zworykin là người có kiến thức sâu rộng về chủ đề này. Zworykin cho biết ông đã làm việc tại Westinghouse (công ty đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng điện ở Hoa Kỳ) và ông cũng có các câu hỏi về các thí nghiệm của Farnsworth.

Farnsworth đã rất tin tưởng ông nên đã cho thấy hết những gì mà ông và nhân viên của mình đã phát minh ra và cách nó hoạt động. Ông Zworykin đã ở lại ba ngày, và Pem thậm chí còn làm bữa tối cho ông ta.

Zworykin không làm việc cho Westinghouse vào thời điểm đó (mặc dù ông ấy đã có làm một thời gian ngắn trước đó). Ông ta ở đó với tư cách là gián điệp cho Sarnoff và RCA. Ông đã viết một bức điện tín dài 700 từ cho đối tác phạm tội của mình tại RCA, giải thích chính xác cách thức hoạt động của một chiếc tivi. Zworykin và Sarnoff đã đánh cắp tất cả và sản xuất phiên bản của riêng họ.

Chiến tranh thế giới thứ hai đã cản trở sự phát triển hơn nữa của vô tuyến truyền hình, và khi kết thúc chiến tranh thì các bằng sáng chế của Farnsworth đã hết hạn, khiến chúng chỉ nằm yên trong một trang web được công khai.

Farnsworth đã kiện RCA, nhưng họ lập luận rằng một người còn quá trẻ không thể phát minh được như vậy. Nhưng khi thầy Tolman được mời ra làm chứng với trang giấy trong sổ tay của học trò mình để chứng thực về nó, thì văn phòng cấp Bằng sáng chế Hoa Kỳ đã phán quyết rằng Farnsworth là người phát minh ra tivi đầu tiên. Mặc dù vậy, RCA đã kiếm được rất nhiều tiền từ việc sản xuất ra tivi thời điểm đó.

Đổ bộ lên mặt trăng
Đến những năm 1960, Farnsworth rất ghét “đứa con tinh thần” đầu tiên này. Tầm nhìn của ông về tivi là “The Great Unifier” (sự đoàn kết), mục đích là cho mọi người thấy tất cả chúng ta đều giống nhau và từ đó nên chấm dứt chiến tranh. Nhưng lúc này tivi được gọi là "một vùng đất hoang rộng lớn và trí tuệ" và là "cái hộp ngốc nghếch", vì vậy Farnsworth không muốn tiếp tục làm gì hơn với nó nữa, ông cấm bốn người con trai của mình xem nó.

Khi NASA đã sẵn sàng bắt tay vào cuộc để đổ bộ lên mặt trăng, họ biết rằng họ cần phải truyền hình ảnh chân thực của sự kiện hoành tráng này từ không gian khác về trái đất. Máy ảnh cần phải hoạt động tốt. Trong tất cả các thiết kế máy ảnh mà NASA đã xem xét, thì thiết kế của Farnsworth là đáng tin cậy nhất.

Vào ngày 20/7/1969, Philo và Pem đã bật tivi lần đầu tiên sau nhiều năm. Khi họ xem khoa học viễn tưởng trở thành hiện thực và có thể làm được như vậy nhờ phát minh của ông, lúc này Philo quay sang Pem và nói, “điều này đã làm cho tất cả trở nên đáng giá."

Bà Pem nói trong một cuộc phỏng vấn ngay trước khi qua đời vào năm 2006, ở tuổi 98 rằng: “Trước đó, ông ấy không chắc chắn lắm”.

Trong một đêm, ước mơ của ông ấy đã thành hiện thực, và thế giới đã thống nhất sử dụng phát minh của ông.

Không có gì là bí mật. Có rất nhiều quyển sách kể về câu chuyện của Farnsworth và phát minh tivi của ông. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó, Philo Taylor Farnsworth lại không được công chúng trên toàn thế giới biết đến trong khi mọi người sử dụng phát minh của ông hàng ngày. Ông không được nhắc đến trong các lớp học lịch sử ở các trường phổ thông, và ngoài những người tìm kiếm câu chuyện của ông thì không ai biết Philo Farnsworth là ai.

Ông Paul Schatzkin là tác giả của cuốn sách “cậu bé phát minh ra truyền hình”, lý thuyết gồm ba phần cho biết lý do tại sao lại như vậy. Ông cho biết thêm trong một cuộc phỏng vấn khi đề cập đến Sarnoff và Zworykin rằng: “yếu tố đầu tiên là Farnsworth không bảo vệ thành tựu của chính mình. Yếu tố thứ hai là có rất nhiều “vua trộm cắp”. Nhưng lý do chính khiến chúng tôi không biết cái tên Philo Farnsworth, là vì ông ấy đã không tồn tại được nhờ công ty của chính mình lập ra. Nhìn chung, những nhà phát minh mà chúng ta biết đến đã sống sót nhờ các công ty mà họ tự thành lập."

