a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Hai, 5 tháng 12, 2022

Đôi guốc Sài Gòn.

 Cho đến năm 1912, hơn trăm năm trước, đôi guốc đóng theo kiểu Sài Gòn đã có tiếng tăm lan ra tới tận Hà Nội.

Theo ông Hoàng Đạo Thúy trong cuốn “Hà Nội thanh lịch”, lúc đó kiểu guốc Sài Gòn được ưa chuộng cùng với áo cánh cổ thìa. Đôi guốc Sài Gòn “thấp gọn và xinh” khiến các cô Hà Nội rất thích: “Các cô khua rất to. Buổi tối mà nghe ngoài hè “lóc cóc, rào rào”, đích thị là rạp hát Thông Sáng tan rồi”. Phố Hàng Dép, đầu Hàng Bồ là hàng bày nhiều guốc nhất: “chiến thắng trên phản bày hàng là ‘guốc Sài Gòn”. Nhẹ, gọn, xinh xắn, rẻ tiền, gót sen đi lách cách“không guốc nào sánh kịp”. Ở Hà Nội cùng lúc có hiệu Phúc Mỹ ở Quán Thánh ném ra loại guốc Phi Mã gót cao lênh khênh đẽo bằng máy, được giới thiệu:“đi Phi Mã, thì chân dài hơn, phía sau bụng tôn lên, lịch sự lắm” nhưng loại này “không mở rộng được mấy” “có lẽ vì mấy cô bị trẹo xương chân”.


Các loại guốc của phụ nữ Gia Định thập niên 1930. Tranh vẽ trong cuốn sách tranh Chuyên khảo về Đông Dương do trường Mỹ nghệ Gia Định thực hiện 1935.

Tuy có loại guốc được ưa chuộng ở đô thị thanh lịch xứ Bắc, không phải hầu hết dân chúng miền Nam lúc đó đều có đôi guốc dưới chân. Đa số ở nông thôn họ đi chân không, trừ lúc đi tắm buổi chiều tối mang guốc cho sạch chân,  chuẩn bị lên giường đi ngủ, hoặc có một đôi “làm vía” để dành đi xa hoặc dự tiệc tùng.

Tuy vậy đối với dân Sài Gòn – Gia Định, guốc đã phổ biến, được dùng cả ngày. Theo tác giả Vương Đằng, trước khi có kiểu guốc tân thời được ưa chuộng, trước năm 1910, ở miền Nam đã có guốc vông, làm bằng thân cây vông, đa số tự chế để dùng. Nhưng hồi xưa, ai làm nấy xài, vừa dầy vừa thô, mỗi bên hông có khoét lỗ hình chữ nhựt. Muốn gắn quai, người ta chêm mỗi bên một miếng nêm bằng cây, đi lâu hoặc bị vấp, miếng nêm lỏng hay văng ra thì người ta dừng lại và ngồi xuống gõ, vỗ, chêm lại cho cứng.


Các loại guốc của phụ nữ Gia Định thập niên 1930. Tranh vẽ trong cuốn sách tranh Chuyên khảo về Đông Dương do trường Mỹ nghệ Gia Định thực hiện 1935.

Quai guốc thời ấy đơn giản, cái gì cũng có thể dùng làm quai nếu chắc chắc và dẻo, trong đó có vỏ dừa khô, thường được dùng làm quai khi chưa có kiểu da cao su, da quai nhung đóng vắt ngang như kiểu guốc tân thời. Vương Đằng xác định từ năm 1910, loại guốc một quai, đóng đinh hai đầu quai, vắt ngang năm đầu ngón chân được truyền bá bắt đầu từ Sài Gòn (nên gọi là “guốc Saigon”) lan khắp miền Nam và khắp nước Việt Nam. Ông cho biết lúc đầu, guốc nầy không sơn; rồi sơn màu đen hoặc nâu đen, (có lẽ là dùng sơn ta) nên được gọi là “guốc sơn” để phân biệt với “guốc vông” không sơn.

Thời đó ở Sài Gòn xuất hiện loại guốc ngù, xuất xứ từ loại guốc Ấn Độ có tên là Padukas. Nó có phần gỗ lót dưới bàn chân chạm trổ hoa lá rất đẹp. Người Ấn không chỉ dùng ngù bằng ngà, mà còn bằng sắt, bạc, gỗ. Từ Ấn Độ, guốc ngù theo tàu biển đi từ Ấn Độ dương, qua eo biển Malacca đến Mã Lai, Nam Dương vốn đông người Hoa. Từ đó, người Hoa đưa về Sài Gòn, có thể từ những người Bà Ba (người Mã Lai gốc Hoa) nhập về cho vợ con mang, dần lan ra giới phụ nữ Việt có tiền, nghệ sĩ cải lương…

Loại guốc ngù này không có quai, chỉ có một miếng ngà hay xương hoặc gỗ (gọi là ngù) chêm đứng trên mặt guốc phía trước để kẹp ngón chân cái và ngón chân trỏ khi muốn đi. Guốc này có giá trị nhờ cái ngù, nhưng sau vì cái ngù ngà mà loại guốc này mau chóng tàn lụi. Chuyện kể lại là khi giá nó lên quá cao, tột bực là 20 đồng, các ông chồng cảm thấy khổ sở vì vợ đòi mua không chỉ một đôi mà vài đôi để tùy việc mà đi, bèn âm mưu nhờ một người làm báo, viết chuyện để hù dọa phụ nữ. Tờ báo tung ra chuyện đó là tờ Lục Tỉnh Tân Văn, người viết là ông Trần Văn Chim, người lập mưu là ông Trần Triều Vinh, làm việc ở bót Giếng Nước. Bài báo khẳng định nếu phụ nữ mang guốc ngù ngà sẽ bị đau tử cung, vì ngà có chất độc, hằng ngày da thịt cọ vào chất độc sẽ thấm vào người sinh bệnh.


