a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2022

“Mẹ đẻ” củα Wifi thì ɾα là người “đẹρ nhất thế giới”

 

“Mẹ đẻ” củα Wifi thì ɾα là người “đẹρ nhất thế giới”: Tài năng bị lu mờ bởi chính nhαn sắc

Nhắc đến Hedy Lαmαɾɾ (tên thật ʟà Hedwig Evα Mαɾiα кiesleɾ, siոh năm 1914), ոhiều ոցười sẽ ոhớ ոցαy đến một đại miոh tiոh Hollywood sở hữu ոhiều vαi diễn để đời tɾoոց Algieɾs, The Stɾαnge Womαn hαy Sαmson αnd Delilαh. Bên ϲạոh đó, Hedy ϲòn được mệոh dαոh ʟà “người ρhụ nữ đẹρ ոhất thế giới” ոhờ ϲó vẻ đẹρ mà ոցười đời ϲα tụոց ʟà “bất Ϯử”.

 Hedy Lαmαɾɾ ʟà nữ miոh tiոh sở hữu ոhαn sắc được xếρ vàօոց huyền thoại bên ϲոh ոhữոց Elizαbeth Tαyloɾ hαy Audɾey Heρbuɾn… (Ảnh: The Guαɾdiαn)

 Thế ոոց tạρ ϲhí Foɾbes ϲó viết, di sản vĩ đại ոhất mà bà để ʟại ϲhօ ոhân ʟoại кhôոց ρhải ở ʟĩոh vực điện ảոh mà ʟại ʟà ở ρhươոց diện ϲôոց ոցhệ. Ít αi ոցờ được Hedy ϲոh ʟà ոցười ρhát miոh ʟà ϲôոց ոցhệ ոhảy tần số vàօ năm 1941, vốn ʟà tiền thân ϲủα Wifi, GPS hαy Bluetooth mà hàոց tỉ ոցười tɾên thế giới đαոց sử dụոց ոցày nαy.

Hedy siոh ɾα và ʟớn ʟên ở Áօ ɾồi ʟấy ϲhồոց vàօ năm 19 tuổi. Soոց ϲuộc hôn ոhân hạոh ρhúc đã кhiến bà bỏ ոhà đi ոցαy tɾoոց đêm bằոց xe đạρ. Hedy sαu đó di ϲư đến Mỹ và được ոցười đứոց đầu MGM Studiօ để mắt đến và dần ϲó được ոhữոց hợρ đồոց vαi diễn quαn tɾọոց ở Hollywood.

 Khôոց ϲhỉ ʟà một diễn viên, Hedy ϲòn được tôn viոh ʟà thiên tài, “mẹ đẻ” ϲủα Wifi. (Ảnh: Chụρ màn hìոh Foɾbes)

 Nhαn sắc ɾực ɾϲủα Hedy кhiến bαօ ոցười ρhải sαy đắm. (Ảnh: Pinteɾest)

Người đẹρ gốc Áօ ոhαոh ϲhóոց địոh ϲư ở Beveɾly Hills và quen biết với ոhữոց tên tuổi ʟớn, tɾoոց đó ϲó ϲả ϲựu Tổոց thốոց Mỹ John F. кennedy và ոhà tài ρhiệt Howαɾd Hughes. Họ ϲũոց ϲhíոh ʟà ոցười ϲuոց ϲấρ ϲhօ Hedy ոhữոց thiết bị thí ոցhiệm để bà thực hiện ոցhiên ϲứu tɾoոց кhoảոց thời giαn кhôոց đi đóոց ρhim.

Nhữոց ρhát miոh ϲủα Hedy vô ϲùոց đα dạng, ϲó thể кể đến một số thứ ᵭộc đáօ ոhư viên nén ϲó thể hòα tαn tɾoոց nước và tạօ thàոh đồ ᴜốոց ϲó gα thơm ոցon hαy một thiết кế ϲải tiến ϲhօ đèn giαօ thôոց ʟúc bấy giờ.

 Bà đαm mê ʟàm ϲác ϲuộc ոցhiên ϲứu, thí ոցhiệm кhi кhôոց ρhải đóոց ρhim. (Ảnh: Foɾbes)

“Phát miոh ʟà điều dễ dàոց đối với tôi. Tôi кhôոց ϲần ρhải vắt óc suy ոցhĩ về ϲác ý tưởng, ϲhúոց đến một ϲách ɾất tự ոhiên.” – Hedy nói tɾoոց bộ ρhim tài ʟiệu Bombshell: The Hedy Lαmαɾɾ Stoɾy.

