a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Hai, 12 tháng 4, 2021

ĐIỀU THÚ VỊ VỀ NGUỒN GỐC. CÁC ĐỊA DANH Ở MIỀN NAM VIỆT NAM

 






1 – Tên do địa hình, địa thế:

Bắt đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, tỉnh Bến Tre:

“Gió đưa gió đẩy,

về rẫy ăn còng,

về bưng ăn cá,

về giồng ăn dưa…”

Giồng

là chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất nhà ở và trồng rau, đậu, khoai củ cùng một số loại cây ăn trái. Bởi vậy nên mới có bài hát: “trên đất giồng mình trồng khoai lang…”

Một con giồng có thể bao gồm một hay nhiều xã. Ở Bến Tre, Giồng Trôm đã trở thành tên của một quận (huyện).

Lại nhắc đến một câu hát khác:

“Ai dzìa Giồng Dứa qua truông

Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em…”

Giồng Dứa ở Mỹ Tho, khoảng từ chỗ qua khỏi ngã ba Trung Lương đến cầu Long Định, ở bên phải quốc lộ 4 là Giồng Dứa. Sở dĩ có tên như thế vì vùng này ở hai bên bờ sông có nhiều cây dứa. (Dứa đây không phải là loại cây có trái mà người miền Nam gọi là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá gai dáng như lá thơm nhưng to hơn và dày hơn, màu xanh mướt. Lá này vắt ra một thứ nước màu xanh, có mùi thơm dùng để làm bánh, đặc biệt là bánh da lợn).

Vừa rồi có nhắc đến truông, hồi xưa về Giồng Dứa thì phải qua truông, vậy truông là gì?

Truông

là đường xuyên ngang một khu rừng, lối đi có sẵn nhưng hai bên và phía trên đầu người đi đều có thân cây và cành lá bao phủ. Ở vùng Dĩ An có truông Sim. Ở miền Trung, thời trước có truông nhà Hồ.

“Thương em anh cũng muốn vô

Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”

Tại sao lại có câu ca dao này?

Ngày xưa truông nhà Hồ thuộc vùng Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, còn gọi là Hồ Xá Lâm. Nơi đó địa hình trắc trở, thường có đạo tặc ẩn núp để cướp bóc nên ít người dám qua lại.

Phá

là lạch biển, nơi hội ngộ của các con sông trước khi đổ ra biển nên nước xoáy, sóng nhiều thường gây nguy hiểm cho thuyền bè. Phá Tam Giang thuộc tỉnh Thừa Thiên, phía bắc của phá Tam Giang là sông Ô Lâu đổ ra biển, phía nam là sông Hương đổ ra cửa Thuận An.

Bàu

là nơi đất trũng, mùa mưa nước khá sâu nhưng mùa nắng chỉ còn những vũng nước nhỏ hay khô hẳn. Khác với đầm, vì đầm có nước quanh năm. Ở Sài Gòn, qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền chừng 1 km về hướng Hóc Môn, phía bên trái có khu Bàu Cát. Bây giờ đường xá được mở rộng, nhà cửa xây rất đẹp nhưng mùa mưa vẫn thường bị ngập nước. Ở Long Khánh có Bàu Cá, Rạch Giá có Bàu Cò.

Đầm

chỗ trũng có nước quanh năm, mùa mưa nước sâu hơn mùa nắng, thường là chỗ tận cùng của một dòng nước đổ ra sông rạch hoặc chỗ một con sông lở bờ nước tràn ra hai bên nhưng giòng nước vẫn tiếp tục con đường của nó. Ở Cà Mau có Đầm Dơi, Đầm Cùn. Ở quận 11 Sài Gòn có Đầm Sen, bây giờ trở thành một trung tâm giải trí rất lớn.

Bưng

từ gốc Khmer là bâng, chỉ chỗ đất trũng giữa một cánh đồng, mùa nắng không có nước đọng, nhưng mùa mưa thì ngập khá sâu và có các thứ lác, đưng… mọc. Mùa mưa ở bưng thường có nhiều cá đồng.

“…về bưng ăn cá, về giồng ăn dưa”.

Ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có hai bưng là Bưng Trôm và Bưng Cốc.

