1
– Tên do địa hình, địa thế:
Bắt
đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, tỉnh Bến Tre:
“Gió
đưa gió đẩy,
về
rẫy ăn còng,
về
bưng ăn cá,
về
giồng ăn dưa…”
Giồng
là
chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất nhà ở và trồng rau, đậu, khoai củ
cùng một số loại cây ăn trái. Bởi vậy nên mới có bài hát: “trên đất giồng mình
trồng khoai lang…”
Một
con giồng có thể bao gồm một hay nhiều xã. Ở Bến Tre, Giồng Trôm đã trở thành
tên của một quận (huyện).
Lại
nhắc đến một câu hát khác:
“Ai
dzìa Giồng Dứa qua truông
Gió
rung bông sậy, bỏ buồn cho em…”
Giồng
Dứa ở Mỹ Tho, khoảng từ chỗ qua khỏi ngã ba Trung Lương đến cầu Long Định, ở
bên phải quốc lộ 4 là Giồng Dứa. Sở dĩ có tên như thế vì vùng này ở hai bên bờ
sông có nhiều cây dứa. (Dứa đây không phải là loại cây có trái mà người miền
Nam gọi là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá gai dáng như lá thơm nhưng to hơn
và dày hơn, màu xanh mướt. Lá này vắt ra một thứ nước màu xanh, có mùi thơm
dùng để làm bánh, đặc biệt là bánh da lợn).
Vừa
rồi có nhắc đến truông, hồi xưa về Giồng Dứa thì phải qua truông, vậy truông là
gì?
Truông
là
đường xuyên ngang một khu rừng, lối đi có sẵn nhưng hai bên và phía trên đầu
người đi đều có thân cây và cành lá bao phủ. Ở vùng Dĩ An có truông Sim. Ở miền
Trung, thời trước có truông nhà Hồ.
“Thương
em anh cũng muốn vô
Sợ
truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”
Tại
sao lại có câu ca dao này?
Ngày
xưa truông nhà Hồ thuộc vùng Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, còn gọi là Hồ Xá Lâm.
Nơi đó địa hình trắc trở, thường có đạo tặc ẩn núp để cướp bóc nên ít người dám
qua lại.
Phá
là
lạch biển, nơi hội ngộ của các con sông trước khi đổ ra biển nên nước xoáy,
sóng nhiều thường gây nguy hiểm cho thuyền bè. Phá Tam Giang thuộc tỉnh Thừa Thiên,
phía bắc của phá Tam Giang là sông Ô Lâu đổ ra biển, phía nam là sông Hương đổ
ra cửa Thuận An.
Bàu
là
nơi đất trũng, mùa mưa nước khá sâu nhưng mùa nắng chỉ còn những vũng nước nhỏ
hay khô hẳn. Khác với đầm, vì đầm có nước quanh năm. Ở Sài Gòn, qua khỏi Ngã Tư
Bảy Hiền chừng 1 km về hướng Hóc Môn, phía bên trái có khu Bàu Cát. Bây giờ đường
xá được mở rộng, nhà cửa xây rất đẹp nhưng mùa mưa vẫn thường bị ngập nước. Ở
Long Khánh có Bàu Cá, Rạch Giá có Bàu Cò.
Đầm
chỗ
trũng có nước quanh năm, mùa mưa nước sâu hơn mùa nắng, thường là chỗ tận cùng
của một dòng nước đổ ra sông rạch hoặc chỗ một con sông lở bờ nước tràn ra hai
bên nhưng giòng nước vẫn tiếp tục con đường của nó. Ở Cà Mau có Đầm Dơi, Đầm
Cùn. Ở quận 11 Sài Gòn có Đầm Sen, bây giờ trở thành một trung tâm giải trí rất
lớn.
Bưng
từ
gốc Khmer là bâng, chỉ chỗ đất trũng giữa một cánh đồng, mùa nắng không có nước
đọng, nhưng mùa mưa thì ngập khá sâu và có các thứ lác, đưng… mọc. Mùa mưa ở
bưng thường có nhiều cá đồng.
“…về
bưng ăn cá, về giồng ăn dưa”.
Ở
Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có hai bưng là Bưng Trôm và Bưng Cốc.