Một ống thu hình ảnh. Farnsworth có ý tưởng truyền hình ảnh qua tivi, nhưng sẽ không kiếm được tiền từ phát minh này trong suốt cuộc đời của ông.

Ý tưởng sét đánh lần thứ hai
Tivi không phải là phát minh duy nhất của Farnsworth. Vào năm 1953, ông như bị luồn sét cảm hứng đánh trúng. Ông nảy ra ý tưởng cung cấp cho mọi người về những thiết bị trong nhà và ô tô bằng năng lượng hạt nhân, rất hiệu quả và không giới hạn. Ông đã hình dung ra một thiết bị mà ông gọi là "Fusor" (thiết bị phản ứng tổng hợp hạt nhân nhỏ).

Mục đích là thiết kế ra một loại fusor có thể tiêu hao nhiều năng lượng hơn mức tiêu thụ và vẫn đủ ổn định để không hư hại vật đang chứa nó. Điều này sẽ được thực hiện bằng cách giải phóng sức mạnh của nguyên tử và sử dụng nước làm nguồn nhiên liệu. Đến năm 1966, Farnsworth đã có một chiếc Fusor hoạt động, nó đủ nhỏ để cầm trong tay. Về lý thuyết, công nghệ này sẽ thay thế nhiên liệu hóa thạch mãi mãi.

Chiếc Fusor được phát triển trong phòng thí nghiệm của Farnsworth tại International Telephone and Telegraph. Thật không may, ITT cũng không đáng tin cậy như RCA. Vì Farnsworth đã mất tivi, lần này thì ông không muốn mất Fusor, mà ông đã tháo dỡ phòng thí nghiệm và bỏ đi, hy vọng sẽ tự huy động được tài chính. Nhưng ông đã không làm được.

Farnsworth cho biết những phát minh của mình không thực sự do chính mình làm ra, và cho rằng bản thân mình giống như một ống dẫn thông tin. Trong cuốn sách của mình, Schatzkin đã trích dẫn lời của Farnsworth rằng: “Tôi biết Chúa đang tồn tại. Tôi biết rằng tôi chưa bao giờ phát minh ra bất cứ thứ gì. Tôi chỉ là người trung gian để những phát minh này được tạo ra và phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của văn minh nhân loại. Tôi dành tất cả công lao này cho Chúa ”.

Lưu lại các tạo tác
Ông Phil Savenick đã có 40 năm sự nghiệp trong lĩnh vực truyền hình với tư cách là nhà văn, đạo diễn và là nhà sản xuất, ông biết mình phải cảm ơn Farnsworth vì điều đó. Năm 2004, ông nhìn thấy một cái ống máy ảnh cũ từng thuộc về Farnsworth được đăng trên trang eBay. Savenick nói thêm: “Tôi đã viết thư cho anh chàng này và nói: để có những cái này để bán, thì anh phải là con trai của Farnsworth”.

Quả thực là anh ấy. Người bán là Kent Farnsworth, và anh có rất nhiều ống. Có vẻ như Philo và Pem không bao giờ ném bất cứ thứ gì ra ngoài. Kent thực sự có 500.000 đồ tạo tác từ cha mẹ mình. Kent và vợ anh, Linda, họ đang túng thiếu và căn nhà của họ đang bị tịch thu nên họ cần tiền mặt ngay lập tức.

Savenick nói: “Vì vậy, tôi bắt đầu thu xếp để mua những di vật linh thiêng nhất về tivi từ con trai của nhà phát minh này”.

Những di vật lịch sử này bao gồm chiếc máy ảnh đầu tiên từng chụp ảnh một người (người đó là Pem), ống chân không, một cái đĩa từ, và hai Fusor. Ngoài ra còn có các cuốn sổ tay mà Farnsworths đã ghi lại quá trình phát triển từng ngày của tivi, cũng như một cuốn dành riêng cho Fusor.

Mặc dù các kế hoạch cho fusor đã được cấp bằng sáng chế, nhưng không có đủ thông tin chi tiết người khác có thể tạo lại một cái khác cho đến nay. Schatzkin nói: “Không ai từng có kiến thức đó ngoại trừ Farnsworth”.