Phụ nữ Sài gòn thập niên 1930 với đôi guốc ngù dưới chân.

Tin lan truyền nhanh, qua miệng phụ nữ với nhau càng nhanh, các bà sợ nên tránh xa guốc ngù ngà. Người Hoa mất mối lợi to, riêng các ông là mừng húm. Tuy nhiên, các bà được giải thoát đôi guốc mắc tiền nhưng bất tiện vì đi không nhanh, không vững, đi mau mỏi đầu ngón chân vì phải ráng sức kẹp mới không bị tuột. Đôi guốc này chỉ phổ biến tới miền Nam, thịnh hành một thời gian cho đến đầu thập niên 1920 rồi tàn lụi, không thấy ra được tới miền Bắc.

Cho đến thập niên 1930, mặt hàng guốc đã thịnh hành lắm rồi và có nhiều thương hiệu cạnh tranh với nhau. Giới chủ làm guốc đầu tư máy móc, thu mua nguyên liệu để sản xuất guốc. Đến năm 1933, chưa thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế nhưng đọc trên Nhật báo Sài Gòn (số 177, 5 Tháng Mười Hai) thấy tiệm Guốc Cầu Kiệu ở số 478 Paul Blanchy (Hai Bà Trưng) là tiệm lâu năm, quảng cáo làm guốc bằng máy móc tinh xảo, được sơn loại tốt nhất và đang cần mua nhiều loại gỗ tốt để làm guốc. Tiệm có thợ người Nam, sơn mài theo lối Bắc, rất kỹ lưỡng, kiểu dáng nhã nhặn, lại rẻ tiền, nhiều màu sơn đẹp, bền chắc. Nếu cần có xe hơi giao hàng đi lục tỉnh, có địa chỉ bán ở Cần Thơ và Phnom Penh và có kho trữ hàng ở chợ Sài Gòn  (Bến Thành).

Tuy guốc Sài Gòn có lúc vang danh ở xứ Bắc, nhiều thợ thủ công xứ Bắc, vốn giỏi nghề thủ công từ ngàn xưa đã Nam tiến vào Sài Gòn làm guốc cho tiệm guốc Phù Lưu của ông Phạm Văn Viên, ở số 111 đường Lagrandière (Lý Tự Trọng). Tiệm này tự hào quảng cáo trên báo Tân Văn (số 26 ngày 19 Tháng Giêng năm 1935): “Rất đẹp mà nhã, là guốc Phù Lưu”. Tiệm có trên 30 người thợ Bắc thiện nghệ chuyên pha màu sơn và chế kiểu guốc, vừa khéo vừa nhã. Lời giới thiệu của tiệm chú trọng sự thoải mái của người mang: “Guốc mang vừa lịch sự, tính theo khoa học không hại vệ sinh. Chơn đi được tự nhiên không phải chúi vào, xiêu lệch, được nở nang theo sức khỏe”. Như các tiệm guốc thời đó, tiệm này có gian hàng tại chợ Bến Thành (Sài Gòn).


Tiệm bán giày guốc dép ở chợ Tân Định thập niên 1960. (ảnh: báo Thế Giới Tự Do tập XIII số 10)

Về nghề làm guốc, báo Khoa Học, (số 40, 15 Tháng Hai 1933) có bài của Thiện Dư Hoàng Mạnh Khánh khá chi tiết, cho rằng nghề này có lợi to, nhiều người làm. Người ngoài Bắc đem cả thợ vào Nam kỳ mở hiệu guốc. Nghề làm guốc ngày một phát đạt vì guốc tiện dụng cho cả mọi người, từ sang đến hèn dùng được, mùa mưa mùa nắng dùng được cả. Ở xứ Bắc, Tết về vừa mưa vừa rét, các hàng bán guốc đắt hàng. Gỗ để đẽo guốc thường dùng những thứ xấu như: Gỗ vành bè, gỗ trám chẩu, gỗ xoan, gỗ vạng.v.v… gỗ phải thẳng thớ mới làm được guốc. Guốc đẽo và bào xong phải để cho khô mới đem sơn.

Trước 1945, guốc dành cho phái nữ trở nên nhu cầu thiết yếu. Ông Nguyễn Cương Phú tại Úc, cư dân Sài Gòn sinh thập niên 1930 kể mẹ ông nhờ có cửa hàng guốc dép ở chợ Bến Thành mà gia đình sống sung túc, nuôi tới tám người giúp việc. Lúc đó, guốc dành cho phụ nữ đã có nhiều kiểu dáng đa dạng, nhiều màu sơn, đủ loại quai, có khi là hai quai, cao thấp đủ cả.