Láng

chỗ đất thấp sát bên đường nước chảy nên do nước tràn lên làm ngập nước hoặc ẩm thấp quanh năm. Ở Đức Hòa (giữa Long An và Sài Gòn) có Láng Le, được gọi như vậy vì ở láng này có nhiều chim le le đến kiếm ăn và đẻ. Vùng Khánh Hội (quận 4 Sài Gòn) xưa kia được gọi là Láng Thọ vì có những chỗ ngập do nước sông Sài Gòn tràn lên. Người Pháp phát âm Láng Thọ thành Lăng Tô, một địa danh rất phổ biến thời Pháp thuộc.

Trảng

chỗ trống trải vì không có cây mọc, ở giữa một khu rừng hay bên cạnh một khu rừng. Ở Tây Ninh có Trảng Bàng, địa danh xuất phát từ một cái trảng xưa kia có nhiều cỏ bàng vì ở vùng ven Đồng Tháp Mười. Ở Biên Hòa có Trảng Bom, Trảng Táo.

Đồng

khoảng đất rất rộng lớn bằng phẳng, có thể gồm toàn ruộng, hoặc vừa ruộng vừa những vùng hoang chưa khai phá. Một vùng trên đường từ Gia Định đi Thủ Đức, qua khỏi ngã tư Bình Hòa, trước kia toàn là ruộng, gọi là Đồng Ông Cộ. Ra khỏi Sài Gòn chừng 10 km trên đường đi Lái Thiêu có Đồng Chó Ngáp, được gọi như thế vì trước kia là vùng đất phèn không thuận tiện cho việc cày cấy, bị bỏ hoang và rất vắng vẻ, trống trải. Ở Củ Chi có Đồng Dù, vì đã từng dược dùng làm nơi tập nhảy dù. Và to, rộng hơn rất nhiều là Đồng Tháp Mười.

Hố

chỗ đất trũng, mùa nắng khô ráo nhưng mùa mưa có nơi nước lấp xấp. Ở Củ Chi có Hố Bò, vì bò nuôi trong vùng thường đến đó ăn cỏ. Biên Hòa có Hố Nai, là nơi những người Bắc đạo Công Giáo di cư năm 1954 đến lập nghiệp, tạo thành một khu vực sầm uất.

2 – Tên bắt nguồn từ tiếng Khmer

Miền Nam, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, người Việt và người Khmer sống chung với nhau,văn hóa đã ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Điều đó biểu hiện rõ nét qua một số địa danh. Một số nơi, tên gọi nghe qua thì rất Việt Nam nhưng lại bắt nguồn từ tiếng Khmer; người Việt đã Việt hóa một cách tài tình.

Cần Thơ

Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm, người nghiên cứu chưa thể vội vàng kết luận là Cần Thơ là một địa danh hoàn toàn Việt Nam và vội đi tìm hiểu căn cứ ở các nghĩa có thể hiểu được của hai chữ Hán Việt “cần” và “thơ”. Cần Thơ không phải là từ Hán Việt và không có nghĩa. Nếu dò tìm trong hướng các địa danh Việt hóa, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm của từ Khmer “kìntho”, là một loại cá hãy còn khá phổ biến ở Cần Thơ, thông thường được gọi là cá sặc rằn, nhưng người ở Bến Tre vẫn gọi là cá “lò tho”. Từ quan điểm vững chắc rằng “lò tho” là một danh từ được tạo thành bằng cách Việt hóa tiếng Khmer “kìntho”,người nghiên cứu có thể sưu tầm các tài liệu về lịch sử dân tộc, về sinh hoạt của người Khmer xa xưa trong địa phương này, rồi đi đến kết luận là địa danh Cần Thơ xuất phát từ danh từ Khmer “kìntho”.

Mỹ Tho

Trường hợp Mỹ Tho cũng tương tự. Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn Việt Nam, “mỹ” và “tho”, không tạo nên một ý nghĩa nào theo cách hiểu trong tiếng Việt. Những tài liệu thích ứng về lịch sử và sinh hoạt của người Khmer trong vùng thời xa xưa đã xác định địa phương này có lúc đã được gọi là “Srock Mỳ Xó” (xứ nàng trắng). Mình gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ Srock,chỉ còn giữ lại Mỳ Xó thôi.