Và ρhát miոh quαn tɾọոց ոhất mà bà tạօ ɾα xuất ρhát từ moոց muốn giúρ đỡ nước Mỹ tɾoոց thời кì Thế ϲhiến thứ II. Hedy đã vận dụոց toàn bộ кhả năոց và óc sáոց tạօ ϲủα mìոh để tạօ ɾα thiết bị ϲó кhả năոց gây ոhiễu tần số vô tuyến được sử dụոց để dẫn đườոց ϲhօ ոցư ʟôi.

Nhà sử học Richαɾd Rhodes từոց ϲhiα sẻ: “Hedy biết ɾằոց tín hiệu vô tuyến ϲó thể gây ոhiễu. Tuy ոhiên nếu ϲó ϲách кhiến ϲác tín hiệu ոhảy một ϲách ոցẫu ոhiên từ tần số này sαոց tần số кhác thì tín hiệu ϲủα đối ρhươոց sẽ кhôոց đoán được vị tɾí thực sự.”

Phát miոh mαոցոh ʟiên quαn đến tần số vô tuyến ϲủα Hedy đã đóոց góρ ɾất ոhiều tɾoոց ʟịch sử. (Ảnh: CBS News)

Có sẵn ρhươոց án giải quyết tɾoոց đầu кèm theօ sự giúρ đỡ ϲủα ոhà soạn ոhạc, đồոց thời ϲũոց ʟà ρhát miոh Geoɾge Antheil, Hedy đã thàոh ϲôոց tạօ ɾα thứ mìոh muốn. Đến năm 1942, Hedy và Geoɾge đã được ϲấρ bằոց sáոց ϲhế ϲhօ ρhát miոh ϲhuyển đổi tần số vĩ đại này.

Như vậy nếu кhôոց ϲó bộ óc sáոց tạօ ϲủα Hedy thì ɾất ϲó thể thế giới ϲủα ϲhúոց tα кhôոց ρhát tɾiển được ոhư bây giờ. Nhưոց một điều đáոց tiếc ʟà vàօ thời điểm đó, sự ρhân biệt giữα nαm và nữ ϲòn quá nặոց nề nên, thêm vàօ đó vαi tɾò diễn viên ϲủα bà ʟại nổi bật кhôոց кém nên đóոց góρ ϲủα Hedy ϲhօ ϲôոց ոցhệ đã bị ʟu mờ.

 Phải sαu hàոց thậρ кỉ, кhi sự bìոh đẳոց nαm nữ tɾở nên ρhổ biến hơn thì tên tuổi ϲủα Hedy mới được gắn ʟiền với ρhát miոh ϲủα ϲոh mình. (Ảnh: The Guαɾdiαn)

Tiến sĩ Simon Nyeck – Chủ tịch thươոց hiệu tại Tɾườոց кiոh doαոh ESSEC ở Pháρ nói ɾằng, tɾoոց ʟịch sử, ρhụ nữ thườոց ϲhỉ được ոhìn ոhận và đáոh giá ϲαօ về mặt ոցoại hìոh ϲhứ кhôոց ρhải кhả năոց tư duy, ρhát miոh hαy sáոց tạo. Dօ đó, ôոց hoàn toàn кhôոց ոցạc ոhiên кhi ρhải mất đến hàոց thậρ кỉ, ϲôոց ʟαօ ϲủα Hedy Lαmαɾɾ mới được ghi ոhận.

Con gáι ϲủα Hedy – Denise Lodeɾ vô ϲùոց tự hàօ với tɾí tuệ ϲủα mẹ mìոh và ϲôոց việc mà bà đã ʟàm tɾoոց suốt sự ոցhiệρ để vượt quα ϲái ոhìn địոh кiến về ρhụ nữ: “Mẹ tôi đã đi tɾước thời đại bằոց ϲách bêոh vực quyền ʟợi dàոh ϲhօ ρhụ nữ.” – Denise nói tɾoոց ρhim tài ʟiệu về mẹ mình.

Sưu Tầm

6 vụ 'cuồng loạn tập thể' bí ẩn trong lịch sử

Nhảy tập thể, cười tập thể... là những 'dịch bệnh' bí ẩn từng xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới mà cho đến nay các nhà khoa học vẫn đang tìm cách lý giải.

Bệnh xã hội hàng loạt (mass sociogenic illness hay mass hysteria), còn được gọi là chứng cuồng loạn hàng loạt hay rối loạn phân ly, xảy ra khi một cộng đồng có các triệu chứng lan truyền mà không rõ nguyên nhân y tế. Tiến sĩ Robert Bartholomew, giảng viên danh dự cấp cao tại khoa Y học Tâm lý, Đại học Auckland, New Zealana cho biết: “Hãy nghĩ nó giống như hiệu ứng giả dược”.

Trong nhiều thế kỷ, xã hội loài người đã tìm cách xác định nguyên nhân của chứng cuồng loạn này.

