Mất Nhau
Không đêm nào ông ngủ tròn giấc. Cứ vài tiếng là ông phải dậy để lấy thuốc giảm đau cho bà uống. Dạo này sức khỏe của bà yếu hẳn, nhất là sau khi mổ. Bởi thế giấc ngủ ông cứ chập chờn, ngủ không ra ngủ, vì lòng ông phập phồng.
Bà nằm bên cạnh, hơi thở nhè nhẹ, đôi khi thở dốc, đứt quãng. Có khuya, ông giật mình tỉnh giấc vì hình như không nghe bà thở. Choàng dậy, ông ghé sát tai vào mũi bà. Hơi thở bà nghe như muỗi kêu.
Bà liệt đôi chân đã gần 13 năm nay. Trăm sự đều nhờ một tay ông. Ban ngày con cái đi làm cả. Căn nhà rộng chỉ mỗi ông và bà quạnh vắng. Công việc mỗi ngày quen thuộc đến nỗi cứ nghe tiếng chuông đồng hồ điểm mấy tiếng thì ông biết giờ này phải làm gì cho bà.
Sáng sớm, ông vất vả đưa bà – thân xác bà nặng nề vì bao nhiêu năm nằm một chỗ không vận động – từ giường lên chiếc xe lăn và đẩy ra phòng ăn.
Trên bàn, ông đã dọn sẵn đĩa trứng, vài miếng xúc xích và ly cà phê pha loãng. Lúc mới liệt đôi chân, bà còn tự ăn. Khoảng vài năm trở lại đây, ông phải đút cháo cho bà.
Ông tất tả việc chăm lo, từ bữa sáng đến cơm chiều. Sức khỏe bà yếu dần, ăn không thấy ngon nên có lúc bà không buồn ăn. Ông phải dỗ và đút cho bà được mấy thìa cháo lót dạ để uống thuốc chứ không ăn hết bữa sáng như những năm trước.
Lát sau, ông đưa bà ra trước sân đón nắng. Ngọn gió sớm mai vờn trên lọn tóc rối pha sương, lòng ông dịu lại khi nhìn khuôn mặt bà tràn ngập nắng bình minh. Tuổi ông và bà đi vào hoàng hôn đã từ lâu. Nhưng thật may, ông vẫn còn đủ sức để tận tụy chăm sóc bà.
Buổi trưa êm ả. Bà ngủ gà ngủ gật trên chiếc sofa. Dọn dẹp bếp núc xong, ông đến ngồi cạnh bà.
Căn nhà yên ắng chỉ nghe tiếng thở của bà thều thào như muốn trối trăn điều gì. Bà đọc kinh theo ông cầm chừng vì người mau mệt. Đôi lúc bà trở mình thở dốc, ông vội đỡ lấy bà, đưa tay vuốt ngực cho bà thở.
Thời tiết cuối đông lúc ấm lúc lạnh thất thường, nên sức khỏe của bà cũng bồng bềnh như mây. Có lúc bà ngủ thiếp trên ghế đến nỗi ông ngỡ tim bà đã ngừng đập. Trong thinh lặng của buổi trưa hiu quạnh, ngồi nhìn bà vật vờ trên ghế, ông cảm nhận thật rõ ràng hơn bao giờ là sức khỏe bà mong manh quá.
Nhìn lên cây thánh giá, ông lẩm nhẩm cầu xin Chúa cho ông sức khỏe để tiếp tục chăm nom bà. Hơn mười năm nay, ông chưa hề than van mệt nhọc nhưng cứ nghĩ mãi đến cái tình. Bây giờ có ai hỏi ông có yêu bà không thì ông lắc đầu bảo cả đời tôi chỉ biết thương nhà tôi, chứ có biết yêu là gì. Như thuở ban đầu cha mẹ dạm bà cho ông ở cái làng Bách Tính xa xưa ngoài Bắc.
Truyền thống cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy vẫn là một khuôn phép gia thế được gìn giữ qua bao nhiêu đời. Ông chỉ biết bà là con gái ông bà Thư được cha mẹ ông hỏi về làm dâu. Thế nhưng ông thương bà ngay từ lúc bà bước về nhà chồng.