Trong số những vật mà Savenick sở hữu có một cuốn sổ có thể từng chứa bí mật. Cái nhãn trên trang bìa có nội dung “ghi chú, cực kỳ bí mật, Philo T. Farnsworth.” Có một số ít được viết bởi Pem ở trang 7 và đề ngày 1970, có nội dung: “những ý tưởng cuối cùng được ông xem là tuyệt mật nên không thể lưu lại chúng. Ông cảm thấy nhân loại trên thế giới chưa sẵn sàng cho món quà cuối cùng của mình và có thể không xứng đáng với nó.” Sáu trang đầu tiên của cuốn sổ đã bị xé toạc và có lẽ đã bị phá hủy. Farnsworth đã mang công thức xuống mộ của mình.

Những người đam mê truyền hình
Schatzkin đề cập đến Farnsworth là “nỗi ám ảnh liên tục” của mình, còn Savenick nói đến ông như “mối bận tâm chính trong cuộc sống của tôi”, có những hậu duệ của Farnsworth vẫn làm sống lại những ký ức của ông.

Ông Russel “Skee” Farnsworth là người con duy nhất còn sống của Philo. Ông ấy đã 86 tuổi và sống ở New York. Philo Krishna Farnsworth, cháu trai và Jessica Moulton, cháu gái của ông kể lại trong một video dài 10 phút trên YouTube có tên “Philo Farnsworth, người đàn ông nổi tiếng nhất mà bạn chưa bao giờ nghe thấy”, do Savenick viết và sản xuất. Anh trai của Jessica là Jonathan Moulton đang quản lý tài sản của ông bà cố của mình.

Ông Schatzkin và đối tác kinh doanh của mình, cả hai đều làm việc trong ngành công nghiệp truyền hình ở Los Angeles, đã cố gắng làm một bộ phim truyền hình hoặc một buổi chiếu ở rạp về cuộc đời của Farnsworth bắt đầu từ năm 1975, nhưng đều không thành công.

Schatzkin nói: “Tôi đã nhận được rất nhiều thư từ chối. Tôi đã nhận được một lá thư từ chối từ Jeffrey Katzenberg, ông ấy đang làm việc tại Disney vào thời điểm đó.” (Katzenberg và Schatzkin là bạn chung của nhau tại trại hè năm 1962.) “Câu chuyện đã đến tai của Ron Howard nhưng ông ấy cũng cho qua”.

Savenick và đạo diễn Kevin Lee Miller, hiện đang cố gắng tìm người hợp tác với hãng phim để bảo vệ quyền lợi của họ trong một số hình ảnh giới hạn về Farnsworth. Lễ kỷ niệm 100 năm phát minh ra tivi sẽ rơi vào năm 2027, vì vậy ông hy vọng nó sẽ sẵn sàng cho buổi phát trực tuyến khi lễ kỷ niệm đến.

Trong khi đó, những đồ vật tạo tác mà Savenick lưu lại đang được trưng bày (cùng với những đồ vật khác trong lịch sử về tivi) ở tầng trệt nhà ông ở phía Tây Los Angeles. Một số đã được bán cho Bảo tàng Truyền hình MZTV ở Toronto, Canada.
Vợ của Farnsworth, bà Pern đã ở bên cạnh ông trong phòng thí nghiệm và giữa những trận chiến pháp lý

Di sản của Philo T. Farnsworth
Ông Savenick cho biết: “năm 1971, Farnsworth qua đời ở tuổi 64 vì nghiện rượu, không một xu dính túi và rất đau lòng”.

Vào năm 2013, Viện Hàn lâm Khoa học & Nghệ thuật Truyền hình đã ghi nhận Farnsworth vào Đại sảnh Danh vọng truyền hình ở Mỹ. Tại một bữa tiệc tối, Savenick đã trình chiếu một video về tiểu sử của Farmsworth để giới thiệu với những người tham dự. Từ năm 2003, Viện Hàn lâm đã trao Giải thưởng Thành tựu Doanh nghiệp Philo T. Farnsworth cho các công ty đã có ảnh hưởng đáng kể đến kỹ thuật truyền hình và phát sóng.

Schatzkin cho biết trong một cuộc phỏng vấn: “Sự ra đời của tivi không phải là tiền đề trong quá trình phát triển mà đó là một bước ngoặt trong lịch sử nhân loại. Farnsworth thì ở điểm giữa từ thời đại cơ học đến thời đại điện tử. Ông đã đưa khoa học về thuyết tương đối vào một thiết bị mà từ đó mọi hình ảnh chúng ta đang xem đều tìm thấy nguồn gốc của nó. "

Vậy đám mây đen nào đã bao trùm Farnsworth trong suốt cuộc đời ông? Schatzkin đã có một câu trả lời rất triết lý cho câu hỏi đó là: “Tôi muốn nói rằng ông ấy đại diện cho khả năng tiếp cận đến cảnh giới tri thức mà con người vẫn chưa sẵn sàng.”

Hãy yên nghỉ, Philo Taylor Farnsworth.

Thiên Hòa