(Ảnh minh họa)

“Bệnh dịch nhảy” năm 1518

Mọi chuyện bắt đầu vào một ngày hè ở Strasbourg, Pháp năm 1518. Frau Troffea, công dân của thành phố bắt đầu nhảy múa không dừng lại trong gần một tuần. Trong vòng một tháng sau, 400 công dân của thành phố miền Đông nước Pháp bị kích thích nhảy mãi không dừng lại được cho đến khi đột quỵ, đau tim hoặc kiệt sức.

Trạng thái của những người này giống như bị thôi miên. Các nhà chức trách ban đầu cho rằng nguyên nhân là do "máu nóng trong não", nhưng lại yêu cầu các vũ công bất đắc dĩ này tiếp tục nhảy suốt ngày đêm để điều trị và xua đuổi ma quỷ bên trong họ, thậm chí dựng một sân khấu và thuê thêm vũ công và nhạc công cho họ. Điều này khiến tình hình còn trầm trọng hơn. Các phiên bản của “bệnh dịch nhảy” tại Pháp sau đó đã “lây lan” sang Đức, Hà Lan và Thụy Sĩ.

Một số nhà sử học cho rằng những người dân đã vô tình ăn phải ergot, một loại nấm mốc độc hại có tác động đến sự co thắt các cơ - nhưng điều đó sẽ không giải thích được tại sao họ lại nhảy trong thời gian dài đến vậy. Những người khác cho rằng nguyên nhân có liên quan đến sự căng thẳng vì bệnh tật và nạn đói hoành hành trong khu vực, cùng với đó là một nhóm người dân tin vào “lời nguyền khiêu vũ”.

“Đại dịch viết” năm 1892

Vào năm 1892, tay của một số nữ sinh ở Groß Tinz, Đức bắt đầu run lên không kiểm soát khi họ viết. Một số trải qua tình trạng mất trí nhớ và thay đổi ý thức. Năm sau, học sinh ở Basel, Thụy Sĩ bắt đầu gặp tình trạng tương tự.

Tiến sĩ Bartholomew cho rằng: “Việc run tay khi viết ở châu Âu sau thế kỷ 19 là kết quả trực tiếp của một phương pháp giảng dạy mới coi trí óc như một cơ bắp cần tập thể dục. Các bài tập tẻ nhạt và lặp đi lặp lại đã gây ra thiệt hại về thể chất cho học sinh. Vì vậy chứng bệnh bộc phát như là một cách tiềm thức cố gắng thoát ra khỏi lớp học viết đáng sợ”.

Vụ đầu độc hơi ngạt Matton, 1944

Trong thời kỳ cao điểm của những câu chuyện hoang tưởng trong Thế chiến thứ hai, thị trấn Mattoon, Illinois tràn ngập tin đồn về một người đàn ông bí ẩn phun hơi ngạt vào những nạn nhân ngẫu nhiên.

Người đầu tiên là Aline Kearney. Theo lời kể của cô, hôm đó, có "một mùi ngọt khó chịu trong phòng ngủ" đã làm "tê liệt chân và phần thân dưới của tôi". Khi chồng của Kearney đi làm về, anh ấy nhìn thấy một người lạ bên ngoài nhà họ. Câu chuyện của gia đình Kearney được xuất bản trên trang nhất của tờ báo địa phương, trong đó tuyên bố rằng có một “kẻ gây mê” bí ẩn đang nằm ngoài vòng pháp luật. Ngay sau đó, toàn bộ thị trấn tràn ngập các báo cáo về những sự cố tương tự. Tin tức về kẻ rình mò bí ẩn khiến công chúng hoảng loạn một thời gian nhưng kẻ tấn công không bao giờ được tìm thấy.

Đại dịch bọ tháng 6/1962

Vào tháng 6/1962, 60 công nhân trong nhà máy dệt ở Mỹ bắt đầu có các triệu chứng kỳ lạ: phát ban, buồn nôn và tê. Các phương tiện truyền thông đã nhanh chóng ghi nhận câu chuyện, đặt tên nó là "bệnh dịch tháng Sáu". Theo các công nhân, một loài côn trùng đã làm cho họ bị bệnh dịch này. Tuy nhiên, các nhà côn trùng học được cử đến hiện trường không tìm thấy dấu vết của bọ.

Trong khi đó, các nhà tâm lý học đã phỏng vấn những công nhân bị bệnh. Kết quả cho thấy hơn 90% nạn nhân làm việc theo ca giống nhau, hầu hết làm việc ngoài giờ và 50 người trong số đó chỉ bắt đầu báo cáo các triệu chứng của họ sau khi truyền thông đưa tin về đợt dịch bệnh bùng phát. Từ đó, một số ý kiến cho rằng sự căng thẳng, cùng với sức mạnh của những tin đồn, có thể là nguyên nhân khiến hàng loạt người thấy mình “mắc bệnh”.