Láng
chỗ
đất thấp sát bên đường nước chảy nên do nước tràn lên làm ngập nước hoặc ẩm thấp
quanh năm. Ở Đức Hòa (giữa Long An và Sài Gòn) có Láng Le, được gọi như vậy vì ở
láng này có nhiều chim le le đến kiếm ăn và đẻ. Vùng Khánh Hội (quận 4 Sài Gòn)
xưa kia được gọi là Láng Thọ vì có những chỗ ngập do nước sông Sài Gòn tràn
lên. Người Pháp phát âm Láng Thọ thành Lăng Tô, một địa danh rất phổ biến thời
Pháp thuộc.
Trảng
chỗ
trống trải vì không có cây mọc, ở giữa một khu rừng hay bên cạnh một khu rừng. Ở
Tây Ninh có Trảng Bàng, địa danh xuất phát từ một cái trảng xưa kia có nhiều cỏ
bàng vì ở vùng ven Đồng Tháp Mười. Ở Biên Hòa có Trảng Bom, Trảng Táo.
Đồng
khoảng
đất rất rộng lớn bằng phẳng, có thể gồm toàn ruộng, hoặc vừa ruộng vừa những
vùng hoang chưa khai phá. Một vùng trên đường từ Gia Định đi Thủ Đức, qua khỏi
ngã tư Bình Hòa, trước kia toàn là ruộng, gọi là Đồng Ông Cộ. Ra khỏi Sài Gòn
chừng 10 km trên đường đi Lái Thiêu có Đồng Chó Ngáp, được gọi như thế vì trước
kia là vùng đất phèn không thuận tiện cho việc cày cấy, bị bỏ hoang và rất vắng
vẻ, trống trải. Ở Củ Chi có Đồng Dù, vì đã từng dược dùng làm nơi tập nhảy dù.
Và to, rộng hơn rất nhiều là Đồng Tháp Mười.
Hố
chỗ
đất trũng, mùa nắng khô ráo nhưng mùa mưa có nơi nước lấp xấp. Ở Củ Chi có Hố
Bò, vì bò nuôi trong vùng thường đến đó ăn cỏ. Biên Hòa có Hố Nai, là nơi những
người Bắc đạo Công Giáo di cư năm 1954 đến lập nghiệp, tạo thành một khu vực sầm
uất.
2
– Tên bắt nguồn từ tiếng Khmer
Miền
Nam, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, người Việt và người Khmer sống
chung với nhau,văn hóa đã ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Điều đó biểu hiện rõ nét
qua một số địa danh. Một số nơi, tên gọi nghe qua thì rất Việt Nam nhưng lại bắt
nguồn từ tiếng Khmer; người Việt đã Việt hóa một cách tài tình.
Cần
Thơ
Khi
đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek Rusey
(sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm, người nghiên cứu chưa thể vội
vàng kết luận là Cần Thơ là một địa danh hoàn toàn Việt Nam và vội đi tìm hiểu
căn cứ ở các nghĩa có thể hiểu được của hai chữ Hán Việt “cần” và “thơ”. Cần
Thơ không phải là từ Hán Việt và không có nghĩa. Nếu dò tìm trong hướng các địa
danh Việt hóa, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ
âm của từ Khmer “kìntho”, là một loại cá hãy còn khá phổ biến ở Cần Thơ, thông
thường được gọi là cá sặc rằn, nhưng người ở Bến Tre vẫn gọi là cá “lò tho”. Từ
quan điểm vững chắc rằng “lò tho” là một danh từ được tạo thành bằng cách Việt
hóa tiếng Khmer “kìntho”,người nghiên cứu có thể sưu tầm các tài liệu về lịch sử
dân tộc, về sinh hoạt của người Khmer xa xưa trong địa phương này, rồi đi đến kết
luận là địa danh Cần Thơ xuất phát từ danh từ Khmer “kìntho”.
Mỹ
Tho
Trường
hợp Mỹ Tho cũng tương tự. Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn Việt Nam,
“mỹ” và “tho”, không tạo nên một ý nghĩa nào theo cách hiểu trong tiếng Việt.
Những tài liệu thích ứng về lịch sử và sinh hoạt của người Khmer trong vùng thời
xa xưa đã xác định địa phương này có lúc đã được gọi là “Srock Mỳ Xó” (xứ nàng
trắng). Mình gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ Srock,chỉ còn giữ lại Mỳ Xó thôi.
Sóc
Trăng
Theo
cố học giả Vương Hồng Sển, đúng ra phải gọi là Sốc Trăng. Sốc Trăng xuất phát từ
tiếng Khmer “Srock Khléang”. Srock có nghĩa là xứ, cõi. Khléang là kho chứa
vàng bạc của vua. Srock Khléang là xứ có kho vàng bạc nhà vua. Trước kia người
Việt viết là Sốc Kha Lăng, sau nữa biến thành Sốc Trăng.Tên Sốc Trăng đã có những
lần bị biến đổi hoàn toàn. Thời Minh Mạng, đã đổi lại là Nguyệt Giang tỉnh, có
nghĩa là sông trăng (sốc thành sông, tiếng Hán Việt là giang; trăng là nguyệt).