Người ta bảo về già vợ chồng sống với nhau vì nghĩa hơn là vì tình. Nghĩa đây là nghĩa vụ, là trách nhiệm, là bổn phận. Ông nghĩ nếu không còn thương nhau thì cái nghĩa sẽ trở thành một cực hình. Cái gì cũng thế, theo ông, tất cả đều phát xuất từ tình thương. Như phận của ông, ở tuổi xế chiều, ông vẫn thấy thương bà đầy ắp như thuở nào. Với tình thương bền bỉ đó nên ông chẳng nề hà săn sóc bà hết lòng, mỗi ngày.
Vậy mà có lần bà bảo bà nên chết cho ông đỡ khổ. Ông giật mình bảo bà nói gì vậy, bao nhiêu năm vẫn săn sóc bà, tôi có phàn nàn gì đâu. Ông không hiểu bà đang dỗi hay chán sống. Bà nhìn ông với cặp mắt rơm rớm biết ơn, tôi biết nhưng tôi thấy ông quá khổ vì tôi, làm sao tôi đành lòng.
Ông gạt phăng, bà thấy Chúa quan phòng không? từ ngày bà ngồi xe lăn, tôi chẳng hề đau ốm ngày nào để có sức chăm sóc cho bà. Ông nhỏ nhẹ, bà cứ yên tâm, tôi còn khỏe ngày nào thì vẫn lo cho bà ngày đấy.
Ông nói như đinh đóng cột, nhưng trong lòng ông mơ hồ thấy một chia lìa, một mất mát nào đó đang đè nặng trong tâm trí. Ông chưa hình dung được một ngày không có bà sẽ ra sao…
Đặt bà nằm xuống giường, ông ra phòng khách gọi cho người cháu nơi xứ lạ quê người. Chồng cô cháu gái mới chết đã mấy ngày mà chưa có thì giờ gọi chia buồn. Hôm nay bà ngủ sớm nên ông vội gọi ngay kẻo quên. Người cháu rể hôn mê cả tuần rồi mất.
Ai cũng một lần chết, ông chợt nghĩ đến sức khỏe của bà ngày càng suy sụp thấy rõ. Ý nghĩ chia lìa lại nhúm lên, ông nghe nhói trong tim và lắc đầu xua đuổi mảng tối ra khỏi tâm trí. Ông thở dài nghĩ đến họ hàng thân thuộc ở hết bên kia nửa vòng trái đất, kể cả đứa con gái theo chồng sống xa ông bà. Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
Về già, ông thấy cần gần gũi với anh em ruột thịt hơn bao giờ, như lúc các anh chị em chung sống với ông dưới một mái nhà ở làng Bách Tính.
Chú cháu chuyện trò một lúc, ông xin kiếu vì đến giờ cho bà uống thuốc. Bật ngọn đèn đêm, ông nhìn bà chìm trong giấc ngủ bình an, thanh thản lạ lùng. Ngồi một bên, ông lay bà dậy. Không hiểu sao lay đến mấy bà vẫn nằm im.
Ông phải dỗ, bà nghe tôi dậy uống thuốc. Ông dỗ bà như thế đã nhiều lần, có khi được mấy thìa cháo, có lần được mấy viên thuốc. Lần này, bà vẫn nằm bất động.
Ông nói nhỏ vào tai bà, bà không nghe lời tôi, thế bà còn thương tôi nữa không. Thường khi nghe ông hỏi “còn thương không” thì bà luôn chiều lòng, vì sợ ông buồn. Lần này, ông hỏi gặng mấy lần mà bà vẫn lặng thinh.
Sự thinh lặng khó hiểu chợt làm ông lo sợ. Ông đứng bật dậy gọi anh con trai. Người con chạy vội vào phòng, đặt tay lên mũi bà. Anh cẩn thận nắm cườm tay xem mạch.
Sau cùng, anh úp tai vào ngực bà. Đến lúc đó, nỗi lo sợ hoàn toàn choáng ngợp tâm trí ông. Vòng quay sinh tử nhiệm mầu thình lình đổ ập trên đầu, ông chỉ nghe loáng thoáng tiếng người con, mợ đi rồi ba à… để con gọi cấp cứu.