Guốc cao gót bằng gỗ, khoảng thập niên 1940.

Thập niên 1960, ở Sài Gòn vẫn thấy các cô các bà đi guốc, nhiều đôi vẽ hoa trong lòng guốc, quai bằng nhựa trắng trong hơi ngả vàng. Lúc đó không còn nghe tiếng khua guốc kêu lóc cóc nữa vì guốc đã được lót đế bằng cao su cho êm và lâu mòn. Giữa thập niên 1960, phụ nữ có nhiều chọn lựa cho đôi chân của mình. Họ thích đi lại đôi hài cườm diện với áo dài, sau đó là trào lưu guốc cao gót mũi nhọn, một biến thể của đôi guốc Việt nhưng xuất xứ từ phương Tây.

Cho đến sau 1975, vẫn thấy có người mang đôi guốc gỗ quai nhựa trong, sơn trắng và quang dầu bóng. Người phụ nữ này khoảng gần tứ tuần, đã có ba người con, làm dâu một gia đình giàu có là chủ đất khu chợ Ga Phú Nhuận. Vóc dáng bà còn cân đối, da trắng. Bà thường bận áo tay ngắn, quần lãnh Mỹ A đen. Dưới chân bà là đôi guốc trắng đó ôm sát đôi chân trắng thon nhỏ có cái gót hồng, nổi bật dưới màu đen bóng của lai quần. Đó là hình ảnh rất đẹp về đôi guốc dưới chân người phụ nữ Việt, khiến lúc đó, tôi đã tự hỏi đôi guốc đẹp vậy, mà sao ngày càng ít người mang?

SƯU TẦM

Những phong tục lạ ở mạn Thượng Du Bắc Việt


1. Tục “coong trình” của người Dao Đỏ ở Sa Pa

 

Ở Sa Pa, người Dao Đỏ có dân số đứng thứ hai sau người H’Mông (Hơ Mông, hay còn gọi là người Mông). Họ cũng có nguồn gốc từ Vân Nam, Trung Quốc, và là một bộ phận nhỏ của tộc người Dao di cư vào Việt Nam từ thế kỷ XIII đến những năm 1940 của thế kỷ trước. Họ sống tập trung đông nhất ở các xã Tả Phìn, Nậm Cang, Thanh Kim, Suối Thầu, Trung Chả

 

Theo các nhà nghiên cứu thì người Dao có quan hệ mật thiết với người H’Mông. Trước đây, hai nhóm này được cho là có cùng nguồn gốc, nhưng sau khi thiên cư từ Trung Hoa vào Việt Nam thì hai cộng đồng này đã hình thành những đặc điểm khác nhau. Ngày nay, đến Sa Pa chúng ta có thể nhận ra sự khác biệt giữa người Dao và ngươi Hơ Mông về hình dáng, trang phục, cách sinh hoạt v.v…, nhưng họ vẫn chung sống tại cùng một vùng núi mặc dầu nơi cao nơi thấp khác nhau.

 

Nếu người H’Mông thường chọn những nơi núi cao để ở thì người Dao lại chọn thung lũng hoặc lưng chừng núi ở để tỉa ngô, trồng lúa và thảo quả. Các lái buôn thường đến tận nhà thu mua, mang bán sang Trung Quốc nên cuộc sống của họ cũng khá. Nhiều nhà có xe máy, tivi, thậm chí là cả xe hơi, máy kéo dùng trong nông nghiệp.


Tộc người Dao có nhiều nhóm, nhưng sinh sống ở Sa Pa chủ yếu là người Dao Đỏ, bởi phụ nữ thường quấn khăn đỏ hay đội mũ đỏ, áo màu xanh đen nhưng có nhiều hoa văn đỏ và trắng ở cổ, ở vạt áo và tà áo. Trang phục của họ được xem là đẹp nhất ở Sa Pa. Phụ nữ Dao Đỏ còn có tục tỉa bớt chân mày và tóc phía trên trán cho đẹp. Họ cũng có chữ viết riêng dựa theo chữ Hán cổ gọi là chữ Nôm Dao, nhưng loại chữ này nay chỉ người cao tuổi mới đọc, hiểu và viết được.

 

Người Dao có tín ngưỡng rằng loài chó là tổ tiên của họ nên chó luôn luôn được quý trọng. Ngoài ra, đàn ông chỉ được coi là trưởng thành sau khi đã chịu lễ cấp bằng sắc của nơi thờ cúng. Họ cũng có các tục lệ khác như gia đình nào đang nấu rượu thì cắm một cành cây trước cửa, không cho người lạ vào vì quan niệm rằng hễ có người lạ vào là rượu sẽ chua và khê. Khi thấy có dấu hiệu cắm lá trước cửa nhà người Dao, người ta kiêng không vào. Trong gia đình có phụ nữ sinh nở cũng cắm cành lá trước cửa để không cho người lạ vào, sợ đứa trẻ mới sinh sẽ khóc nhiều.