Sóc Trăng

Theo cố học giả Vương Hồng Sển, đúng ra phải gọi là Sốc Trăng. Sốc Trăng xuất phát từ tiếng Khmer “Srock Khléang”. Srock có nghĩa là xứ, cõi. Khléang là kho chứa vàng bạc của vua. Srock Khléang là xứ có kho vàng bạc nhà vua. Trước kia người Việt viết là Sốc Kha Lăng, sau nữa biến thành Sốc Trăng.Tên Sốc Trăng đã có những lần bị biến đổi hoàn toàn. Thời Minh Mạng, đã đổi lại là Nguyệt Giang tỉnh, có nghĩa là sông trăng (sốc thành sông, tiếng Hán Việt là giang; trăng là nguyệt). Đến thời ông Diệm, lại gọi là tỉnh Ba Xuyên,châu thành Khánh Hưng. Bây giờ trở lại là Sóc Trăng.

Bãi Xàu

Bãi Xàu là tên một quận thuộc tỉnh Sóc Trăng. Đây là một quận ven biển nên có một số người vội quyết đoán, cho rằng đây là một trường hợp sai chính tả, phải gọi là Bãi Sau mới đúng. Thật ra, tuy là một vùng bờ biển nhưng Bãi Xàu không có nghĩa là bãi nào cả. Nó xuất phát từ tiếng Khmer “bai xao” có nghĩa là cơm sống. Theo truyền thuyết của dân địa phương, có địa danh này là vì nơi đây ngày trước, một lực lượng quân Khmer chống lại nhà Nguyễn đã phải ăn cơm chưa chín để chạy khi bị truy đuổi.

Kế Sách

Kế Sách cũng là một quận của Sóc Trăng. Kế Sách nằm ở gần cửa Ba Thắc (một cửa của sông Cửu Long), phần lớn đất đai là cát do phù sa sông Hậu, rất thích hợp cho việc trồng dừa và mía. Cát tiếng Khmer là K’sach, như vậy Kế Sách là sự Việt hóa tiếng Khmer “k’sach”.

Một số địa danh khác:

Cái Răng (thuộc Cần Thơ) là sự Việt hóa của “k’ran”, tức cà ràn, là một loại bếp lò nấu bằng củi, có thể trước kia đây là vùng sản xuất hoặc bán cà ràn.

Trà Vinh xuất phát từ “prha trapenh” có nghĩa là ao linh thiêng.

Sông Trà Cuông ở Sóc Trăng do tiếng Khmer “Prek Trakum”, là sông rau muống (trakum là rau muống).

Sa Đéc xuất phát từ “Phsar Dek”, phsar là chợ, dek là sắt.

Tha La, một địa danh nổi tiếng ở Tây Ninh (Tha La xóm đạo), do tiếng Khmer “srala”, là nhà nghỉ ngơi, tu dưỡng của tu sĩ Phật giáo.

Cà Mau là sự Việt hóa của tiếng Khmer “Tưck Khmau”, có nghĩa là nước đen.

3 – Địa danh do công dụng của một địa điểm hay do một khu vực sinh sống làm ăn.

Đây là trường hợp phổ biến nhất trong các địa danh. Theo thói quen, khi muốn hướng dẫn hay diễn tả một nơi chốn nào đó mà thuở ban đầu chưa có tên gọi,người ta thường hay mượn một điểm nào khá phổ biến của nơi đó, như cái chợ cái cầu và thêm vào một vào đặc tính nữa của cái chợ cái cầu đó; lâu ngày rồi thành tên, có khi bao trùm cả một vùng rộng lớn hơn vị trí ban đầu.

Chợ

Phổ biến nhất của các địa danh về chợ là chợ cũ, chợ mới, xuất hiện ở rất nhiều nơi. Sài Gòn có một khu Chợ Cũ ở đường Hàm Nghi đã trở thành một địa danh quen thuộc. Chợ Mới cũng trở thành tên của một quận trong tỉnh An Giang. Kế bên Sài Gòn là Chợ Lớn, xa hơn chút nữa là Chợ Nhỏ ở Thủ Đức. Địa danh về chợ còn được phân biệt như sau:

– Theo loại hàng được bán nhiều nhất ở chợ đó từ lúc mới có chợ, như: Chợ Gạo ở Mỹ Tho, Chợ Búng (đáng lý là Bún) ở Lái Thiêu, Chợ Đệm ở Long An, Chợ Đũi ở Sài Gòn.

– Theo tên người sáng lập chợ hay chủ chợ (độc quyền thu thuế chợ), như: chợ Bà Chiểu, chợ Bà Hom, chợ Bà Quẹo , chợ Bà Rịa.

– Theo vị trí của chợ, như: chợ Giữa ở Mỹ Tho, chợ Cầu (vì gần một cây cầu sắt) ở Gò Vấp, chợ Cầu Ông Lãnh ở Sài Gòn.