“Dịch cười” Tanganyika (Tanzania), 1962

Năm 1962, nước này gặp phải một “dịch bệnh” kỳ lạ khiến họ phải đóng cửa các trường học trong nhiều tuần, khi hàng chục nữ sinh không thể nhịn được cười. Đến cuối đợt dịch, hơn 1.000 người đã bị ảnh hưởng. Cười không phải là vấn đề duy nhất, nhiều học sinh căng thẳng khác có biểu hiện phát ban, ngất xỉu và các vấn đề về hô hấp. Chẩn đoán chính thức được đưa ra cho trường hợp này là chứng cuồng loạn hàng loạt.

Người đàn ông khỉ ở Ấn Độ, 2001

Thành phố Delhi, Ấn Độ trải qua tình trạng mất điện liên tục trong một đợt nắng nóng vào tháng 5/2001. Khi những người dân tìm cách giải tỏa cái nóng bằng cách ngủ trên mái nhà, họ bắt đầu báo cáo về các cuộc tấn công do một sinh vật bí ẩn có vẻ như nửa người nửa khỉ gây ra. Các nạn nhân, hầu hết là nam giới, có địa vị kinh tế xã hội thấp, đến gặp bác sĩ với những vết thương khó hiểu như vết cắn. Hai người chết vì ngã trong lúc sợ hãi, một người từ trên mái nhà, người còn lại ở cầu thang bộ.

Tuy nhiên, một báo cáo y tế cho thấy vết thương của những người này là do tự gây ra. Dường như chứng cuồng loạn đã bộc phát do hình ảnh trên các phương tiện truyền thông đại chúng và những lời đồn đại mất kiểm soát – bao gồm về sự chiếm hữu của quỷ, những kẻ luyện khí điên cuồng và những người đàn ông khỉ.

“Việc chẩn đoán chứng cuồng loạn xã hội hàng loạt của các quan chức y tế công cộng thường vấp phải sự tranh cãi và phản đối kịch liệt của công chúng vì có sự kỳ thị những nạn nhân bị rối loạn tâm thần, cho rằng họ ‘điên’ hoặc giả vờ. Tuy nhiên các chứng bệnh này được thúc đẩy bởi một niềm tin. Tất cả chúng ta đều có niềm tin, do đó, chúng ta đều có thể là nạn nhân”, Bartholomew nói.

Phương Anh(Nguồn: history.com)

Bánh Tây


Bánh tây là cách gọi của miền Bắc, miền Nam kêu là bánh mì. Cả hai chỉ thị cùng một thứ nhưng ngày nay bánh mì tách ra thành một thứ không phải là bánh tây. Chuyện ra sao, xin coi hồi sau sẽ rõ. Bây giờ nói chuyện bánh tây trước.

Bánh tây là bánh baguette. Của mấy anh tây rõ ràng. Nếu có dịp tới Pháp, cái đập vào mắt là các cửa hàng bánh boulangerie. Cứ đi vài trăm thước lại thấy boulangerie. Trên toàn nước Pháp có tới 35 ngàn boulangeries. Những ngày ở Paris, sáng sáng tôi bắt gặp những ổ bánh trên tay các ông già bà cả, các thanh niên thiếu nữ, các em nhỏ. Bánh baguette còn ngự trên các giỏ xe đạp, thò đầu ra khỏi những chiếc túi đeo lưng. Dân tây mua bánh mỗi sáng.

Baguette trên tay. REUTERS

Nhà báo Nguyễn Dũng, trong một lần tới Paris, đã ghi lại: “Rong ruổi qua các phố của Kinh Thành Ánh Sáng, đặc biệt vào buổi sáng, bạn sẽ dễ dàng nhận thấy rằng thủ đô của nước Pháp có cái mùi hương riêng. Đó là mùi bánh baguette phát tỏa ra từ những boulangerie. Mà hầu như phố nào ở Paris cũng có một vài boulangeries…Một ngày vui khám phá Paris của tôi thường bắt đầu với việc thức dậy sớm, rời phòng trọ không sao phía trên một nhà hàng bán thức ăn Hoa, Việt lẫn lộn cực kỳ mini gần nhà ga xe lửa Montparnasse đi mua ly chocolat thơm nóng vừa nhâm nhi vừa quan sát người Pháp chào ngày mới như thế nào. Kế đến là bước vào một boulangerie để mua baguette, loại bánh mì dài như khúc củi…Bình minh ngày bay trở về Sài Gòn, kéo vali trên đại lộ Maine xuôi về phía nhà ga xe lửa Montparnasse, nơi có trạm xe buýt Car Air France chở khách ra sân bay Charles de Gaulle, tôi đi ngang qua tiệm bánh mì, bánh ngọt Paul. Mùi bánh mì tươi nóng tỏa lan thơm lừng góc phố, trong tủ kính là hàng hàng lớp những baguette nướng căng phồng trông thật hấp dẫn. Chợt nhớ và nể phục ông Victor Hugo với cuốn “Những Kẻ Khốn Cùng” (Les Misérables). Đáng thương cho Jean Valjean năm xưa vì ổ bánh mì cứu đói đám cháu nheo nhóc mồ côi bố mà bị án tù chung thân khổ sai. Chắc chắn Jean Valjean cũng đã bị mùi bánh mì cám dỗ ghê lắm”.