 

Họ cũng có tục kiêng sờ đầu trẻ con. Khi cắt tóc, cạo đầu cho trẻ họ để một chỏm tóc ở đỉnh đầu vì cho rằng đó là nơi trú ngụ của hồn vía con người, để chỏm tóc như vậy trẻ sẽ không hay ốm đau. Họ cũng quan niệm là nam và nữ khi chưa kết hôn thì không được chụp hình chung. Khách du lịch muốn chụp tốt nhất là hỏi trước họ.

 

Mỗi năm người Dao cũng có những lễ hội đặc biệt như: “Hội tết, nhảy múa” tổ chức vào ngày Mồng một và Mồng hai tháng Giêng; “Hát hội giao duyên” vào ngày Mồng mười tháng Giêng ở bản Tả Phìn, cách thị trấn Sa Pa khoảng 12km. Bản này nổi tiếng với các loại thổ cẩm đủ màu sắc và kiểu dáng do bàn tay khéo léo của phụ nữ H’Mông hoặc phụ nữ Dao tạo nên. Đặc biệt, họ có bài thuốc tắm bằng lá cây rừng của tổ tiên người Dao Đỏ truyền lại đến ngày nay, rất tốt cho du khách đi đường xa mệt mỏi.


Thiếu nữ Dao Đỏ thoải mái ngủ với người lạ

 

Người Dao Đỏ không coi quan hệ “không phải vợ chồng” là vô đạo đức. Họ gọi chuyện đó là “coong trình”, thậm chí càng “coong trình” với nhiều đàn ông càng tốt.

 

Bản Tân Phong ở tỉnh Lào Cai là nơi có nhiều người Dao Đỏ sinh sống. Cách đây ít lâu, một sinh viên Nông Lâm ngoài hai mươi tuổi, mới ra trường, được cử về phụ trách kiểm lâm tại địa phương nên chưa hiểu gì về phong tục tập quán của người Dao Đỏ. Tới cơ sở, cậu được giới thiệu tạm thời ăn ngủ tại nhà ông trưởng bản. Đêm ấy, sau khi chủ nhà mổ gà, mời cán bộ kiểm lâm một chầu rượu say, cậu lăn ra ngủ.

 

Chừng nửa đêm, có hai cô gái tuổi độ 17-18 đến bên giường kéo áo cậu lôi dậy. Cậu chưa hiểu ra sao thì các cô thì thầm vào lỗ tai cậu: “Cán bộ ra rừng ngủ với chúng tao đi. Chúng tao thích cán bộ mà. Dậy đi ra rừng ‘coong trình’…”

 

Cậu kiểm lâm cố rụt đầu vào trong chăn thì hai cô gái càng lôi cậu mạnh hơn khiến cậu vô cùng sợ hãi. Trước khi lên vùng thượng du, người ta đã kể với cậu chuyện ma cà rồng hút máu người. Ma cà rồng hiện hình qua các cô gái xinh đẹp, đêm đêm đi tới các ngôi nhà, chờ thiên hạ ngủ say rồi cắn vào cổ, hút máu người đang ngủ. Ai bị ma cà rồng hút máu thì da vàng bủng vì mất máu rồi chết.

 

Trong ánh lửa từ lò nấu cám lợn và ngọn đèn đốt bằng mỡ trâu đặt trên giá của chiếc cột giữa nhà hắt tới, gương mặt hai cô gái Dao đẹp hoang dại, rực rỡ như hai đóa hoa rừng, cậu sợ quá hét lên. Nghe tiếng kêu, ông trưởng bản trở dậy. Thấy hai cô gái, ông bật cười nói gì đó với họ, họ cười rồi bỏ đi.

 

Sáng hôm sau, ông trưởng bản giải thích về tục “coong trình” của người Dao Đỏ cho cậu nghe rồi cười bảo cậu: “Mấy đứa con gái nó thích thanh niên miền xuôi nên muốn kéo cán bộ ra rừng ngủ với tụi nó đấy mà”. Cậu kiểm lâm trẻ tuổi bấy giờ mới tiếc hùi hụi!

 

Tháng 3 năm sau, hạt kiểm lâm phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức lễ cúng rừng và làm thủ tục để người dân ký hợp đồng nhận khoán, bảo vệ rừng. Buổi tối, cậu kiểm lâm trẻ tuổi rủ cô gái Dao Đỏ xinh nhất trong bản vào rừng. Nhưng vừa mới ôm cô gái vào lòng thì cô ta hét toáng lên rồi vùng bỏ chạy về bản. Thì ra, cô gái không đồng ý “coong trình” với chàng kiểm lâm nên chàng bị phạt vạ

 

Theo phong tục, chàng kiểm lâm phải mua hai con gà trống và hai chai rượu để gia đình cô gái cúng ma, gọi hồn cô gái lạc ngoài rừng về


Kể lại chuyện này, anh chàng kiểm lâm cười khì khì: “Hồi ấy mình còn trẻ, chưa biết gì về phong tục của họ chứ bây giờ thì cứ cô nào thích là mình “coong trình” đại, chả tốn một đồng nào cả, lỡ có bị phạt cũng… rẻ!”. “Thế lỡ cô ấy có con thì sao?”. “Thì cô ta nuôi. Cô ta “coong trình” với bao nhiêu người, đâu biết là con của ai”.