Xóm

là một từ để phân biệt một khu vực trong làng hay một địa phương lớn hơn, về mục tiêu sản xuất, thương mại hay chỉ đơn thuần về vị trí.

Đơn thuần về vị trí, trong một làng chẳng hạn, có Xóm Trên, Xóm Dưới, Xóm Trong, Xóm Ngoài, Xóm Chùa, Xóm Đình…

Về các mục tiêu sản xuất và thương mại, ngày nay cách phân biệt các xóm chỉ còn ở nông thôn mà không còn phổ biến ở thành thị.

Những địa danh còn sót lại về xóm ở khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn: vùng phụ cận chợ Bà Chiểu có Xóm Giá, Xóm Gà. Gò Vấp có Xóm Thơm. Quận 4 có Xóm Chiếu. Chợ Lớn có Xóm Than, Xóm Củi, Xóm Vôi, Xóm Trĩ (Trĩ là những nhánh cây hay thân cây suôn sẻ to cỡ bằng ngón chân cái, dài chừng 2 mét, dùng để làm rào, làm lưới hay làm bủa để nuôi tằm).

Thủ

là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông, vì khá phổ biến thời trước nên “thủ” đã đi vào một số địa danh hiện nay hãy còn thông dụng, như: Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài Gòn), Thủ Thừa (Long An), Thủ Dầu Một (Bình Dương). Đức, Thiêm, Ngữ, Thừa có lẽ là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này và đã giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đã được người dân gắn liền với nơi làm việc của họ. Còn Thủ Dầu Một thì ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi.

Bến

ban đầu là chỗ có đủ điều kiện thuận tiện cho thuyền ghe ghé vào bờ hoặc đậu lại do yêu cầu chuyên chở, lên xuống hàng. Sau này nghĩa rộng ra cho cả xe đò,xe hàng, xe lam…

Cũng như chợ, bến thường được phân biệt và đặt tên theo các loại hàng được cất lên nhiều nhất. Một số tên bến đặt theo cách này đã trở thành tên riêng của một số địa phương, như: Bến Cỏ, Bến Súc, Bến Củi ở Bình Dương. Bến Đá ở Thủ Đức, Bến Gỗ ở Biên Hòa.

Ngoài ra bến cũng còn có thể được đặt tên theo một đặc điểm nào ở đó, như một loại cây, cỏ nào mọc nhiều ở đó, và cũng trở thành tên của một địa phương, như:

Bến Tranh ở Mỹ Tho, Bến Lức ở Long An (đáng lý là lứt, là một loại cây nhỏ lá nhỏ, rễ dùng làm thuốc, đông y gọi là sài hồ).

4 – Một số trường hợp khác

Có một số địa danh được hình thành do vị trí liên hệ đến giao thông, như ngã năm, ngã bảy, cầu, rạch… thêm vào đặc điểm của vị trí đó, hoặc tên riêng của một nhân vật có tiếng ở tại vị trí đó. Ở Sài Gòn có rất nhiều địa danh được hình thành theo cách này: Ngã Tư Bảy Hiền, Ngã Năm Chuồng Chó, Ngã Ba Ông Tạ… Ở Trà Vinh có Cầu Ngang đã trở thành tên của một quận. Trường hợp hình thành của địa danh Nhà Bè khá đặc biệt, đó là vị trí ngã ba sông, nơi gặp nhau của 2 con sông Đồng Nai và Bến Nghé trước khi nhập lại thành sông Lòng Tảo. Lúc ròng, nước của hai con sông đổ ra rất mạnh thuyền bè không thể đi được, phải đậu lại đợi con nước lớn để nương theo sức nước mà về theo hai hướng Gia Định hoặc Đồng Nai.

“Nhà Bè nước chảy chia hai,

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.”

Tương truyền có ông Thủ Huồng là một viên chức cai quản “thủ” ở vùng đó, tham nhũng nổi tiếng. Có lần nằm mơ thấy cảnh mình chết bị xuống âm phủ phải đền trả những tội lỗi khi còn sống. Sau đó ông từ chức và bắt đầu làm phúc bố thí rất nhiều; một trong những việc làm phúc của ông là làm một cái bè lớn ở giữa sông trên đó làm nhà, để sẵn những lu nước và củi lửa. Những ghe thuyền đợi nước lớn có thể cặp đó lên bè để nấu cơm và nghỉ ngơi. Địa danh Nhà Bè bắt nguồn từ đó.