Thảng thốt buông rơi mấy viên thuốc, ông kêu lên, bà ơi. Hình như ông đã chuẩn bị giây phút chia ly từ mấy tháng nay, nhưng khi nó xảy ra – như ngay bây giờ – ông vẫn loay hoay không biết đón nhận thế nào cho phải.
Ông đứng lặng người nghĩ xa hơn, bà sẽ không còn cần ông làm những việc thường ngày nữa. Hết thật rồi. Ngài mai, ông nhẩn nha dậy trễ, vì không cần làm bữa sáng cho bà; trưa rảnh rỗi, ông có thể chợp mắt đi một chút; ông cũng chẳng cần đẩy chiếc xe lăn vì từ ngày mai, nó sẽ nằm yên quạnh quẽ ở góc phòng.
Tính đến lúc bà mất, ông đã 93 tuổi. Lần đầu tiên trong suốt 73 năm đời sống vợ chồng, ông cụ cảm thấy thấm thía hai chữ “mất nhau.”
Vừa nghĩ đến đó, ông cụ lặng lẽ ngồi xuống bên bà và ôm mặt bật khóc tức tưởi.
Tình không đẹp như thơ
Chị đến Mỹ muộn màng và yêu cũng muộn màng. Các anh chị của chị đến Mỹ từ lâu, họ làm bảo lãnh cha mẹ, rồi đến chị, diện anh chị em không được ưu tiên cao, nên lá đơn bảo lãnh nộp sở di trú khi chị 25 tuổi, đến 37 tuổi, chị mới được đặt chân đến Mỹ.
Mười hai năm chờ đợi ấy, chị đã phải hi sinh rất nhiều, không dám yêu ai và chẳng dám đáp lại tình ai. Bố mẹ chị đã răn đe “ Bất cứ giá nào cũng phải đợi đi Mỹ để đoàn tụ với gia đình, con nhé! không được yêu thương thằng nào hết”. Chị vừa vâng lời cha mẹ, vừa mộng mơ, tưởng tượng: “Thôi thì ráng hi sinh những tình cảm bên này, qua bên ấy, tha hồ lựa chọn một tấm chồng, cỡ bác sĩ, kỹ sư… trở lên, thà muộn mà ngon lành, còn hơn sớm, phải ở lại Việt Nam, tình yêu nào cũng sẽ lụi tàn, mà chuyện áo cơm thì vất vả cả đời”. Và chị hớn hở chờ đợi.
Qua Mỹ, đến nay đã 3 năm, chị đã sốt cả ruột mà chưa tìm đâu ra một ông bác sĩ, hay kỹ sư. Vậy mà, ở Việt Nam, người ta cứ đồn rằng qua Mỹ lấy chồng dễ ợt, bạn bè, hàng xóm khoe con em họ lấy chồng có đủ loại bằng cấp nọ kia, dù những cô gái may phước đó chẳng đẹp hơn chị là bao ! Thì chị cũng có quyền hi vọng như thế lắm chứ.
Bây giờ chị mới hiểu rằng, người Việt Nam ở Mỹ, học hành,thành đạt thật đấy, nhưng con gái Việt Nam ở đây không còn khan hiếm nữa, những thế hệ sau này đã lớn lên, đủ “cung cấp” nhu cầu tại chỗ, chưa kể “thị trường” trong nước Việt Nam thì vô tận, các cô gái trẻ đẹp luôn khao khát, chờ mong được Việt Kiều về cưới và mang họ qua Mỹ.
Thế nên, chị lạc lỏng giữa dòng đời, giữa xứ Mỹ và giữa cái tuổi không còn trẻ và chưa đủ già của chị..
Nước Mỹ, sau vụ 9-11 kinh tế khó khăn, công ăn việc làm bị hạn chế, chị không có tay nghề, kinh nghiệm.Vốn liến tiếng Anh chỉ lưu loát được 3 chữ: “ No, Yes, Thank you”,nên chị xin việc hãng nào là cầm chắc bị hãng đó từ chối. Cuối cùng, chị cũng được một chỗ làm để kiếm ra tiền, khỏi sống nhờ vào các anh chị, là làm may cho một shop của người Việt Nam, họ chỉ cần chị biết may, thế là đủ! Nên khả năng nói lưu loát 3 chữ “ No, Yes, Thank you”của chị vẫn dư thừa, để dành đó, không cần đụng tới.