 

Ông Đặng Văn Tâm, hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Lục Yên và ông Hoàng Cửu Tung, trạm trưởng Trạm Kiểm lâm Tân Phong nói rằng Tân Phong là nơi có tới 96% dân chúng là người Dao Đỏ. Kể lại chuyện của mình, ông Tung cười: “Năm 2006, tôi được phân công phụ trách địa bàn xã Tân Phong. Hôm ấy đã muộn, tôi nghỉ lại tại nhà của một gia đình ở thôn Khiểng Khun. Chủ nhà mổ gà tiếp đãi tôi rất niềm nở. Cả chủ lẫn khách đều uống rượu say quá chừng. Người vợ của chủ nhà nhìn tôi với đôi mắt long lanh lạ lắm. Đêm ấy đã khuya, tôi đang ngủ thì thấy một phụ nữ chui vào trong mùng rồi ôm lấy tôi. Tôi giật mình tỉnh dậy thì thấy người ôm mình là vợ chủ nhà. Chị ta thì thầm vào lỗ tai tôi: “Mình thích cán bộ, cán bộ ‘coong trình’ mình đi!”. Tôi hoảng quá bèn mở cửa chạy ra ngoài vì sợ chủ nhà tỉnh dậy, nhưng anh ta vẫn ngủ say như chết. Anh ta uống rượu say quá! Vậy là tôi bèn quay trở lại mùng và “coong trình” cho vừa ý vợ chủ nhà…”

Sự phóng khoáng trong chuyện “coong trình”

 

Chuyện quan hệ tình dục của người Dao Đỏ khá phóng khoáng. Có người giải thích rằng do cuộc sống khép kín của cộng đồng người Dao Đỏ, nên quan hệ hôn nhân cận huyết khiến nhiều cặp vợ chồng vô sinh hoặc có những đứa trẻ sanh ra dị dạng hay kém phát triển về trí tuệ cũng như thể hình. Chính vì thế nên phụ nữ Dao Đỏ có phong tục duy trì nòi giống bằng cách quan hệ với nhiều đàn ông khác có vóc dáng cao to, đẹp trai, để sinh ra những đứa con khỏe mạnh, xinh đẹp.

 

(Người Eskimo ở Bắc Cực cũng vậy, cuốn “The Eskimos” của Mục sư Peter Jergens người Mỹ nói rằng khi khách tới igloo (nhà hình vòm xếp bằng các tảng băng của người Eskimo) thì được mời ngủ chung với vợ chủ nhà. Hàng xóm đi săn trên tuyết mà vợ không đi theo được thì có thể “mượn” vợ của bạn gần đấy, và người đàn bà này sẽ phục vụ mọi chuyện kể cả việc “thay thế người vợ” một cách tự nhiên bất cứ lúc nào, không hề mặc cảm. Nếu may mắn có con, đứa trẻ sẽ thuộc về người chồng đã cho mượn vợ chứ không phải thuộc về người đi mượn).

 

Tập tục “coong trình” đã có từ lâu đời, chợ tình Sa Pa của người Dao Đỏ phải chăng là để giao lưu tình cảm, thỏa mãn nhu cầu tình dục hay sâu xa là cải tạo giống nòi? Điều này các nhà khoa học sẽ nghiên cứu tiếp để giải đáp. Nhiều người kinh ngạc khi nhìn thấy các cô gái Dao Đỏ xinh đẹp lạ thường, họ cho biết: “Các cô gái đó đẹp chẳng khác gì tiên sa. Không ai hiểu họ có phải là sản phẩm trong những đêm “coong trình” do mẹ của họ với những người đàn ông khỏe mạnh, đẹp trai ở nơi khác đến hay không?”.

Ông thợ săn tên là Bàn Phúc Châu sau khi nghe phóng viên hỏi về phong tục “coong trình” và hỏi thật rằng trong đời ông đã “coong trình” với bao nhiêu phụ nữ rồi. Ông cười, rung đùi đầy hứng khởi: “Ô, không nhớ hết đâu. Mình xấu trai, các cô gái ít cô thích. Nhưng nếu vợ người ta thích thì mình cũng “coong trình” luôn”. “Lỡ chồng họ bắt được?”. “Thì mình bị nộp phạt hai con gà và một chai rượu, rẻ thôi mà”.

Ông cười khoái trá rồi lại kể tiếp: “Vợ mình chắc nó cũng đi “coong trình” với nhiều đàn ông khác lắm nhưng mình không biết thì chịu, không được bắt phạt gà, rượu. Còn nếu nó có con với người ta thì cũng chả sao, đứa con đó gọi mình là bố chứ có gọi người kia là bố đâu. Có người không có con còn phải mua con nuôi nữa kia mà. Người Kinh bảo cá vào ao nhà ta là cá của ta, thì có gì mà phải buồn”.

 

Chị Triệu Thị Luyến, người hàng xóm của ông Bàn Phúc Châu, được ông mời sang chơi, uống rượu, nghe chuyện “coong trình” thì cứ cười khúc khích. Khi được hỏi ba đứa con của chị Luyến có mấy đứa là con của chồng? Chị Luyến cười, không biết nói thật hay dối: “Cả ba đứa đều là con của chồng em”…

 

Chị Đặng Thị Tâm, phó chủ tịch xã, cười ý nhị, bảo: “Ba đứa con của Luyến đều gọi chồng của nó bằng bố đấy. Còn em là người bên xã Tân Lĩnh, lúc còn con gái cũng hay “coong trình” nên gặp được chồng em rồi về làm dâu bên xã này”.