Đến thời ông Diệm, lại gọi là tỉnh Ba Xuyên,châu thành Khánh Hưng. Bây giờ trở
lại là Sóc Trăng.
Bãi
Xàu
Bãi
Xàu là tên một quận thuộc tỉnh Sóc Trăng. Đây là một quận ven biển nên có một số
người vội quyết đoán, cho rằng đây là một trường hợp sai chính tả, phải gọi là
Bãi Sau mới đúng. Thật ra, tuy là một vùng bờ biển nhưng Bãi Xàu không có nghĩa
là bãi nào cả. Nó xuất phát từ tiếng Khmer “bai xao” có nghĩa là cơm sống. Theo
truyền thuyết của dân địa phương, có địa danh này là vì nơi đây ngày trước, một
lực lượng quân Khmer chống lại nhà Nguyễn đã phải ăn cơm chưa chín để chạy khi
bị truy đuổi.
Kế
Sách
Kế
Sách cũng là một quận của Sóc Trăng. Kế Sách nằm ở gần cửa Ba Thắc (một cửa của
sông Cửu Long), phần lớn đất đai là cát do phù sa sông Hậu, rất thích hợp cho
việc trồng dừa và mía. Cát tiếng Khmer là K’sach, như vậy Kế Sách là sự Việt
hóa tiếng Khmer “k’sach”.
Một
số địa danh khác:
Cái
Răng (thuộc Cần Thơ) là sự Việt hóa của “k’ran”, tức cà ràn, là một loại bếp lò
nấu bằng củi, có thể trước kia đây là vùng sản xuất hoặc bán cà ràn.
Trà
Vinh xuất phát từ “prha trapenh” có nghĩa là ao linh thiêng.
Sông
Trà Cuông ở Sóc Trăng do tiếng Khmer “Prek Trakum”, là sông rau muống (trakum
là rau muống).
Sa
Đéc xuất phát từ “Phsar Dek”, phsar là chợ, dek là sắt.
Tha
La, một địa danh nổi tiếng ở Tây Ninh (Tha La xóm đạo), do tiếng Khmer “srala”,
là nhà nghỉ ngơi, tu dưỡng của tu sĩ Phật giáo.
Cà
Mau là sự Việt hóa của tiếng Khmer “Tưck Khmau”, có nghĩa là nước đen.
3
– Địa danh do công dụng của một địa điểm hay do một khu vực sinh sống làm ăn.
Đây
là trường hợp phổ biến nhất trong các địa danh. Theo thói quen, khi muốn hướng
dẫn hay diễn tả một nơi chốn nào đó mà thuở ban đầu chưa có tên gọi,người ta
thường hay mượn một điểm nào khá phổ biến của nơi đó, như cái chợ cái cầu và
thêm vào một vào đặc tính nữa của cái chợ cái cầu đó; lâu ngày rồi thành tên,
có khi bao trùm cả một vùng rộng lớn hơn vị trí ban đầu.
Chợ
Phổ
biến nhất của các địa danh về chợ là chợ cũ, chợ mới, xuất hiện ở rất nhiều
nơi. Sài Gòn có một khu Chợ Cũ ở đường Hàm Nghi đã trở thành một địa danh quen
thuộc. Chợ Mới cũng trở thành tên của một quận trong tỉnh An Giang. Kế bên Sài
Gòn là Chợ Lớn, xa hơn chút nữa là Chợ Nhỏ ở Thủ Đức. Địa danh về chợ còn được
phân biệt như sau:
–
Theo loại hàng được bán nhiều nhất ở chợ đó từ lúc mới có chợ, như: Chợ Gạo ở Mỹ
Tho, Chợ Búng (đáng lý là Bún) ở Lái Thiêu, Chợ Đệm ở Long An, Chợ Đũi ở Sài
Gòn.
–
Theo tên người sáng lập chợ hay chủ chợ (độc quyền thu thuế chợ), như: chợ Bà
Chiểu, chợ Bà Hom, chợ Bà Quẹo , chợ Bà Rịa.
–
Theo vị trí của chợ, như: chợ Giữa ở Mỹ Tho, chợ Cầu (vì gần một cây cầu sắt) ở
Gò Vấp, chợ Cầu Ông Lãnh ở Sài Gòn.