Mua một ổ baguette mỗi sáng hình như đã trở thành dân tộc tính của người Pháp. Có lần con gái tôi tổ chức đám cưới ở miền Nam nước Pháp, chúng tôi ngụ trong một château hẻo lánh chẳng thấy phố xá làng mạc chi, vậy mà sáng sáng, bà sui gia, dân địa phương, luôn để một giỏ bánh mì trước cửa phòng. Không biết bà mua ở đâu, khi nào, nhưng bánh nóng hổi, thơm lừng. Theo tổ chức “Observatoire du Pain” chuyên theo dõi bánh baguette thì mỗi giây đồng hồ, dân Pháp tiêu thụ 320 bánh baguettes. Tính ra là 10 tỷ cái mỗi năm.

Để chỉ sự thân thiết giữa baguette và người Pháp, người ta có câu: “Người Pháp luôn đi bộ với baguette kẹp trong nách”. Thân thiết đến như vậy nhưng bánh tây không phải bắt nguồn từ Pháp mà từ Áo. Dưới thời cai trị của vua Louis 16 vào thế kỷ 18, nước Pháp có một hoàng hậu ngoại quốc: Hoàng Hậu Marie Antoinette, người gốc Áo. Qua Pháp, bà mang theo thợ làm bánh giỏi nhất của thủ đô Vienna, để làm đầu bếp cho hoàng gia. Bánh mì Áo bám theo bà Marie Antoinette qua Pháp là thứ bánh mì hình tròn và chỉ có hoàng gia được dùng. Dân chúng chịu khó ngó chơi. Mãi tới khi chế độ quân chủ bị thay thế bằng chế độ cộng hòa, dân chúng mới có quyền bình đẳng và mới được ăn bánh mì. Luật về bánh mì năm 1790 ghi rõ mọi công dân Pháp phải được ăn cùng một loại bánh, không phân biệt giầu nghèo và các tiệm làm bánh phải tuân thủ chung một công thức, theo đúng tiêu chuẩn để cho ra lò một loại bánh đồng nhất. Baguette trở thành một biểu tượng của sự bình đẳng cho mọi công dân.

Hình dáng của bánh mì thay đổi từ tròn ra dài. Người ta không biết nguyên nhân nào làm cho chiếc bánh mì bị kéo dài ra như vậy. Có thuyết cho rằng vì thợ làm bánh Pháp tự ái, không muốn rập khuôn theo bánh của Áo nên thay đổi để dân tộc hóa chiếc bánh có nguồn gốc ngoại lai. Một thuyết khác cho rằng chiếc bánh dài ra như vậy cho tiện chuyên chở và dễ dàng cho dân chúng…cặp nách! Nhưng bánh mì dài ra có lẽ chính xác nhất là vì chiến tranh. Thế kỷ 19, nước Pháp lâm chiến triền miên, hết cuộc chiến của  Napoleon Bonaparte từ năm 1800 đến 1815, tới cuộc chiến giữa Napoleon III và các nước láng giềng, binh lính di chuyển liên miên nên cần cột bánh mì theo chiều dọc, song song với chân, cho dễ di chuyển.

Baguette trên lưng.

 

Sau Thế Chiến II, kích thước chuẩn của baguette có chiều dài 80 phân và nặng 250 gram. Để bảo đảm cho toàn dân được ăn bánh mì đúng tiêu chuẩn như nhau, một luật quy định về bánh mì được ban hành vào năm 1790. Theo luật, bánh mì chỉ có thể làm bằng bốn thành phần sau: Bột mì, nước, muối và men. Không được để bánh đông lạnh, không được có các chất phụ gia hoặc chất bảo quản.

Ngoài ra, để dân chúng không thiếu bánh mì, các boulangerie phải xin phép chính quyền nếu muốn đóng cửa luôn, đóng cửa để nghỉ hè, du lịch hay nghỉ vì việc gia đình. Nếu được phép, chủ tiệm phải tìm người tạm thay thế để vẫn mở cửa hoặc nếu phải đóng cửa tạm thời cửa hàng thì phải có hướng dẫn cho khách hàng tới tiệm boulangerie gần nhất. Nếu muốn nghỉ hưu, chủ tiệm phải truyền nghề lại cho con cháu hoặc tìm người mua để tiệm tiếp tục mở cửa. Mục đích của điều khoản này là để bảo đảm cho người dân luôn có bánh mì tươi ngon một cách thường xuyên. Luật này được thi hành trong 225 năm và chỉ mới được bãi bỏ vào năm 2015.

Một boulangerie phải tự làm bánh từ A tới Z. Không có ngoại lệ. Mỗi tiệm làm bánh có thể có phương cách chế biến riêng nhưng phải đạt được tiêu chuẩn sau: Vỏ bên ngoài giòn cứng, có màu vàng, ruột bên trong mềm dẻo. Nếu bóp chiếc bánh dẹp xuống thì khi thả tay ra, bánh phải trở lại bề dày ban đầu. Muốn được như vậy, phải mất chừng 4 tiếng đồng hồ từ khi nhào nặn bột cho tới lúc đóng khuôn và cho vào lò nướng. Muốn khách có bánh tươi thơm, thời gian từ khi bánh ra lò đến khi tới tay khách chỉ kéo dài tối đa 1 tiếng. Trên thực tế, đó là thời gian lý thuyết, khách ít khi được có bánh thơm ngon trong vòng 1 tiếng. Nhưng trong thời buổi công nghệ hiện nay, tại các siêu thị hay các chợ, bánh được làm nhanh chóng và ít công phu hơn. Dân sành ăn không chịu dùng thứ bánh công nghệ này. Họ chỉ mua bánh tại các boulangerie, mua về ăn ngay, nóng sốt và thơm tho. Tới Paris, tôi thường tá túc nơi nhà cô em họ ở Wissous, ngoại ô Paris, gần ga metro Anthony. Bước ra vài bước là có boulangerie, bước thêm vài trăm thước nữa, lại boulangerie. Mỗi sáng, đều có baguette nóng hổi thơm lừng, chỉ cần quẹt thêm chút bơ là ngon thấu trời. Nhiều khi muốn ăn nóng sốt, vừa vào cửa, bẻ ra ăn liền, chẳng bơ biếc chi mà vẫn ngon ơi là ngon, cái thơm ngon này còn lẽo đẽo theo tôi về tới Montreal.

Baguette rất khác với bánh mì Việt Nam tuy bánh tây là thứ tây mang sang Việt Nam. Từ khá lâu. Khoảng năm 1859 đến 1887 lận. Khi đó người Pháp đã cho xây những lò nướng bánh mì bằng gạch tại Việt Nam. Trước tiên ở Hà Nội rồi sau đó mới vào Sài Gòn. Erica Peters, một ký giả chuyên viết về ẩm thực, đã ghi: “Đến năm 1910, những chiếc bánh mì baguette nhỏ, hay còn gọi là “petit pain” được bán trên đường phố và người Việt hay mua trên đường đi làm để ăn sáng”. Trong Thế Chiến I, một làn sóng binh sĩ Pháp đã đặt chân tới Việt Nam khiến nhu cầu baguette tăng cao. Tuy nhiên việc nhập cảng lúa mì rất khó khăn nên người ta đã trộn thêm bột gạo vào. Hình thức chiếc bánh cũng thay đổi ngắn hơn, chỉ chừng từ 30 đến 40 phân, bằng phân nửa bánh ở Pháp. Bánh cũng ít ruột hơn để có thể kẹp nhân vào bên trong.

Bánh mì “Lý Toét” tại Sài Gòn trước 1975.

Không biết ai nghĩ ra chuyện kẹp nhân vào trong bánh mì nhưng ngay từ đầu thập niên 1950, bánh mì kẹp nhân đã có mặt tại Hà Nội. Ngày đó, quanh bờ Hồ, đã có những trẻ em  bán bánh mì kẹp jambon. Tôi đã nhiều lần thưởng thức thứ bánh này. Chiếc bánh rất nhỏ được các em ủ vào trong các bao tải để giữ nóng. Khi có khách mua, chú bé lấy bánh ra, dọc một đường rãnh, đặt vào một miếng thịt nguội mà gió nhẹ cũng có thể thổi bay. Rắc thêm tí muối tiêu là xong. Ổ bánh mì đơn sơ, rẻ tiền như vậy nhưng sao mà ngon. Muốn ngon hơn thì tới trước cửa trường Dũng Lạc, bên hông Nhà Thờ Lớn, ăn bánh mì của Lý Toét. Anh chàng bán bánh mì này tên Lý. Lý Toét là biệt danh mà lũ học sinh chúng tôi ngày đó thân ái đặt cho. Lý Toét rất vui tính, vừa bán vừa pha trò khiến chúng tôi vui vẻ chung tiền cho chàng. Bánh mì của Lý Toét được kẹp chả. Chả do chính chàng làm nên rất thơm ngon. Tôi không còn nhớ bánh mì này rắc muối tiêu hay xịt maggie nhưng ngon hết biết. Sau di cư, Lý Toét vào Sài Gòn, tiếp tục bán bánh mì tại góc đường Hai Bà Trưng và Phan Thanh Giản. Tác giả Đỗ Duy Ngọc viết về bánh mì “cụ Lý” như sau: “Cách đây hơn sáu chục năm, sáng sáng ở vỉa hè sát tường rào khúc Hai Bà Trưng với Phan Thanh Giản bên hông một biệt thự cổ có một người dựa chiếc xe, lúc đầu là xe đạp cổ lỗ sau đó là chiếc Mobylette xanh có chiếc thúng tre đằng sau bán bánh mì chả. Người ta gọi là Bánh mì Cụ Lý. Gọi là Cụ thế thôi chứ ông này lúc đấy chỉ trạc tứ tuần, giọng Bắc Kỳ đặc sệt, đầu chải “bri dăng tin” (brillantine) láng mướt, vuốt ra đằng sau để lộ một khuôn mặt lúc nào cũng đo đỏ như người uống rượu với chiếc mũi khá to với mấy sợi râu lún phún. Nhìn ông ta chợt nhớ đến khuôn mặt của nhân vật biếm họa Lý Toét đăng trên báo Ngày Nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Hay là vì cái sự giống nhau này mà người ta gọi ông là Cụ Lý chăng? Bánh mì Cụ Lý ngon mà giá bình dân. Chả đủ loại: Chả lụa, chả chiên, giò thủ, chả mỡ. Chả nóng hổi, phảng phất mùi hương của thì là. Chả của Cụ Lý không cắt lát như những xe bánh mì khác mà cụ cắt từng miếng lớn, lộn xộn để lung tung trên mẹt lót lá chuối xanh dờn. Từ lúc dừng xe dựa vào hàng rào, cụ cắt không ngơi tay, khách hỏi chuyện, cụ lại nhón miếng chả đưa khách ăn chơi. Xẻ ổ bánh mì, hồi trước bánh mì nướng củi, vỏ bánh vàng, ruột bánh trắng phau chứ không như bánh mì bây giờ, cụ nhét đại mấy miếng chả vào, bốc một nắm hành tây, rắc chút muối tiêu, xì dầu hay nước mắm theo yêu cầu của khách, thế là xong một ổ bánh, không patê, chẳng dưa chua, hành ngò chi cả. Khách chen nhau, lần lượt. Cầm ổ bánh mì nóng, chả tràn trề, cắn một miếng, ngon nhức xương”. Ông Đỗ Duy Ngọc thuộc thế hệ sau, chỉ biết chàng Lý ở Sài Gòn nên không biết biệt danh Lý Toét đã được chúng tôi đặt từ ngày ở Hà Nội. Khi vào Sài Gòn, tôi đã đi làm, có lần đi ngang qua đường Hai Bà Trưng, ghé vào, kêu lớn: “Lý Toét”. Chàng Lý nhận ra tôi, chú học sinh Dũng Lạc ở Hà Nội xưa, mừng tíu tít, cứ như gặp tri kỷ. Ổ bánh mì cho tri kỷ không lý chi tới chuyện tiền bạc. Cũng là một thứ “tha hương ngộ cố tri”!

Cùng với cuộc di tản và vượt biên những năm sau 1975, bánh mì Việt Nam có mặt tại nhiều nước và được dân bản xứ hưởng ứng nồng nhiệt. Bánh mì thịt tại Montreal hiện nay có nhiều thứ. Chắc cũng khoảng hai chục loại. Từ thịt, chả, gà nướng, bò nướng tới nem chua, tàu hũ. Lung tung xòe tất cả. Nơi nào có người Việt thì nơi đó có bánh mì kẹp thịt. Tại Montreal, cảnh các anh chị tây đầm vừa đi vừa…thổi sáo bằng bánh mì là cảnh tôi bắt gặp thường xuyên. Nhưng bánh mì xâm nhập đất Pháp để đọ sức với baguette mới là chuyện đáng nói.


 

 

Cái khác của bánh mì tại quê hương của bánh tây là bánh mì dùng ngay bánh tây dài ngoằng chứ không phải những ổ bánh ngắn nhồi nhân như các nơi khác. Không ai có thể ăn được hết 80 phân bánh nhồi thịt nên nhà hàng cắt làm ba. Đây là một cuộc hôn nhân thuận lợi. Bánh baguette Parisienne giòn và thơm nức mũi đi với nhân Việt gồm cả ngò, đồ chua, ớt, tiêu cay chua đủ mùi đời thì đẹp đôi là cái chắc. Muốn có ổ bánh mì thịt để gặm thì phải tới hai khu nhiều người Việt là Quận 13 và Quận 20. Tiệm bánh mì của người Việt đầu tiên tại Quận 13 là tiệm Khai Trí. Cái tên Khai Trí hình như đã dính liền với sách vở tại Sài Gòn. Đúng vậy, Khai Trí bán bánh mì và sách! Hai thứ văn hóa, một phục vụ tinh thần, một phục vụ cuộc sống thường ngày, đã quyện vào nhau. Nhưng đó chỉ là thời gian đầu khi tiệm khai trương vào năm 1984. Sau đó bánh mì nghỉ chơi với sách, một mình hùng cứ trong tiệm. Nhưng cái tên Khai Trí vẫn còn đó với những cuốn sách còn sót lại nằm dọc trên tường như một chứng tích của bên…thua cuộc.

Khách của Khai Trí dĩ nhiên là người Việt nhưng tây đầm cũng rất chịu khó gặm bánh mì. Cô chủ tiệm Khai Trí thổ lộ về thứ bánh mì rất đắt khách của tiệm: “Mình không làm theo lối kỹ nghệ, hàng ngày mình làm nên đồ nó tươi! Một ngày mình nghĩ bán bao nhiêu thì làm bấy nhiêu thôi. Mình muốn làm cho khách hàng ăn rồi trở lại chứ không phải ăn rồi đi luôn. Có nhiều nơi họ mua bánh mì industrielle (kỹ nghệ) thì rất rẻ. Em đặt bánh mì đặc biệt thành ra ổ bánh mì lúc nào cũng ngon. Đặc biệt của tụi em ở đây là có gà, có chả, có thịt, nhưng cái ngon nhất của em là gà chà bông, gà ruốc của em làm rất đặc biệt. Em chỉ có 3 thứ thịt thôi: Thịt heo, gà ruốc và chả lụa. Tổng cộng ba cái lại người ta gọi là bánh mì đặc biệt. Bữa nào em hết gà là người ta hơi thất vọng.”

Một boulangerie

Tại Quận 20, còn gọi là khu Belleville, có tới ba tiệm bánh mì do người Việt làm chủ. Mỗi tiệm cũng có những thứ đặc biệt. Chị Huỳnh, chủ tiệm Hòa Hưng có từ 21 năm nay, cho biết: “Bánh mì tự nướng để nó ngon, nó nóng. Thịt đùi, chả lụa với gà chà bông. Đó là bánh mì đặc biệt, bánh mì gà thì gà ướp sả, vệ sinh hơn mà ở ngoài thì cũng không có bán”. Khách hàng buổi sáng là người Việt, buổi trưa là người Pháp. Được hỏi về sự khác nhau giữa bánh mì Việt Nam và bánh tây kẹp thịt của Pháp, ông Jean Pierre, một khách hẩu của bánh mì Việt nói : “Sự khác nhau ? Đó là món Á Châu, nó đầy đủ hơn, nóng. Tôi ở khu này không lâu lắm, món bánh mì ngon, và làm thay đổi khẩu vị… Món bánh mì nào của Pháp ngon nhất đối với tôi ? Tôi không biết! Có lẽ là món bánh mì Vendôme với paté, rất, rất ngon! Nhưng không ngon như bánh mì (Việt Nam). Với bánh mì, chúng tôi khám phá thêm được một món ăn Việt Nam, rất ngon!”. Một ông người bản xứ khác ví von : “Bánh mì Pháp là một cuộc gặp gỡ tuyệt vời giữa hai nền văn hóa Pháp-Việt về khẩu vị và mùi vị. Đó là một cuộc hôn nhân hoàn hảo”.

Cuộc hôn nhân hoàn hảo, tuy hai mà một, nhưng vẫn là hai. Bánh mì Việt Nam đã là một thực thể riêng biệt. Ngày 28/3/2011, tự điển danh tiếng Oxford đã ghi từ “bánh mì” với định nghĩa như sau:  “Bánh mì là một món ăn nhẹ, bên trong kẹp một hoặc nhiều loại thịt, paté và rau củ như cà rốt, dưa leo, ngò…và kèm gia vị như ớt, tiêu”. Vậy là sau hai chữ  “áo dài” và “phở”, “bánh mì” đã leo được vào từ điển Oxford.

Bánh tây qua Việt Nam đã bị Việt Nam hóa và mang trở lại Tây với một vị trí độc lập được ghi nhận chính thức với tên “bánh mì”, chẳng là một hãnh diện cho dân Việt ta sao ?

Song Thao 05/2021