Kết

Miền Nam là đất mới đối với người Việt Nam, những địa danh chỉ mới được hình thành trong vài thế kỷ trở lại đây nên những nhà nghiên cứu còn có thể truy nguyên ra nguồn gốc và ghi chép lại để lưu truyền. Cho đến nay thì rất nhiều địa danh chỉ còn lại cái tên mà ý nghĩa hoặc dấu vết nguyên thủy đã biến mất theo thời gian. Thí dụ, Chợ Quán ở đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn, bây giờ chỉ biết có khu Chợ Quán, nhà thờ Chợ Quán, nhà thương Chợ Quán… chứ còn cái chợ có cái quán đố ai mà tìm cho ra được. Hoặc Chợ Đũi (có một số người tưởng lầm là Chợ Đuổi vì người buôn bán hay bị nhân viên công lực rượt đuổi) ban đầu chuyên bán đũi, là một thứ hàng dày dệt bằng tơ lớn sợi, bây giờ mặt hàng đó đã biến mất nhưng địa danh thì vẫn còn. Ngoài ra, đất Sài Gòn xưa sông rạch nhiều nên có nhiều cầu, sau này thành phố được xây dựng một số sông rạch bị lấp đi, cầu biến mất, nhưng người dân vẫn còn dùng tên cây cầu cũ ở nơi đó để gọi khu đó, như khu Cầu Muối. Và cũng có một số địa danh do phát âm sai nên ý nghĩa ban đầu đã bị biến đổi nhưng người ta đã quen với cái tên được phát âm sai đó nên khi ghi chép lại, vẫn giữ cái tên đã được đa số chấp nhận, như Bến Lức, chợ Búng (Lứt là tên đúng lúc ban đầu, vì nơi đó có nhiều cây lứt; còn chợ Búng nguyên thủy chỉ bán mặt hàng bún, sau này bán đủ mặt hàng và cái tên được viết khác đi).

Ps: Bài viết này được hình thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương mình.

Sưu tầm.



TRẠM XE LỬA MỸ THO .

Kể chuyện đời xưa

Năm 1968 -1971 Ba tôi chạy xe lam bến Saigon An Đông Cây Gõ , bến Cây Gõ thì đậu ngang hông trường tiểu học Minh Phụng gần góc góc đường Minh Phụng - Hồng Bàng hay Lục Tỉnh gì đó , thời đó còn gọi là bùng binh Cây Gõ, giữa bùng binh có gắn tượng đài ông Lê Lợi ,Còn bến xe ở chợ Saigon thì đậu trước dãy nhà sách đối diện cây xăng nằm trong khuôn viên trạm xe bus Saigon. Thời đó bến xe lam Saigon An Đông Cây Gõ là bến xe rất có giá vì An Đông ngày trước là bến xe đò đi về Miền Tây, thời đó người ta biết bến xe An Đông nhiều hơn là chợ An Đông .Ba tôi chạy cho đến khi chính phủ chỉnh trang đô thị bằng cách 4 tài xe lam được hùn nhau mua 1 xe bus, ai không có khả năng thì bán lại tài giữ xe nghe nói cái giá cũng hời theo đúng giá trị buôn bán thị trường, chớ không o ép, tôi nhớ xe ba tôi mang bảng số EF.3675 bảng số hông là S.1196. Và khi đổi qua xe bus được mang tên là Saigon Bình Thới! Ngay bến xe Cây Gõ ngày xưa chỉ còn là trạm dừng xe bus để cho khách lên xuống ....

Khi đi ngang ngã tư Tổng Đốc Phương (Châu Văn Liêm) Thuận Kiều Hồng Bàng ,thì bắt gặp một khoảng đất trống khá rộng, nằm ngay góc ngã tư phía Thuận Kiều - Hồng Bàng ,được bao bọc bởi một bức tường gạch, quét vôi màu vàng sậm, cao chừng hơn 2m. Cặp sát bên trong vách tường, là một đường rầy xe lửa. Phía sâu bên trong cạnh thủy đài nước ngày nay còn sót lại, là một căn nhà lợp ngói đỏ, tường sơn màu vàng ,cũng vừa vừa chớ không to, không nhỏ. Mỗi lượt xe chạy ngang, thì vẫn thấy cửa đóng im lìm. Ba tôi nói đó là trạm xe lửa Mỹ Tho. Phía bên trong không biết có ai ở hay không thì cũng không rõ. Nhưng không có thấy cỏ mọc um tùm, chắc là cũng có người chăm sóc thường xuyên .