Xóm
là
một từ để phân biệt một khu vực trong làng hay một địa phương lớn hơn, về mục
tiêu sản xuất, thương mại hay chỉ đơn thuần về vị trí.
Đơn
thuần về vị trí, trong một làng chẳng hạn, có Xóm Trên, Xóm Dưới, Xóm Trong,
Xóm Ngoài, Xóm Chùa, Xóm Đình…
Về
các mục tiêu sản xuất và thương mại, ngày nay cách phân biệt các xóm chỉ còn ở
nông thôn mà không còn phổ biến ở thành thị.
Những
địa danh còn sót lại về xóm ở khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn: vùng phụ cận chợ Bà Chiểu
có Xóm Giá, Xóm Gà. Gò Vấp có Xóm Thơm. Quận 4 có Xóm Chiếu. Chợ Lớn có Xóm
Than, Xóm Củi, Xóm Vôi, Xóm Trĩ (Trĩ là những nhánh cây hay thân cây suôn sẻ to
cỡ bằng ngón chân cái, dài chừng 2 mét, dùng để làm rào, làm lưới hay làm bủa để
nuôi tằm).
Thủ
là
danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông, vì khá phổ biến thời trước
nên “thủ” đã đi vào một số địa danh hiện nay hãy còn thông dụng, như: Thủ Đức,
Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài Gòn), Thủ Thừa (Long An), Thủ Dầu Một (Bình Dương). Đức,
Thiêm, Ngữ, Thừa có lẽ là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này
và đã giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đã được người dân gắn liền với nơi làm
việc của họ. Còn Thủ Dầu Một thì ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi.
Bến
ban
đầu là chỗ có đủ điều kiện thuận tiện cho thuyền ghe ghé vào bờ hoặc đậu lại do
yêu cầu chuyên chở, lên xuống hàng. Sau này nghĩa rộng ra cho cả xe đò,xe hàng,
xe lam…
Cũng
như chợ, bến thường được phân biệt và đặt tên theo các loại hàng được cất lên
nhiều nhất. Một số tên bến đặt theo cách này đã trở thành tên riêng của một số
địa phương, như: Bến Cỏ, Bến Súc, Bến Củi ở Bình Dương. Bến Đá ở Thủ Đức, Bến Gỗ
ở Biên Hòa.
Ngoài
ra bến cũng còn có thể được đặt tên theo một đặc điểm nào ở đó, như một loại
cây, cỏ nào mọc nhiều ở đó, và cũng trở thành tên của một địa phương, như:
Bến
Tranh ở Mỹ Tho, Bến Lức ở Long An (đáng lý là lứt, là một loại cây nhỏ lá nhỏ,
rễ dùng làm thuốc, đông y gọi là sài hồ).
4
– Một số trường hợp khác
Có
một số địa danh được hình thành do vị trí liên hệ đến giao thông, như ngã năm,
ngã bảy, cầu, rạch… thêm vào đặc điểm của vị trí đó, hoặc tên riêng của một
nhân vật có tiếng ở tại vị trí đó. Ở Sài Gòn có rất nhiều địa danh được hình
thành theo cách này: Ngã Tư Bảy Hiền, Ngã Năm Chuồng Chó, Ngã Ba Ông Tạ… Ở Trà
Vinh có Cầu Ngang đã trở thành tên của một quận. Trường hợp hình thành của địa
danh Nhà Bè khá đặc biệt, đó là vị trí ngã ba sông, nơi gặp nhau của 2 con sông
Đồng Nai và Bến Nghé trước khi nhập lại thành sông Lòng Tảo. Lúc ròng, nước của
hai con sông đổ ra rất mạnh thuyền bè không thể đi được, phải đậu lại đợi con
nước lớn để nương theo sức nước mà về theo hai hướng Gia Định hoặc Đồng Nai.
“Nhà
Bè nước chảy chia hai,
Ai
về Gia Định, Đồng Nai thì về.”
Tương
truyền có ông Thủ Huồng là một viên chức cai quản “thủ” ở vùng đó, tham nhũng nổi
tiếng. Có lần nằm mơ thấy cảnh mình chết bị xuống âm phủ phải đền trả những tội
lỗi khi còn sống. Sau đó ông từ chức và bắt đầu làm phúc bố thí rất nhiều; một
trong những việc làm phúc của ông là làm một cái bè lớn ở giữa sông trên đó làm
nhà, để sẵn những lu nước và củi lửa. Những ghe thuyền đợi nước lớn có thể cặp
đó lên bè để nấu cơm và nghỉ ngơi. Địa danh Nhà Bè bắt nguồn từ đó.