 

2. Tục “kéo vợ” của người Dao Đỏ.



Trời Tây Bắc vào Xuân, thiên nhiên giao hòa, cây cối nảy lộc, cũng là lúc những chàng trai Dao Đỏ hòa vào điệp khúc mùa Xuân – điệp khúc của tình yêu– đang tràn ngập trên khắp núi đồi với tục lệ riêng của người Dao Đỏ: “Kéo người mình thương về… làm vợ!”.

 

Từ những ngày giáp Tết đến hết tháng Giêng, khi nhà nào thóc cũng đã đầy bồ, thịt đã treo kín trên ránh bếp, người người được nghỉ ngơi chuẩn bị cho vụ mùa năm tới thì cũng là lúc trai gái đến tuổi trưởng thành hướng theo tiếng gọi của tình yêu đôi lứa, lo chuyện xây dựng mái ấm gia đình.

 

Nếu các dân tộc thiểu số khác thuộc vùng Tây Bắc có tục “ngủ thăm”, “chọc sàn”, “bắt vợ” v.v… để chàng trai có thể lấy được người con gái mà mình yêu về làm vợ thì dân tộc Dao Đỏ có tục kéo vợ.

 

Truyện kể rằng, ngày xưa có một chàng trai nhà nghèo đem lòng say mê một cô gái xinh đẹp con nhà giàu. Không đủ bạc trắng, không có trâu, dê để cưới hỏi cô, chàng chỉ biết thầm thương trộm nhớ, còn cô gái thì hoàn toàn không đoái hoài gì tới chàng.

 

Thế rồi một ngày kia, tấm chân tình của chàng đã thấu tới thần, Phật và đấng linh thiêng. Thần đã báo mộng cho chàng rằng hãy làm sao bắt cóc được cô gái về, nhân duyên sẽ thành. Chàng làm theo và đã bắt được người mình yêu về giữ trong nhà mình. Tính tình ương ngạnh của cô gái đã được tình cảm chân thành của chàng cảm hóa, họ yêu nhau, sống với nhau, sinh con đẻ cái và sống đến trọn đời.

 

Chuyện xưa thể hiện ước mơ của những người nghèo túng không có khả năng trả nổi tiền cưới để lấy được người mình yêu. Tính “hợp lý” của câu chuyện đã có từ xa xưa và được thể hiện đầy đủ trong cuộc sống của thanh niên dân tộc Dao Đỏ cho đến ngày nay.

 

Giữa lưng chừng những vách đá còn phủ sương sớm, các chàng trai, cô gái người Dao Đỏ dường như đã hẹn hò từ trước, ngồi bên nhau, trao nhau những lời nói yêu đương, tình tứ. Chờ đến chiều, dường như đã hiểu nhau hơn, chàng trai cùng với bè bạn của mình bắt đầu “kéo” người mình yêu về làm vợ.

 

Theo giải thích của người Dao Đỏ, không phải cứ thấy cô gái nào xinh xắn, giỏi giang là kéo về nhà mình làm vợ. Thật ra, trước khi “kéo vợ”, đôi nam nữ đã tìm hiểu nhau rất kỹ, rồi ưng nhau. Kéo vợ chỉ là phong tục “bắt buộc phải có” để người con gái chính thức bước chân về nhà chồng.

 

Sau khi bị “kéo” về nhà chàng trai, cô gái được giữ ở trong nhà 3 ngày và vẫn sinh hoạt bình thường, được cha mẹ chàng trai xem như con cái trong nhà.

 

Sau 3 ngày, nếu ưng thuận, cô gái Dao Đỏ sẽ cắt bớt tóc và trở thành người vợ chính thức trong gia đình, chờ đến khi nào kinh tế khá giả họ mới tổ chức đám cưới, còn nếu không ưng thì lại trở về nhà mình. Chính vì thế, phong tục “kéo vợ” có tính hợp lý trong sinh hoạt của người Dao Đỏ.

 

 

3. Tục “cạy cửa ngủ thăm” của người Dao Tiền


Dao Đỏ là người Dao mà phụ nữ thường đội khăn hay mũ đỏ, mặc áo màu xanh đen có các nẹp cũng màu đỏ. Y phục của phụ nữ Dao Đỏ đẹp nhất trong các dân tộc thiểu số trên vùng thượng du Bắc Việt. Còn Dao Tiền là người Dao mà phụ nữ thường đeo vòng cổ hay vòng tay chân có các đồng tiền bằng đồng hay bằng bạc, khi cử động chúng kêu leng keng thánh thót rất hay. Trên đất nước Việt Nam có 54 sắc tộc (thường gọi là “dân tộc”) cùng chung sống. Mỗi dân tộc có những phong tục, tập quán mang nét độc đáo, rất riêng. Quý bạn đã từng nghe nói đến Lễ bỏ mả ở Tây Nguyên, Chợ tình (ở Khâu Vai – Hà Giang) v.v…, chúng tôi muốn giới thiệu với quý bạn một phong tục đặc biệt của người Dao Tiền ở vùng Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ: tục “cạy cửa ngủ thăm”.

 

Bản Cỏi thuộc xã Xuân Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, nằm dựa lưng vào núi. Một bên giáp huyện Đà Bắc tỉnh Hòa Bình, phía bên kia giáp với huyện Phù Yên của tỉnh Sơn La. Bản Cỏi được bao quanh bởi suối và các núi non hùng vĩ. Nơi đây tập trung các dân tộc Dao, Mường… sinh sống. Cả bản có 66 hộ dân với 350 nhân khẩu.

 

Theo sự giải thích của người dân nơi đây, “ngủ thăm” có nghĩa là con trai, con gái đến tuổi trưởng thành đều có thể “cạy cửa ngủ” để thăm nhà nhau. Tuy nhiên, theo phong tục và quy định riêng của người Dao và người Mường từ bao đời nay, chỉ con trai người Mường mới được lấy vợ người Dao, còn con trai người Dao không được lấy gái Mường.

 

Các cô gái đến tuổi trưởng thành, ban ngày đi làm công việc đồng áng, tối đến thắp một ngọn đèn, buông mùng sớm và nằm trong đó. Các chàng trai có nhu cầu tìm hiểu người con gái mình sẽ lấy làm vợ, có thể tìm đến thăm nhà cô gái. Nếu thấy đèn trong buồng cô gái còn sáng, nghĩa là chưa có ai đến ngủ thăm, chàng trai phải tự cạy cửa để vào trong nhà, nằm xuống bên cạnh cô gái, cô này sẽ tắt hoặc vặn nhỏ ngọn đèn. Hai người chỉ trò chuyện, tâm sự mà không được đụng chạm vào người nhau.

 

Sau một thời gian tìm hiểu, cô gái có quyền quyết định xem có nên cho chàng trai đó “ngủ thật” hay không. Nhưng trước khi đi tới “ngủ thật”, hai người phải thưa với bố mẹ để bố mẹ coi có hợp tuổi với nhau không. Nếu hợp tuổi, gia đình sẽ cho phép đôi bạn trẻ “ngủ thật” với nhau.

 

Sau khi thời gian “ngủ thật” bắt đầu cũng là lúc chàng trai phải đến làm công cho gia đình cô gái. Cứ ngày đi làm cùng gia đình, tối về ngủ với cô gái mình có ý định tìm hiểu. Trong thời gian này, chàng trai không được về nhà mình, muốn về phải được gia đình cô gái cho phép. Nếu cô gái không thích chàng trai nữa thì cô ta sẽ gói quần áo cùng với một gói cơm nắm cho vào cái địu và bảo chàng trai: “Anh cứ về thôi!”, như thế có nghĩa là cô gái đã từ chối. Hoặc cũng có khi, cô gái bảo: “Hôm qua, em nằm mơ thấy không thể chung sống với anh được”, đó cũng là một cách từ chối nhẹ nhàng.

 

Nếu bạn là người Kinh, bạn vẫn có thể đến “ngủ thăm” ở nhà bất cứ một cô gái nào bạn thích, miễn là cô gái ấy chưa có ai đang “ngủ thăm” đêm hôm đó hoặc đã có người “ngủ thật”; và phải nhớ là bạn không được làm một điều gì… “thiếu trong sạch” khi muốn thử cái phong tục rất độc đáo này. Cũng có trường hợp cô gái để cho hai chàng trai đến “ngủ thăm” ở hai bên cạnh mình. Phong tục của họ cho phép như vậy. Trong trường hợp này, cả hai chàng trai cùng chuyện trò, tâm sự với cô gái, ai nói giỏi hơn thì người đó thắng.



Cho đến thời điểm này, các hãng du lịch vẫn chưa có các tour đưa du khách đến Bản Cỏi. Tuy nhiên, càng ngày càng có nhiều du khách tự động thuê xe đến đây để khám phá thiên nhiên hoang sơ và những phong tục tập quán kỳ lạ… có một không hai này!

 

Để đến được Bản Cỏi, người ta có thể mua vé xe tuyến Hà Nội – Phú Thọ ở bến xe Kim Mã Hà Nội (giá vài chục ngàn đồng/vé), xuống xe tại thị trấn của huyện Thanh Sơn.

 

Ở chợ của thị trấn Thanh Sơn có rất nhiều mặt hàng của đồng bào các dân tộc quanh vùng mang đến bán hoặc trao đổi hàng hóa như: thổ cẩm, đồ lưu niệm, hàng tiêu dùng, đặc biệt là các loại thuốc Nam. Giá nhà nghỉ ở đây tương đối rẻ, khoảng 50-100 ngàn đồng/phòng giường đôi, còn nhà trọ thì 10-20 ngàn đồng/người/ngày. Trung tâm thị trấn cũng có nhiều điểm vui chơi với giá cả rất rẻ và người dân ở đây hết sức thật thà, mến khách.

 

Từ thị trấn Thanh Sơn người ta có thể thuê xe ôm đến Bản Cỏi, khoảng 50-70 ngàn đồng/xe chở 2 người. Cánh xe ôm ở đây tay lái rất vững, khách có thể yên tâm dù cho quãng đường đồi núi gập ghềnh.

 

Tuy Bản Cỏi chưa có khách sạn và nhà nghỉ nhưng khách có thể đến gõ cửa bất cứ một ngôi nhà nào, bảo đảm không phải trả tiền mà còn được chủ nhà coi như thượng khách.

 

 

4. Đi “mò đêm” nhà sơn nữ người Thái

Căn nhà sàn của cô gái Thái vẫn còn bật đèn, bố mẹ cô chưa đi ngủ, A Lý tiến vào khẽ gõ lên cửa một lát thì cánh cửa mở ra… Sau đây là lời kể của một phóng viên ngoài Bắc…





GIAI THOẠI VỀ EINSTEIN .
Vợ của Albert Einstein thường khuyên ông phải ăn vận cho chỉn chu hơn khi tới chỗ làm.
Ông sẽ luôn phản bác lại rằng:
- “Tại sao nhỉ? Mọi người ở đó đều biết tôi mà”.
Khi Einstein tới dự một cuộc họp lớn, bà lại nài nỉ ông hãy mặc những bộ đồ đẹp đẽ hơn. Ông lại bảo:
- "Tại sao chứ? Ở đấy có ai biết tôi đâu!"
Người ta thường yêu cầu Albert Einstein giải thích thuyết tương đối. Ông phân trần:
- "Bạn giơ tay trên bếp lò, một phút dài như một giờ. Bạn ngồi với một cô nàng xinh đẹp, một giờ chỉ như một phút. Ấy chính là sự tương đối!”
Một hôm, hồi còn làm việc tại đại học Princeton, khi đang trên đường về, ông quên mất địa chỉ nhà mình. Tài xế taxi không nhận ra ông. Ông hỏi anh ta có biết nhà của Einstein không. Anh ta đáp rằng:
- "Ai mà không biết địa chỉ của Einstein chứ nhỉ? Ai ở Princeton này chả rõ. Ông muốn gặp ông ấy à?"
Và Einstein nói:
- “Tôi là Einstein đây. Tôi quên địa chỉ nhà mình rồi, anh chở tôi về đó được không?”
Tài xế chở ông về và còn chẳng lấy tiền cước xe.
Có lần, Einstein đi tàu hỏa từ Princeton và người soát vé đi xuống để bấm vé của các hành khách. Khi anh ta tới chỗ Einstein, ông tìm trong túi áo vest. Chẳng thể nào mò ra được tấm vé, ông chuyển sang túi quần. Không thấy, ông lại tìm trong cặp nhưng cũng không có luôn. Và rồi tiếp đến, ông tìm cả chiếc ghế bên cạnh mình. Vẫn chẳng thấy gì. Người soát vé nói:
- “Tiến sĩ Einstein, tôi biết ngài mà. Chúng tôi đều biết ngài. Tôi chắc rằng ngài đã mua vé rồi. Xin đừng lo lắng gì cả”.
Einstein gật đầu một cách lịch sự. Người soát vé tiếp tục đi tới những hàng ghế phía sau. Lúc sắp sang toa khác, anh ta quay lại và thấy nhà vật lý vĩ đại của chúng ta vẫn đang loay hoay quỳ xuống tìm tấm vé. Anh ta vội vã đi tới và bảo:
- “Thưa tiến sĩ Einstein, xin đừng lo mà, tôi biết ngài là ai mà. Không vấn đề gì đâu. Ngài không cần vé đâu. Tôi tin là ngài đã mua vé rồi”.
Einstein nhìn anh ta và nói:
- "Chàng trai à, tôi cũng biết tôi là ai mà. Nhưng tôi quên béng mất mình đang đi đâu rồi”.
Khi Einstein gặp Charlie Chaplin:
Einstein nói:
- "Tôi rất ngưỡng mộ nghệ thuật của ông, nhất là sự phổ quát trong ấy. Ông chẳng cần nói gì... Vậy mà cả thế giới vẫn hiểu được."
Charlie Chaplin đáp lời:
- “Đúng vậy. Nhưng danh tiếng của ông còn vĩ đại hơn mà. Cả thế giới ngưỡng mộ ông, dù chẳng ai hiểu được ông nói gì."
Chương Trần Sưu tầm.


Bức tranh dưới đây ở thế kỷ 15, mô tả việc lột da thẩm phán Sisamnes vào năm 500 trước Công nguyên.
Dưới thời vua Cambyses II ở Ba Tư có một thẩm phán hoàng gia tên là Sisamnes. Ông này đã phạm tội nhận hối lộ. Ông nhận tiền để kết án oan cho người dân. Kết quả là nhà vua ra lệnh bắt ông ta và lột da sống. Đây là trường hợp đầu tiên phải chịu hình phạt này. Da của Siamnes được dùng để bọc ghế mà ông ta đã ngồi chủ trì các phiên tòa. Người tiếp theo ngồi lên chiếc ghế đó chính là con trai của Sisamnes tên là Otanes, người được nhà vua chọn để thay thế cha mình. Điều này luôn nhắc nhở Otanes và các thẩm phán kế tiếp phải thanh liêm, khách quan khi tuyên án.

Sưu tầm