Cả ngày chị cặm cụi vào cái máy may, vào những miếng vải cắt sẵn, và dăm ba câu chuyện vặt với người bạn may bên cạnh, dần dần cũng thành tẻ nhạt, người ta có chồng có con, nên cứ nói đến đề tài này là chị “né”, vì sợ động vào nỗi đau âm thầm của chị. Chị chỉ còn một niềm vui duy nhất đó là cuối tuần đi chợ, nhìn đủ các gương mặt lạ, những hàng hoá, thực phẩm, để nghĩ đến những món ăn ngon sẽ nấu.Và nhất là xin được mấy tờ báo, về nhà nằm khểnh đọc chơi !
Ở thành phố này, có bao nhiêu tờ báo phát hành, chị đều xăng xái xin đủ cho bằng được, thiếu một tờ là chị áy náy. Báo free mà, không mất tiền thì cứ hưởng tối đa, không đọc được mục này thì cũng đọc mục nọ, mà nếu không đọc gì hết cũng… chẳng sao, tờ báo sẽ đem ra lót bàn, đựng rác. Khi gọt trái cây, dùng để đựng vỏ, đựng hột, và túm lại dễ dàng trước khi nhét vào thùng rác.Tiện lợi mọi bề !
Thường thì chị hay đọc mục “Tìm bạn bốn phương”, thấy người ta đăng báo tìm bạn, chị cũng ham quá, nhưng vẫn thấy ngần ngại, sợ cha mẹ, anh chị biết rõ “tâm địa” chị đang muốn lấy chồng, nên chị chưa bao giờ có ý định đăng lên những lời khao khát của chính mình.
Một hôm, chị ngồi buồn, chẳng biết làm gì, bèn gọt một trái xoài ăn chơi. Trải tờ báo ra bàn, chị vừa gọt vỏ xoài vừa lơ đãng đọc một bài thơ nằm chình ình trên trang báo trước mặt chị. Bài thơ than thân, trách phận và oán đời, nghe mà não nề của tác giả Phong Trần.
Bài thơ đã làm chị xúc động, cái bút hiệu Phong Trần càng làm chị xúc động hơn, chị tưởng tượng nhà thơ Phong Trần dày dạn gió sương, cũng đang là một kẻ cô đơn, mòn mỏi như chị, chị muốn cắt bài thơ ra để dành, nhưng những vỏ xoài đã dính lên bài thơ làm ướt nhẹp. Nghĩ mà tội nghiệp cho nhà thơ, có biết đâu tác phẩm tim óc của mình bị ngược đãi, ơ hờ như thế. Nếu chị không vừa gọt trái xoài vừa liếc mắt đọc bài thơ cho đỡ sốt ruột thì có lẽ chẳng bao giờ chị biết đến nhà thơ Phong Trần cả.
Từ hôm ấy trở đi, mỗi tuần chị đều chăm chú giở từng trang, tờ báo mà chị đã “gặp” nhà thơ Phong Trần trong lúc gọt xoài, để tìm thơ anh. Chị đọc từng chữ, từng dòng và ghiền thơ anh hồi nào không hay. Chị liền bạo gan, gọi phone tới toà soạn báo để hỏi thăm và xin số điện thoại của nhà thơ Phong Trần với tấm lòng ái mộ. Chị không ngờ, cú phone đầu tiên chị gọi nhà thơ Phong Trần được hân hoan đón nhận đến thế, nghe chị nói rất thích thơ anh, nhà thơ Phong Trần đã kiên nhẫn chép tay cả chục bài thơ và gởi bằng bưu điện cho chị.
Từ đấy, ngành bưu điện đang hồi ế ẩm, bỗng nhiên vớ được hai khách hàng chăm chỉ viết thư cho nhau, nhờ bưu điện chuyển giùm, và cũng từ đấy, mỗi lần thơ anh đăng lên báo, đều ghi tặng tên chị phía dưới, những bài thơ anh dịu dàng hơn, tình tứ hơn, làm chị cảm động.
Chị mang đến shop may một trái tim vui đang yêu, chị dò dẫm để khoe khéo với bà thợ may bên cạnh, mà chị từng trò chuyện mỗi ngày:
- Nhà chị có hay đọc báo chí Việt Nam không?