Phía dưới cổng xe lửa hướng về miền Tây, có một dãy nhà tường liên kế nhà cấp 4 ( theo qui định bây giờ) quét vôi màu trắng, cất như dạng nhà cư xá cho công chức ngày xưa, ngay trước hàng hiên mỗi nhà đều có một cái sân, sâu vô chừng 5 đến 6 mét, phía trên trước hàng hiên mỗi nhà đều có trồng bông hoa loại dây leo như bông giấy, thiên lý .v.v... trông rất mát mẻ và trang nhã, nên thơ. Tôi nhớ khu này nhiều nhất,là bởi vì trong những buổi trưa mùa hè oi bức, thì bất chợt có một người đàn ông, tóc hớt cao khoảng ngoài 40 tuổi, nom vẻ sang trọng thường loã thể trần truồng như nhộng, rinh một tấm bảng đen ghi bằng phấn trắng, mà toàn là tiếng Anh hay tiếng Pháp gì đó, tôi còn nhỏ chưa rành nên không phân biệt được là tiếng gì? chỉ biết là không phải tiếng Việt, những lúc như vậy thì thỉnh thoảng tôi thấy một người phụ nữ Âu Châu ra xí xô, xí xào gì đó thì người đàn ông mặc dù ngây dại, vì tâm thần điên loạn, nhưng vẫn biết nghe lời người phụ nữ Âu Châu nói trên, khi người phụ nữ nầy dìu người đàn ông vô dãy nhà nói trên .

Thời gian nầy tôi nhìn thấy đường rầy xe lửa dọc theo đường Hồng Bàng đoạn bảo sanh viện Hùng Vương đến trước công viên Văn Lang. Mà ngay bên kia góc đường là có một dinh thự lúc nào cũng có lính canh gác nghe nói đó là tư dinh của đại tướng Cao Văn Viên đối diện xéo xéo một chút nằm trên đường Ngô Quyền là một cái bót cảnh sát nghe nói là nơi để giam giữ sàng lọc tù chính trị, đó là bót cảnh sát Ngô Quyền Cái đường sắt nầy nó ăn ra tới đường Hùng Vương Q5 băng ngang trước mặt tượng đài người lính CSQG rồi vượt qua đường Phạm Viết Chánh xuyên ngang hông bịnh viện Từ Dũ để ra ga xe lửa Saigon. Có nhiều chổ bị che khuất bị công trình khác che kín. Nhưng rõ nhất là trước nhà thờ Công viên Văn Lang là còn lộ lên đường rầy xe lửa Riêng đường Hùng Vương từ ngã sáu Cộng Hoà trở vô tới tiệm hủ tíu Nam Vang.

Bánh bao Ông Cả Cần của bà Năm Sa Đéc là còn nguyên một khoảng trống trước vỉa hè là lộ giới dành riêng cho đường rầy xe lửa Mỹ Tho khi xưa.

Tuyến đường sắt xe lửa Mỹ Tho ngừng hẳn khi nào thì tôi không rõ, nhưng từ khi tôi đi theo xe ba tôi từ năm 1966 thì không thấy xe lửa chạy trên đường này.

Mỗi khi xe đậu bến Saigon bến xe, ngang bến điều hành xe buýt Saigon, thì thỉnh thoảng tôi thấy xe lửa chạy từ trong ga Saigon ra đường Hàm Nghi, chạy thẳng ra bến Bạch Đằng, tôi có hỏi ba tôi, thì Ba nói đó là xe lửa Biên Hoà.

Nhà ga xe lửa Saigon khi xưa nằm cạnh đường Lê Lai đối diện công trường Quách thị Trang. Ga xe lửa Saigon tồn tại đến sau năm 1975, đến đầu thập niên 1980 mới dời về ga hàng hoá Hoà Hưng. Và biến ga nầy thành nhà ga Saigon. Còn vị trí ga Saigon ngày xưa và nguyên một dãy nhà dọc theo đường Phạm Ngũ Lão giờ là công viên 23-09 ...