Kết
Miền
Nam là đất mới đối với người Việt Nam, những địa danh chỉ mới được hình thành
trong vài thế kỷ trở lại đây nên những nhà nghiên cứu còn có thể truy nguyên ra
nguồn gốc và ghi chép lại để lưu truyền. Cho đến nay thì rất nhiều địa danh chỉ
còn lại cái tên mà ý nghĩa hoặc dấu vết nguyên thủy đã biến mất theo thời gian.
Thí dụ, Chợ Quán ở đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn, bây giờ chỉ biết có khu Chợ
Quán, nhà thờ Chợ Quán, nhà thương Chợ Quán… chứ còn cái chợ có cái quán đố ai
mà tìm cho ra được. Hoặc Chợ Đũi (có một số người tưởng lầm là Chợ Đuổi vì người
buôn bán hay bị nhân viên công lực rượt đuổi) ban đầu chuyên bán đũi, là một thứ
hàng dày dệt bằng tơ lớn sợi, bây giờ mặt hàng đó đã biến mất nhưng địa danh
thì vẫn còn. Ngoài ra, đất Sài Gòn xưa sông rạch nhiều nên có nhiều cầu, sau
này thành phố được xây dựng một số sông rạch bị lấp đi, cầu biến mất, nhưng người
dân vẫn còn dùng tên cây cầu cũ ở nơi đó để gọi khu đó, như khu Cầu Muối. Và
cũng có một số địa danh do phát âm sai nên ý nghĩa ban đầu đã bị biến đổi nhưng
người ta đã quen với cái tên được phát âm sai đó nên khi ghi chép lại, vẫn giữ
cái tên đã được đa số chấp nhận, như Bến Lức, chợ Búng (Lứt là tên đúng lúc ban
đầu, vì nơi đó có nhiều cây lứt; còn chợ Búng nguyên thủy chỉ bán mặt hàng bún,
sau này bán đủ mặt hàng và cái tên được viết khác đi).
Ps:
Bài viết này được hình thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả
miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức
Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa
phương trên quê hương mình.
Sưu
tầm.
TRẠM XE LỬA MỸ THO .
Kể chuyện đời xưa
Năm 1968 -1971 Ba tôi chạy xe lam bến Saigon
An Đông Cây Gõ , bến Cây Gõ thì đậu ngang hông trường tiểu học Minh Phụng gần
góc góc đường Minh Phụng - Hồng Bàng hay Lục Tỉnh gì đó , thời đó còn gọi là
bùng binh Cây Gõ, giữa bùng binh có gắn tượng đài ông Lê Lợi ,Còn bến xe ở chợ
Saigon thì đậu trước dãy nhà sách đối diện cây xăng nằm trong khuôn viên trạm
xe bus Saigon. Thời đó bến xe lam Saigon An Đông Cây Gõ là bến xe rất có giá vì
An Đông ngày trước là bến xe đò đi về Miền Tây, thời đó người ta biết bến xe An
Đông nhiều hơn là chợ An Đông .Ba tôi chạy cho đến khi chính phủ chỉnh trang đô
thị bằng cách 4 tài xe lam được hùn nhau mua 1 xe bus, ai không có khả năng thì
bán lại tài giữ xe nghe nói cái giá cũng hời theo đúng giá trị buôn bán thị trường,
chớ không o ép, tôi nhớ xe ba tôi mang bảng số EF.3675 bảng số hông là S.1196.
Và khi đổi qua xe bus được mang tên là Saigon Bình Thới! Ngay bến xe Cây Gõ
ngày xưa chỉ còn là trạm dừng xe bus để cho khách lên xuống ....
Khi đi ngang ngã tư Tổng Đốc Phương (Châu Văn
Liêm) Thuận Kiều Hồng Bàng ,thì bắt gặp một khoảng đất trống khá rộng, nằm ngay
góc ngã tư phía Thuận Kiều - Hồng Bàng ,được bao bọc bởi một bức tường gạch, quét
vôi màu vàng sậm, cao chừng hơn 2m. Cặp sát bên trong vách tường, là một đường
rầy xe lửa. Phía sâu bên trong cạnh thủy đài nước ngày nay còn sót lại, là một
căn nhà lợp ngói đỏ, tường sơn màu vàng ,cũng vừa vừa chớ không to, không nhỏ.
Mỗi lượt xe chạy ngang, thì vẫn thấy cửa đóng im lìm. Ba tôi nói đó là trạm xe
lửa Mỹ Tho. Phía bên trong không biết có ai ở hay không thì cũng không rõ.
Nhưng không có thấy cỏ mọc um tùm, chắc là cũng có người chăm sóc thường xuyên
.
Phía dưới cổng xe lửa hướng về miền Tây, có một
dãy nhà tường liên kế nhà cấp 4 ( theo qui định bây giờ) quét vôi màu trắng, cất
như dạng nhà cư xá cho công chức ngày xưa, ngay trước hàng hiên mỗi nhà đều có
một cái sân, sâu vô chừng 5 đến 6 mét, phía trên trước hàng hiên mỗi nhà đều có
trồng bông hoa loại dây leo như bông giấy, thiên lý .v.v... trông rất mát mẻ và
trang nhã, nên thơ. Tôi nhớ khu này nhiều nhất,là bởi vì trong những buổi trưa
mùa hè oi bức, thì bất chợt có một người đàn ông, tóc hớt cao khoảng ngoài 40
tuổi, nom vẻ sang trọng thường loã thể trần truồng như nhộng, rinh một tấm bảng
đen ghi bằng phấn trắng, mà toàn là tiếng Anh hay tiếng Pháp gì đó, tôi còn nhỏ
chưa rành nên không phân biệt được là tiếng gì? chỉ biết là không phải tiếng Việt,
những lúc như vậy thì thỉnh thoảng tôi thấy một người phụ nữ Âu Châu ra xí xô,
xí xào gì đó thì người đàn ông mặc dù ngây dại, vì tâm thần điên loạn, nhưng vẫn
biết nghe lời người phụ nữ Âu Châu nói trên, khi người phụ nữ nầy dìu người đàn
ông vô dãy nhà nói trên .
Thời gian nầy tôi nhìn thấy đường rầy xe lửa
dọc theo đường Hồng Bàng đoạn bảo sanh viện Hùng Vương đến trước công viên Văn
Lang. Mà ngay bên kia góc đường là có một dinh thự lúc nào cũng có lính canh
gác nghe nói đó là tư dinh của đại tướng Cao Văn Viên đối diện xéo xéo một chút
nằm trên đường Ngô Quyền là một cái bót cảnh sát nghe nói là nơi để giam giữ
sàng lọc tù chính trị, đó là bót cảnh sát Ngô Quyền Cái đường sắt nầy nó ăn ra
tới đường Hùng Vương Q5 băng ngang trước mặt tượng đài người lính CSQG rồi vượt
qua đường Phạm Viết Chánh xuyên ngang hông bịnh viện Từ Dũ để ra ga xe lửa
Saigon. Có nhiều chổ bị che khuất bị công trình khác che kín. Nhưng rõ nhất là
trước nhà thờ Công viên Văn Lang là còn lộ lên đường rầy xe lửa Riêng đường
Hùng Vương từ ngã sáu Cộng Hoà trở vô tới tiệm hủ tíu Nam Vang.
Bánh bao Ông Cả Cần của bà Năm Sa Đéc là còn
nguyên một khoảng trống trước vỉa hè là lộ giới dành riêng cho đường rầy xe lửa
Mỹ Tho khi xưa.
Tuyến đường sắt xe lửa Mỹ Tho ngừng hẳn khi
nào thì tôi không rõ, nhưng từ khi tôi đi theo xe ba tôi từ năm 1966 thì không
thấy xe lửa chạy trên đường này.
Mỗi khi xe đậu bến Saigon bến xe, ngang bến
điều hành xe buýt Saigon, thì thỉnh thoảng tôi thấy xe lửa chạy từ trong ga
Saigon ra đường Hàm Nghi, chạy thẳng ra bến Bạch Đằng, tôi có hỏi ba tôi, thì Ba
nói đó là xe lửa Biên Hoà.
Nhà ga xe lửa Saigon khi xưa nằm cạnh đường
Lê Lai đối diện công trường Quách thị Trang. Ga xe lửa Saigon tồn tại đến sau
năm 1975, đến đầu thập niên 1980 mới dời về ga hàng hoá Hoà Hưng. Và biến ga nầy
thành nhà ga Saigon. Còn vị trí ga Saigon ngày xưa và nguyên một dãy nhà dọc
theo đường Phạm Ngũ Lão giờ là công viên 23-09 ...
Sau này mãi đến khoảng thời gian năm 71-73
tôi xem báo Tia Sáng, thì mới được biết người đàn ông điên loạn vì thời cuộc đảo
điên, là cựu Trung Tướng VNCH Dương Văn Đức, còn bà đầm nói trên là vợ ông, một
phụ nữ công dân Tây Đức. Sau năm 1975 chắc có lẻ bà vợ ông, đã mang ông về trời
Âu để sống nốt cuộc đời còn lại ly hương nơi xứ người, không rõ là sau khi rời
nơi chôn nhau cắt rún, sống nhờ nơi quê vợ khí hậu mát mẻ, ông có vượt qua cơn
điên loạn quay cuồng vì thời thế, để trở lại người bình thường hay không thì
chưa nghe ai nhắc lại.
Toàn bộ dãy nhà công chức nói trên. Trong đó
có nhà của ông Dương Văn Đức và trạm xe lửa Cholon Mỹ Tho ngày xưa, nay là toà
nhà ba cây đèn cầy, hay là ba ngọn nến lung linh gì đó với cái tên nữa nạc, nữa
mỡ, nữa tây, nữa ta là Thuận Kiều Plaza .....với nhiều huyền thoại ly kỳ vì bị
ma quỷ ám mà không rõ thực hư như thế nào .....
20-09-2019 FB. Trần ngọc Hiếu
CÁNH DIỀU TUỔI THƠ...
Sau năm 1968 ... mỗi khi muốn thả diều là đám
tụi tôi khoảng 4-5 đứa tuổi từ 10 đến 14 tuổi, 14 tuổi thời đó ốc tiêu chớ
không bự cồ tổ chảng như bây giờ .
Sau khi tan học, về nhà cơm nước xong là vào
khoảng gần 1h trưa, hồi đó người lớn và con nít đều tin dị đoan lắm. Tầm 12 đến
1 giờ trưa gọi là đứng bóng. Vì vào giờ đó mình ra sân đứng, thì nguyên thân
hình gom lại một cục tròn vo dưới chân mình, vì mặt trời khi đó nằm phía trên
giữa đĩnh đầu .
Giờ đứng bóng kiêng kị đủ thứ, đi chơi ngoài
đường thì sợ ông bà khuất mày, khuất mặc quở phạt. Dân đi cắm câu, câu cá hay
làm vườn, làm ruộng thì nói:
- Nếu đi giờ đó rủi mà bị rắn nước cắn thì chết
ngay, vô phương cứu chửa, vì tương truyền. Rắn nước ngày xưa là chúa tể độc,
trong tất cả loài rắn. Sau nầy tu hành nên cho các loài rắn kia mượn độc với
giao kết là đến giờ đứng bóng thì phải giao trả lại, trong một giờ. Không biết
hư thực ra sao, nhưng người người đều tin sái cổ.
Đó là giờ mà đám tụi tui ngoan hiền nhất là
chỉ ru rú ở nhà. Nhưng đến mùa thả diều thì đó cũng là lúc tụi tôi bày đồ ra
làm diều để xế trưa một chút là đi thả.
Diều ngày trước làm bằng giấy tập học trò, giấy
dầu bao ciment, sang nhứt là làm bằng giấy bóng sáp, màu nhạt, một loại giấy
màu nhạt dùng để bao bìa tập học trò, thời đó thầy cô chỉ cho bao tập bằng các
loại giấy trơn không có hình ảnh gì cả, và giấy bóng sáp là loại giấy bao bìa
phổ biến, đứa nào chơi sang thì bao thêm phía ngoài một miếng plastic trắng .
Mười đứa con nít thời đó thì hết 9 đứa biết
làm diều. Muốn chơi diều thì phải nhịn ăn sáng để dành tiền mua chỉ, loại chỉ
may vá áo. Ít thì mua ống chỉ thường, bằng nhựa cở ngón tay loại chỉ mà nhà nào
cũng có trong các rổ hay hộp thiếc may vá. Đứa nào ăn tiền bầu cua hay tài xỉu
thì mua một ống chỉ to bằng gỗ, chỉ thì để thả diều, còn ống gỗ thì làm xe đẩy
lon sữa bò chơi trong tết trung thu. Làm ó thì khó hơn, chỉ mấy ông choai choai,
lớn tuổi mới làm được, ó không có đuôi nên mặt ó phải làm giấy khổ lớn, và quan
trọng là ở chổ cột dây lèo cho nó giữ thăng bằng mà không bị tuộc và cũng không
bị nhào lộn. Diều thì bay con lượn qua lượn lại giủ đuôi, còn ó thì rất đằm chỉ
nằm im lìm một chổ.
Thân diều thì chuốc cây tre hay tầm vong quá
dễ, nhưng còn vòng cung thì có khi rình rình chôm nón lá gần hư của má rồi dấu
để dành làm, vì cúng quá cũng không được , mà mềm yếu quá thì cũng không được .
Làm con diều bằng giấy sáp bao tập thì phải tốn
ít nhất 3-4 tờ giấy sáp. Vì đầu diều và lỗ tai với râu là hết một tờ. Đuôi diều
cũng hết 2 tờ .
Chừng khoảng 3 giờ chiều là cả đám kéo lên
đám ruộng trước mặt hãng sơn Huê Phát để thả diều. Từ nhà lên đến hãng sơn cũng
hơn cây số. Vì ở đây đất trống xa nhà cửa ,không có cây cối mà gió thì lại mạnh.
Nên thả không sợ bị vướng. Ngoài các con diều hoàn chỉnh, thì tụi tui còn mang
theo một số giấy màu rọc sẵn, một ít cơm nhão (cơm nguội) hoặc hộp hồ để phòng
hờ nếu gió mạnh, diều bị đảo, nhào lộn không cất lên cao được thì phải dán cho
đuôi dài thêm để giữ thăng bằng. Con diều đuôi càng dài thì khi bay càng đằm và
trên không trung đuôi diều bay phất phơ, phất phới đẹp mê hồn.
Muốn thả diều lên nhanh thì phải buông chỉ
cho dài, một đứa cầm diều, một đứa thì cắm cổ chạy, đến khi nào no căng gió thì
đứng lại, thả chỉ từ từ cho nó lên cao...
Khi diều bay tuốt trên cao, thì đám tụi tôi mới
lấy cây cắm vào khe nứt trên ruộng, rồi quấn cái lon sữa bò. Chừng đó cả đám mới
ngồi bật ngữa trên ruộng ngước mặt lên bầu trời xanh lộng gió để ngắm diều bay.
Đôi khi lấy giấy tập quấn thành vòng tròn cho nó bay trong sợi chỉ lên tuốt
trên con diều, mà hồi nhỏ tụi tôi gọi là gửi thơ lên tuốt trên trời, gửi đến
ông trăng, gửi chị Hằng Nga gửi thăm chú Cuội. Chưa kể đến việc diều của xóm nầy
câu diều của xóm khác. Mà chiến lợi phẩm là con diều và một mớ dây chỉ thu được
Nhiều khi mãi miết chơi cho đến khi trời nhá
nhem tối, có khi trời chuyển mưa, mây đen trên trời bay cuồn cuộn thiếu điều muốn
sà xuống mặt đất, chừng đó cả đám mới thất kinh hồn vía mới lo sợ, một nỗi sợ
vô hình trong tiềm thức, chỉ còn cách luyến tiếc, thiếu điều đứt ruột khi ra
tay, cắn đứt sợi chỉ cho diều băng rồi cả đám ba giò, bốn cẳng ù chạy cho lẹ về
nhà trước khi trời tối. Dù rằng phía trong hãng sơn, nguyên một toà nhà hoang
phế, ngổn ngang đổ nát vì chiến tranh năm 1968 vẫn còn nằm yên trong đó, với những
lời đồn đoán xa gần về những oan hồn tử sĩ còn lẫn khuất đâu đây. Nhưng khi ham
chơi thì đám tụi tôi quên hết, chỉ bất chợt rùng mình khi bầu trời sắp ngả bóng
về phía hướng tây báo hiệu cho hoàng hôn phủ xuống, dù thời đó con đường mòn
mang số 84/45 của đường Lý Chiêu Hoàng lâu thật lâu mới có một hai người qua lại
...chớ không phải tấp nập người ...xe như con đường Trần Văn Kiểu ngày mới hôm
nay .
Đám ruộng trước cửa hãng sơn giờ là những dãy
phố lầu, con đường đất loang lỗ ngày nào giờ đã được tráng nhựa láng o. Một khu
phố dành cho những người lắm bạc nhiều tiền, xa lạ từ khắp mọi miền đất nước tụ
về, còn đám bạn đầu tóc vàng hoe, bay mùi khét nắng, da mốc thít vì bám nước ruộng,
mùi bùn thì giờ tứ tán tha phương mỗi người một ngã, có đứa đi mãi không về, để
lại nỗi ngậm ngùi cho bạn bè cái thuở đầu xanh nhiều luyến tiếc.......
FB. Trần ngọc Hiếu.