- Có chứ, cả nhà cùng đọc, ở xứ Mỹ buồn thấy bà. Cuối tuần có báo “chùa” đọc cũng vui.
- Thế chị có đọc tờ báo…
Bà kia cướp lời, nhanh nhẩu:
- Đã nói là báo nào cũng đọc hết trơn, báo cuốn, báo tờ có đủ cả. Một mặt ông xã đi lấy, một mặt tôi đi chợ xin thêm, nên không sót tờ nào. Có khi còn lấy dư, ê hề chật cả nhà..
Chị vừa trách vừa thấp thỏm vui mừng:
- Lần sau lấy báo vừa đủ coi thôi, lấy dư người khác không có đọc, tội người ta. Thế chị có đọc thơ của nhà thơ Phong Trần không?
Bà bạn may khựng lại:
-Ủa!...thằng đó là thằng nào?
-Sao chị bảo báo nào cũng đọc hết? Phong Trần là một nhà thơ…
Bà kia lại nhanh nhẩu:
- Ôi, ai hơi đâu để ý tới mục thơ thẩn, tôi chỉ khoái coi mục tử vi hàng tuần thôi hà. Thơ của thằng Phong Trần hay của bất cứ ai cũng không nhằm nhò gì với tôi hết.
Chị bực mình, nghĩ thầm “ Con mẹ này trước ở Việt Nam, chuyên mua bán ve chai, lông vịt, trình độ đâu mà đọc văn thơ?”.
Chị lại gói niềm riêng, đợi khi nào gặp được người “cao cấp” hơn sẽ hỏi. Một hôm, có cặp vợ chồng, bạn của người anh, đến nhà chị chơi, cả hai đều là kỹ sư điện, họ rất thân với gia đình chị, chị liền lân la đến gần người vợ để chuyện trò:
- Chị ơi, chị có thích đọc thơ của nhà thơ Phong Trần, đăng trên báo Việt Nam ở đây không?
Bà kỹ sư điện trả lời nhanh như điện:
- Chị không có thì giờ đọc mấy bài thơ đăng trên báo chợ đâu em ạ, thơ chẳng ra thơ, vần một nơi, ý một nẻo, có đọc chỉ
thêm bực mình !
Chị cố gỡ gạc, giải thích:
- Cũng tuỳ chứ chị. Em thấy thơ của nhà thơ Phong Trần có hồn lắm…
Bà kỹ sư vẫn chua ngoa:
- Ở Mỹ người ta ai cũng lo đi cày để kiếm tiền, đa số những đứa dở hơi mới rảnh để làm thơ đăng báo.
Rồi bà hùng hồn chỉ trích:
- Báo chí ở Mỹ ai làm chả được! Trước kia ở
Việt nam, là một anh thợ mổ thịt heo hay đạp xe 3 bánh, sang đây cũng có thể
làm chủ báo ngon lành, bài vở lên internet lấy xuống, hay dịch vớ vẩn từ báo Mỹ.
Lại thêm có những đứa dở hơi như nhà thơ Phong Trần nào đó, cặm cụi, bỏ thì giờ,
sáng tác thơ văn, gởi về đóng góp cho tờ báo.
Chắc bà kỹ sư ngày xưa thất tình một anh nhà báo, nên mới cay cú thậm tệ giới này? Làm một tờ báo ít nhiều cũng phải có kiến thức hay năng khiếu về báo chí, văn thơ, và nhất là lòng yêu nghề thì tờ báo mới sống còn. Chị chẳng hơi đâu tranh luận vấn đề này làm gì !
Chị buồn quá, thế là từ thành phần lao động đến trí thức, không ai biết đến nhà thơ Phong Trần của chị cả, nói gì đến tên chị, đứng khiêm nhường, bé nhỏ dưới mỗi bài thơ của anh? Thì thôi, mình chị đọc thơ anh, mình chị hãnh diện vậy.
Mối tình thơ của hai người kéo dài được hơn hai chục số báo, và mấy chục lá thư qua đường bưu điện, thì họ bắt đầu hẹn để nhìn mặt nhau cho thoả lòng thương trộm nhớ thầm. Chị đã e ấp nhìn anh :
- Anh ơi,tại sao anh lấy bút hiệu Phong Trần, nghe lãng mạn và bụi đời thế?
Anh trả lời thản nhiên:
- Có gì đâu, tên anh là Trần văn Phong !
Thì ra thế! tên anh Trần văn Phong viết ngược theo kiểu Mỹ thành Phong Trần, vô tình trở nên lãng mạn,rất thích hợp cho một người làm thơ như anh. Chứ anh có phải cất công suy nghĩ cho cái bút hiệu của mình đâu !
Chị không đẹp lắm, độc thân và trinh nguyên nhưng hơi cứng tuổi, còn anh, hơn chị đúng 10 tuổi, đã một đời vợ, li dị, hai con theo mẹ, cho nên mấy năm nay anh trở thành người đàn ông độc thân, đi về một bóng, anh mong có một người đàn bà cho căn nhà ấm lên, cho lòng anh đỡ trống trải.
Thế là họ không có gì để chê nhau cả, mối tình thơ đã đi đến đoạn kết mong muốn: Họ cưới nhau.
Chị lấy anh vì sau 3 năm sống ở Mỹ, chị biết rằng khó có thể kiếm một tấm chồng bằng cấp Bác sĩ, kỹ sư, khi tuổi chị đã xế chiều và nhan sắc chẳng có gì đáng nhớ. Như món hàng ế ẩm, muốn bán được, cần phải hạ giá đến đại hạ giá. Chị đã “on sale” cuộc đời chị, lấy một người chồng chẳng những đã không bằng cấp mà còn có một quá khứ lòng thòng vợ con, dù anh hết tình hết nghĩa với người vợ, nhưng hai đứa con, chắc vẫn đậu lại trong lòng anh nỗi thương nhớ xót xa? Trái tim anh có yêu chị cách mấy, đôi khi cũng tạm ngừng nghỉ để quay về với hai con. Chị cũng đành thôi, ở đời có gì tuyệt đối đâu?
Khi đọc một bài thơ, không nhìn thấy tác giả, bài thơ hay sẽ làm rung cảm lòng người, nhưng khi nhìn thấy tác giả thì những rung cảm ấy sẽ giảm đi một ít, và nếu sống cùng một nhà với tác giả, thì bài thơ bỗng trần trụi như đời thường của người đã sáng tác ra nó.
Những ngày, những tháng trôi qua, chị không còn thấy thơ anh hay nữa, dù mỗi khi đăng báo, anh vẫn đề tặng tên chị, và chị đã ngạc nhiên, không hiểu sao chị lại thay đổi nhanh chóng thế?
Nhà thơ Phong Trần mà chị ngưỡng mộ và yêu mến ngày nào, bây giờ là một thằng đàn ông suốt ngày cởi trần trùng trục vào mùa Hè, anh mặc duy nhất cái quần đùi, đôi vai anh gầy, nhô lên, tưởng gió cũng có thể lung lay, vậy mà trước kia anh đã làm bài thơ với câu: “Đôi vai anh sẽ là nơi em tựa”. Thơ chỉ là bịa đặt, chẳng thực tế với người.
Anh thường ngồi ở ghế, hai chân thô lỗ gác lên bàn, vừa nhâm nhi ly trà nóng vừa sáng tác thơ, trong khi ngoài bếp, chị đang nấu nướng, dao thớt khua lên, chảo mỡ kêu ì xèo. Và trong phòng thì thằng cu Tí bé bỏng của hai người đang nằm o oe chơi một mình, nhưng khi nó khóc ré lên, chính anh là người phải vội vàng hạ chân xuống bàn, cắt đứt dòng tư tưởng đang tuôn ra, để chạy lại tủ lạnh.lấy bình sữa, nhét vô miệng thằng con, hoặc tệ hại hơn, anh phải thay diaper cho nó, mất nhiều thời gian hơn, xong việc thì ý thơ cũng bay xa.Tác phẩm bằng xương bằng thịt, đã hại tác phẩm tinh thần của anh.
Có lần, anh ngồi lì để viết cho xong một ý thơ, không chạy ra đáp ứng ngay tiếng khóc của thằng Cu Tí, thì vợ anh đã lớn tiếng:
-Không ra mà lo cho nó đi! Thơ với thẩn, để thằng nhỏ… chết đói bây giờ.
Anh tức giận nhìn “nàng thơ”của anh, người đã từng dịu dàng, âu yếm đi vào những bài thơ của anh, bây giờ hiện nguyên hình là một con mẹ khô cằn sỏi đá, đầu óc lúc nào cũng toan tính đến chuyện thực tế, đói no, bạc tiền. Trước chị ngưỡng mộ anh, coi thơ anh là hương hoa trong cuộc sống, bây giờ những hương hoa ấy đã bay đi, đã trở thành những món phụ tùng không cần thiết.
Một buổi sáng thức dậy, trời chuyển gió lạnh, lòng anh bỗng vu vơ cảm xúc yêu
thương khi nhìn ra ngoài trời những chùm lá cây đẩy đưa trong gió. Anh thèm được rủ chị cùng anh đi sóng đôi trong cái không gian lạnh lẽo ấy để tìm hơi ấm của lòng nhau. Anh phấn khởi hỏi chị:
- Em ơi, ngoài kia đang gió lạnh. Em có biết anh đang mơ ước gì không?
Chị đáp sỗ sàng:
- Mơ ước có một tô phở nóng hổi với đầy đủ tương ớt, ngò gai, húng quế ngay trước mặt để ăn cho ấm người chứ gì? Hôm nay tôi không có rảnh mà hầm xương nấu phở cho anh đâu !
Trời ơi! Khi không mà anh thấy lạnh cả lòng, lạnh hơn cả những chùm lá trên cây đang run lên vì gió lạnh ngoài kia.
Nhưng cũng chưa lạnh, chưa đau bằng những bài thơ anh đang viết dở dang, những ý thơ chợt đến, anh đã ghi vội trên tờ giấy để trên bàn đã bị chị “clean up” vứt vô
thùng rác thẳng tay, không một thắc mắc. Anh tiếc đứt ruột, trách chị, thì chị nghênh mặt lên, đe doạ:
-Quý hoá gì? Thơ với thẩn viết lung tung rác cả nhà. Lần sau anh còn để bừa bộn tôi giục thùng rác nữa đó.
Anh đành ngậm ngùi ra… moi thùng rác tìm lại mảnh giấy thơ lẫn lộn với những tã dơ của Cu Tí, và những thứ rác rưới khác. Chị đâu biết rằng một cảm xúc nào đó đã qua rồi đâu dễ gì tìm lại được nếu không ghi vội trên những mảnh giấy kia.
Thỉnh thoảng anh gọi phone thăm hai đứa con của đời vợ trước, một đứa đã lớn, một đứa còn đang học high school, thương con,anh muốn gởi cho nó một hai trăm làm quà, “Nàng thơ” của anh đã trề môi mai mỉa:
- Lương công nhân có là bao, mà hứa hẹn cho nó tiền? Hãy làm bài thơ tặng nó cho có tình nghĩa… Thế mới là vô giá.
Anh đau xót và tủi quá, chẳng lẽ lại cãi nhau, lại li dị? Cuộc đời đâu có đủ dài
cho con người, để họ thử thách lấy nhau, bỏ nhau, như trò chơi trẻ con, thích
đó, rồi lại chán chê, muốn bỏ?
Anh vẫn đi làm công nhân và vợ anh đi làm ở shop may, thằng Cu Tí đem gởi bà ngoại chiều tối mới mang về.Vợ anh đang chạy đua với thời gian, chị sang Mỹ muộn, lấy chồng muộn, và có con muộn, nên muốn làm gấp rút, kiếm nhiều tiền để mua nhà như người ta, ở nhà thuê, trả tiền tháng nào là mất luôn tháng đó. Ước mơ bình thường thế mà trời cũng không để yên. Anh bị lay off, anh không có tội gì cả,
hãng không có việc nên phải giảm bớt nhân viên. Vậy mà chị đổ tội cho anh:
-Sao bao nhiêu người, hãng không lay off mà lại là anh? Chắc tại anh mải nghĩ
thơ nghĩ thẩn, làm không được việc, nên họ đuổi cho bõ ghét chứ gì?
Anh làm ngơ, chấp chi con đàn bà nông cạn! Anh lo đi làm giấy tờ xin hưởng tiền thất nghiệp, rồi thủng thỉnh xin việc làm sau, nhân lúc rảnh rỗi bất đắc dĩ này, anh
nghỉ ngơi và làm thơ. Cuộc đời là thế, ngay cả khi hoạn nạn, cay đắng cũng có thể thành thơ. Nhưng con vợ, không để anh yên, chị đi ra, đi vào, lườm nguýt, thấy anh vẫn cầm bút, vùi đầu vào trang giấy, chị chịu không nổi, ghé mắt vào sinh sự:
- Anh cười dù thật lòng chẳng muốn cười:
- Làm thơ !
Chị kêu lên, như chưa từng thấy anh làm thơ bao giờ:
-Trời ơi, không lo viết đơn xin việc mà còn ngồi làm thơ? Thơ có ăn được không?
Có đổi ra tiền để đi chợ hay trả bill được không?
Anh kiên nhẫn:
- Tất nhiên là không! Nhưng nó cho anh một niềm vui…
“Nàng thơ” ngày nào của anh lồng lộn lên:
- Anh sống không có… lập trường như thế à?, phải đối diện với thực tế, phải đi tìm việc làm chứ.
Rồi chị nghẹn ngào như một người vợ đau khổ khi bị chồng phụ rẫy:
- Bây giờ tôi mới hiểu lời của chị kỹ sư, bạn của anh tôi, chị ấy nói “Mấy đứa
làm thơ toàn là mấy đứa dở hơi, sống trên mây…”
- Em cứ làm như nếu anh không đi làm thì vợ con chết đói ngay ấy. Ở Mỹ, chuyện
lay off thất nghiệp, đến với tất cả mọi người, bất cứ lúc nào, việc gì em phải
đau khổ thế? rồi anh cũng sẽ xin được việc làm khác thôi, nhưng trong lúc rảnh
rỗi, anh vẫn có quyền mơ mộng, làm thơ. Thơ đến với anh những lúc hạnh phúc và
cả khi thất vọng, khổ đau…
Nhìn vẻ mặt nghiêm trang của anh, nhìn đôi mắt anh ngời sáng long lanh đang nhìn thẳng vào mắt chị với sự phản kháng âm thầm, chị bỗng thấy… khớp không dám làm ầm ĩ thêm nữa. Chị chợt nhớ đã mấy lần mẹ chị khuyên chị rằng: “ Mày có thằng chồng hiền lành, thương vợ thương con là tốt phước rồi, đừng hiếp đáp nó, con chó bị dồn đến nước cùng cũng quay đầu lại cắn chủ. Nó mà tức giận quá, mất khôn, nó li dị, thì mày chỉ có nước ôm con nuôi tới già. Còn nó, nếu ham vui như người ta, về Việt Nam lấy vợ trẻ, vợ đẹp thiếu gì”.
Cho nên chị không dám quát tháo thêm nữa, chị đành bỏ đi làm việc khác sau khi đã quẳng lại cho nhà thơ một cái nguýt mắt đầy đanh đá.
Một mình anh ngồi lại, giận vợ nhưng cũng thương vợ, đàn bà thường thực tế và nông cạn như thế. Anh hiểu, cái tình yêu thơ mộng mới ngày nào, đã thay thế bằng những lo âu, toan tính trong cuộc sống, chị quá lo cho gia đình, cho tương lai của
con, chị sợ tuổi đời của cả hai người không đủ dài để làm nên cơ nghiệp như chị
mong muốn.
Trên tờ báo hàng tuần vẫn tiếp tục đăng thơ anh, thơ anh vẫn tình tứ, vẫn ướt át, nhưng nếu người ta để ý, thì dưới mỗi bài thơ, anh không còn ghi lời tặng cho chị nữa.
Mục tiêu của đời chị là có tiền để mua nhà, để dành lo cho tương lai thằng Cu Tí,
làm đến cả đời chưa chắc xong. Nên chị cần quái gì điều đó, cái tên chị có dính
trên báo cũng chả làm túi tiền chị tăng thêm một xu nào!
Những bài thơ của anh đã trở thành vô nghĩa, và mối tình thơ của chị đã chết tự lúc
nào.
Nguyễn thị Thanh Dương