Sau này mãi đến khoảng thời gian năm 71-73 tôi xem báo Tia Sáng, thì mới được biết người đàn ông điên loạn vì thời cuộc đảo điên, là cựu Trung Tướng VNCH Dương Văn Đức, còn bà đầm nói trên là vợ ông, một phụ nữ công dân Tây Đức. Sau năm 1975 chắc có lẻ bà vợ ông, đã mang ông về trời Âu để sống nốt cuộc đời còn lại ly hương nơi xứ người, không rõ là sau khi rời nơi chôn nhau cắt rún, sống nhờ nơi quê vợ khí hậu mát mẻ, ông có vượt qua cơn điên loạn quay cuồng vì thời thế, để trở lại người bình thường hay không thì chưa nghe ai nhắc lại.

Toàn bộ dãy nhà công chức nói trên. Trong đó có nhà của ông Dương Văn Đức và trạm xe lửa Cholon Mỹ Tho ngày xưa, nay là toà nhà ba cây đèn cầy, hay là ba ngọn nến lung linh gì đó với cái tên nữa nạc, nữa mỡ, nữa tây, nữa ta là Thuận Kiều Plaza .....với nhiều huyền thoại ly kỳ vì bị ma quỷ ám mà không rõ thực hư như thế nào .....

 

20-09-2019 FB. Trần ngọc Hiếu



 CÁNH DIỀU TUỔI THƠ...

Sau năm 1968 ... mỗi khi muốn thả diều là đám tụi tôi khoảng 4-5 đứa tuổi từ 10 đến 14 tuổi, 14 tuổi thời đó ốc tiêu chớ không bự cồ tổ chảng như bây giờ .

Sau khi tan học, về nhà cơm nước xong là vào khoảng gần 1h trưa, hồi đó người lớn và con nít đều tin dị đoan lắm. Tầm 12 đến 1 giờ trưa gọi là đứng bóng. Vì vào giờ đó mình ra sân đứng, thì nguyên thân hình gom lại một cục tròn vo dưới chân mình, vì mặt trời khi đó nằm phía trên giữa đĩnh đầu .

Giờ đứng bóng kiêng kị đủ thứ, đi chơi ngoài đường thì sợ ông bà khuất mày, khuất mặc quở phạt. Dân đi cắm câu, câu cá hay làm vườn, làm ruộng thì nói:

- Nếu đi giờ đó rủi mà bị rắn nước cắn thì chết ngay, vô phương cứu chửa, vì tương truyền. Rắn nước ngày xưa là chúa tể độc, trong tất cả loài rắn. Sau nầy tu hành nên cho các loài rắn kia mượn độc với giao kết là đến giờ đứng bóng thì phải giao trả lại, trong một giờ. Không biết hư thực ra sao, nhưng người người đều tin sái cổ.

Đó là giờ mà đám tụi tui ngoan hiền nhất là chỉ ru rú ở nhà. Nhưng đến mùa thả diều thì đó cũng là lúc tụi tôi bày đồ ra làm diều để xế trưa một chút là đi thả.

Diều ngày trước làm bằng giấy tập học trò, giấy dầu bao ciment, sang nhứt là làm bằng giấy bóng sáp, màu nhạt, một loại giấy màu nhạt dùng để bao bìa tập học trò, thời đó thầy cô chỉ cho bao tập bằng các loại giấy trơn không có hình ảnh gì cả, và giấy bóng sáp là loại giấy bao bìa phổ biến, đứa nào chơi sang thì bao thêm phía ngoài một miếng plastic trắng .

Mười đứa con nít thời đó thì hết 9 đứa biết làm diều. Muốn chơi diều thì phải nhịn ăn sáng để dành tiền mua chỉ, loại chỉ may vá áo. Ít thì mua ống chỉ thường, bằng nhựa cở ngón tay loại chỉ mà nhà nào cũng có trong các rổ hay hộp thiếc may vá. Đứa nào ăn tiền bầu cua hay tài xỉu thì mua một ống chỉ to bằng gỗ, chỉ thì để thả diều, còn ống gỗ thì làm xe đẩy lon sữa bò chơi trong tết trung thu. Làm ó thì khó hơn, chỉ mấy ông choai choai, lớn tuổi mới làm được, ó không có đuôi nên mặt ó phải làm giấy khổ lớn, và quan trọng là ở chổ cột dây lèo cho nó giữ thăng bằng mà không bị tuộc và cũng không bị nhào lộn. Diều thì bay con lượn qua lượn lại giủ đuôi, còn ó thì rất đằm chỉ nằm im lìm một chổ.

Thân diều thì chuốc cây tre hay tầm vong quá dễ, nhưng còn vòng cung thì có khi rình rình chôm nón lá gần hư của má rồi dấu để dành làm, vì cúng quá cũng không được , mà mềm yếu quá thì cũng không được .

Làm con diều bằng giấy sáp bao tập thì phải tốn ít nhất 3-4 tờ giấy sáp. Vì đầu diều và lỗ tai với râu là hết một tờ. Đuôi diều cũng hết 2 tờ .

Chừng khoảng 3 giờ chiều là cả đám kéo lên đám ruộng trước mặt hãng sơn Huê Phát để thả diều. Từ nhà lên đến hãng sơn cũng hơn cây số. Vì ở đây đất trống xa nhà cửa ,không có cây cối mà gió thì lại mạnh. Nên thả không sợ bị vướng. Ngoài các con diều hoàn chỉnh, thì tụi tui còn mang theo một số giấy màu rọc sẵn, một ít cơm nhão (cơm nguội) hoặc hộp hồ để phòng hờ nếu gió mạnh, diều bị đảo, nhào lộn không cất lên cao được thì phải dán cho đuôi dài thêm để giữ thăng bằng. Con diều đuôi càng dài thì khi bay càng đằm và trên không trung đuôi diều bay phất phơ, phất phới đẹp mê hồn.

Muốn thả diều lên nhanh thì phải buông chỉ cho dài, một đứa cầm diều, một đứa thì cắm cổ chạy, đến khi nào no căng gió thì đứng lại, thả chỉ từ từ cho nó lên cao...

Khi diều bay tuốt trên cao, thì đám tụi tôi mới lấy cây cắm vào khe nứt trên ruộng, rồi quấn cái lon sữa bò. Chừng đó cả đám mới ngồi bật ngữa trên ruộng ngước mặt lên bầu trời xanh lộng gió để ngắm diều bay. Đôi khi lấy giấy tập quấn thành vòng tròn cho nó bay trong sợi chỉ lên tuốt trên con diều, mà hồi nhỏ tụi tôi gọi là gửi thơ lên tuốt trên trời, gửi đến ông trăng, gửi chị Hằng Nga gửi thăm chú Cuội. Chưa kể đến việc diều của xóm nầy câu diều của xóm khác. Mà chiến lợi phẩm là con diều và một mớ dây chỉ thu được

Nhiều khi mãi miết chơi cho đến khi trời nhá nhem tối, có khi trời chuyển mưa, mây đen trên trời bay cuồn cuộn thiếu điều muốn sà xuống mặt đất, chừng đó cả đám mới thất kinh hồn vía mới lo sợ, một nỗi sợ vô hình trong tiềm thức, chỉ còn cách luyến tiếc, thiếu điều đứt ruột khi ra tay, cắn đứt sợi chỉ cho diều băng rồi cả đám ba giò, bốn cẳng ù chạy cho lẹ về nhà trước khi trời tối. Dù rằng phía trong hãng sơn, nguyên một toà nhà hoang phế, ngổn ngang đổ nát vì chiến tranh năm 1968 vẫn còn nằm yên trong đó, với những lời đồn đoán xa gần về những oan hồn tử sĩ còn lẫn khuất đâu đây. Nhưng khi ham chơi thì đám tụi tôi quên hết, chỉ bất chợt rùng mình khi bầu trời sắp ngả bóng về phía hướng tây báo hiệu cho hoàng hôn phủ xuống, dù thời đó con đường mòn mang số 84/45 của đường Lý Chiêu Hoàng lâu thật lâu mới có một hai người qua lại ...chớ không phải tấp nập người ...xe như con đường Trần Văn Kiểu ngày mới hôm nay .

Đám ruộng trước cửa hãng sơn giờ là những dãy phố lầu, con đường đất loang lỗ ngày nào giờ đã được tráng nhựa láng o. Một khu phố dành cho những người lắm bạc nhiều tiền, xa lạ từ khắp mọi miền đất nước tụ về, còn đám bạn đầu tóc vàng hoe, bay mùi khét nắng, da mốc thít vì bám nước ruộng, mùi bùn thì giờ tứ tán tha phương mỗi người một ngã, có đứa đi mãi không về, để lại nỗi ngậm ngùi cho bạn bè cái thuở đầu xanh nhiều luyến tiếc.......

 FB. Trần ngọc Hiếu.

Không có nhận xét nào: