a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2024

Thám Hoa Nguyễn Đăng Cảo: Tức Giận, Ví Hoàng Đế Nhà Thanh Là “Ếch Ngồi Đáy Giếng”

 Với câu đối lại và chê hoàng đế nhà Thanh là ếch ngồi đấy giếng cũng đã quá đủ để nói nên bản lĩnh và tài năng xuất chúng của Nguyễn Đăng Cảo. Và những giai thoại nêu trên đã góp phần minh chứng sâu sắc hơn về tài năng của Đình nguyên Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo

Chuyện xưa kể lại rằng, khi Nguyễn Đăng Cảo ra làm quan, nhưng tính ngang tàng, nên mấy lần bị triều đình giáng chức, vì thế mà ông chán ngán quan trường rồi xin từ quan về quê làm ruộng, kéo vó làm vui. Khi thong thả ông lại ra chợ Nội Duệ uống rượu nhắm thịt chó rồi lại thủng thỉnh ra về. Một lần ông bế cháu (gọi ông là bác, tức Nguyễn Đăng Đạo) và nói rằng:

– Triều đình ghét ta ngang bướng, đánh xuống Thám hoa, nhưng cháu ta-thằng bé này nhất định sẽ đỗ Trạng nguyên, không đánh nó xuống được đâu. Sau đó quả đúng như vậy.


Tranh vẽ thám hoa Nguyễn Đăng Cảo.

Bấy giờ, sứ nhà Thanh sang Đại Việt, nhưng khi đến Xương Giang thì dừng lại, rồi sai quân đưa đến triều đình ta một vuông gấm có viết chữ “Càn” rất lớn và nói:

– Nếu Đại Việt không giảng được thì sứ đoàn sẽ không vào Thăng Long. Triều đình ta không hiểu ra làm sao, bèn cho triệu Nguyễn Đăng Cảo vào kinh để giảng. Nguyễn Đăng Cảo nghe xong nói: Cái trò đánh đố chữ nhỏ mọn ấy bõ gì mà triều đình phải bận tâm, sau đó ông lấy bút quét một nét sổ trên giấy cho sứ triều mang về tâu vua, dặn cứ thế đưa cho sứ Thanh. Quả nhiên, sứ nhà Thanh rất phục và đi tiếp vào Thăng Long. Mặc dù vậy, nhưng nhà vua vẫn còn chưa hiểu ý của sứ nhà Thanh ra sao, đồng thời cũng chưa biết vì sao Nguyễn Đăng Cảo viết vậy mà sứ nhà Thanh đồng ý vào Thăng Long, nên lại cho người về quê hỏi Nguyễn Đăng Cảo. Ông đã trả lời sứ của triều đình rằng:

Ở trong sách kinh dịch tượng có quẻ “Càn” là ba nét ngang, thêm một nét sổ thì thành chữ “vương”. Họ muốn sang phong vương cho vua ta đó thôi.

Cả triều đình nghe ra, vô cùng nể phục Nguyễn Đăng Cảo.

Một lần khác, vua nhà Thanh tiếp sứ thần Đại Việt là Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo, vì có nghe tài của ông nên vua nhà Thanh đã ra vế đối cho ông như sau:

– Lão khuyển lạc mao, do hướng đình tiền thệ nguyệt. Nghĩa của vế đối này là: Chó già rụng lông còn ngó ra sân sủa lên bóng trăng. Biết đó là ý miệt thị của vua nhà Thanh và Nguyễn Đăng Cảo đã thể hiện rõ sự bự tức của mình mà đối ngay rằng:

– Tiểu oa đoản cảnh, mạn cư tỉnh để khuy tiên. Nghĩa là: Ếch con ngắn cổ, cũng dám ngồi đáy giếng ngó lên trời. Thấy vế đối có nội dung ngang tàng, lại có ý mỉa mai, không những xem thường cả triều đình lẫn vua nhà Thanh khi ấy vừa có kiến thức thấp kém lại vừa có bụng dạ quá hẹp hòi, chỉ “như ếch ngồi đáy giếng”. Từ đó, vua quan nhà Thanh không dám coi thường sứ nước Nam nữa. Sau đó, vua nhà Thanh sai quan tiễn sứ đoàn ra về rất trịnh trọng.

Một lần khác, nhà Thanh sai sứ sang sách nhiễu. Triều đình bí quá phải triệu ông hồi cung tiếp sứ. Sứ Thanh đòi nộp 1 cái giường đồng, 100 ông già đầu bạc, 100 người con gái tóc dài. Nghe xong ông cười to bảo: Bắc triều loạn đã lâu chi dùng không đủ nên vòi ta chu cấp. Nộp cho họ 100 gốc lúa, 100 thúng muối, 100 con dê cái.

Sứ nhà Thanh lại đưa 10 vuông gấm (4m2) đòi may thành các loại áo, mũ, xiêm, khăn, chăn, màn. Ông cho may một cái áo cổ dài, ống tay to và một cái quạt. Ông viết chữ đề lên quạt như sau: Mặc trên là áo, trang điểm ở dưới là xiêm, có dòng là khăn, có ống là túi, khoanh đầu là mũ, buông xuống là màn, che mình là chăn, trải giường là nệm.

Sứ Thanh đọc xong kính phục nói: Địa linh nhân kiệt đời nào cũng có nhưng vượt trội hơn cả từ nay về sau chỉ có một Nguyễn Đăng Cảo.

Lời bàn về Nguyễn Đăng Cảo

Với câu đối lại và chê vua nhà Thanh là ếch ngồi đấy giếng cũng đã quá đủ để nói nên bản lĩnh và tài năng xuất chúng của Nguyễn Đăng cảo. Và những giai thoại nêu trên đã góp phần minh chứng sâu sắc hơn về tài năng của Đình nguyên Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo – nhà khoa bảng tiêu biểu đã có nhiều đóng góp to lớn cho dân cho nước. Các thế hệ kế tiếp ông từ xưa tới nay đều rất tự hào, phấn đấu học tập noi theo, đặc biệt là bản lĩnh và trí tuệ của ông trong việc thực thi chính sách bang giao giữa Đai Việt và Trung Hoa. Đặt trong bối cảnh cần ổn định để xây dựng và phát triển đất nước và vị thế nước nhỏ trước một đế chế Trung Hoa rộng lớn, chính quyền Lê – Trịnh thời đó luôn thực thi chính sách bang giao mềm dẻo, linh hoạt và phù hợp với thời cuộc. Chính đường lối ấy đã có vai trò to lớn trong việc định quốc, an dân, bảo vệ độc lập, chủ quyền, bảo vệ vương quyền của vua Lê – chúa Trịnh.

Lịch sử dân tộc tộc đã chứng minh, chính sách bang giao là nhân tố góp phần to lớn trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, tạo thế ổn định để cho sự phát triển lâu dài của đất nước và giành lại chủ quyền lãnh thổ bị xâm phạm. Chính vì thế, đọc lại những giai thoại về Nguyễn Đăng Cảo và nghiên cứu về bang giao của Đại Việt với Trung Hoa thời Lê – Trịnh để từ đó chúng ta có sự tham chiếu cho cuộc đấu tranh giữ gìn độc lập chủ quyền, xây dựng đường lối, chính sách ngoại giao trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. Vì ngoại giao phải góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, phải nâng cao vị thế của dân tộc.

N.V (Theo Báo Bình Phước)



Thuyền bay mạnh nhất thế giới cất cánh đầu thế kỷ 20

"Do X" được sản xuất bởi hãng Dornier của Đức là chiếc thuyền bay lớn nhất, nặng nhất và mạnh nhất thế giới khi trình làng vào năm 1929.
Nhà thiết kế máy bay Claude Dornier, người sáng lập công ty Đức Dornier, lên ý tưởng về Do X vào cuối năm 1925. Sau hơn 240.000 giờ làm việc, chiếc thuyền bay đã được hoàn thành vào tháng 6/1929. Đây là mẫu máy bay một tầng cánh, phần thân làm hoàn toàn bằng hợp kim nhôm duralumin, cánh làm từ khung duralumin gia cố bằng thép, bọc trong vải lanh dày và phủ sơn nhôm. Máy bay dài 40 m và có sải cánh 48 m.
Ban đầu, Do X trang bị 12 động cơ Bristol Jupiter công suất 391 kW. Tuy nhiên, chúng dễ bị quá nhiệt và gần như không thể đưa Do X lên độ cao 425 m. Các động cơ do một kỹ sư bay kiểm soát. Phi công sẽ chuyển tiếp yêu cầu cho kỹ sư để điều chỉnh năng lượng theo cách tương tự hệ thống trên các tàu thủy sử dụng khẩu lệnh máy. Nhiều đặc điểm của Do X phản ánh thiết kế hàng hải thời đó, bao gồm cả buồng lái trông rất giống buồng lái của tàu thủy.
Sau khi hoàn thành 103 chuyến bay, năm 1930, Do X được trang bị lại động cơ Curtiss V-1570 Conqueror công suất 455 kW. Nhờ đó, nó có thể đạt tới độ cao 500 m cần thiết để vượt Đại Tây Dương.
Không gian sang trọng dành cho hành khách của Do X tiệm cận tiêu chuẩn của những con tàu xuyên Đại Tây Dương. Tàu có ba boong. Trên boong chính là phòng hút thuốc với quầy bar riêng, phòng ăn, chỗ ngồi cho 66 hành khách có thể chuyển đổi thành giường ngủ cho những chuyến bay đêm. Phía cuối không gian dành cho hành khách là bếp, nhà vệ sinh và khoang chứa hàng. Buồng lái, phòng điều hướng, điều khiển động cơ và phòng vô tuyến điện nằm ở boong trên. Trong khi đó, boong dưới chứa các thùng nhiên liệu và 9 khoang kín nước, chỉ cần 7 khoang trong số đó là đủ để thuyền bay nổi hoàn toàn.
Tổng cộng có ba chiếc Do X được chế tạo, chiếc đầu tiên do Dornier vận hành, hai chiếc sau - Do X2 và Do X3 - được sản xuất theo theo đơn đặt hàng từ Italy.
Do X thực hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên vào ngày 12/7/1929 với phi hành đoàn 14 người. Trong chuyến bay thử nghiệm thứ 70 vào ngày 21/10, có tới 169 người trên máy bay, trong đó 150 người là hành khách (chủ yếu là công nhân cùng gia đình và một số nhà báo), 10 người là thành viên phi hành đoàn và 9 người đi lậu vé.
Chuyến bay lập kỷ lục thế giới mới về số lượng người được vận chuyển trên một chuyến bay. Kỷ lục này tồn tại suốt 20 năm. Sau 50 giây chạy đà, Do X dần dần leo lên độ cao 200 m. Hành khách được yêu cầu tập trung sang bên này hoặc bên kia để giúp máy bay chuyển hướng. Nó đã bay khoảng 40 phút.
Để gây ấn tượng với thị trường tiềm năng Mỹ, Do X cất cánh từ Friedrichshafen, Đức, vào ngày 3/11/1930, dưới sự chỉ huy của Friedrich Christiansen cho chuyến bay thử nghiệm xuyên Đại Tây Dương đến New York. Hành trình này đưa máy bay đến Hà Lan, Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, nhưng bị gián đoạn tại Lisbon ngày 29/11, khi một tấm bạt tiếp xúc với ống xả nóng và bốc cháy, thiêu rụi phần lớn cánh trái.
Do X dừng ở cảng Lisbon trong 6 tuần để sửa chữa, sau đó tiếp tục gặp một số sự cố dọc theo bờ biển phía Tây châu Phi. Ngày 5/6/1931, thuyền bay đến quần đảo Cape Verde rồi vượt đại dương tới Natal, Brazil. Nó tiếp tục bay về phía bắc qua San Juan, cuối cùng tới New York, Mỹ, ngày 27/8/1931, gần 10 tháng sau khi rời Friedrichshafen. Do X cùng phi hành đoàn đã dành 9 tháng tiếp theo ở lại New York để đại tu các động cơ.
Cuộc Đại suy thoái 1929 - 1933 đã ảnh hưởng tiêu cực đến kế hoạch marketing của Dornier cho Do X. Máy bay rời New York ngày 21/5/1932, qua Newfoundland và Azores đến Müggelsee, Berlin. Nó hạ cánh tại Berlin ngày 24/5 và được đám đông 200.000 người chào đón.
Do X được chuyển giao cho hãng hàng không quốc gia Đức Lufthansa sau khi Dornier gặp khó khăn về tài chính và không thể tiếp tục vận hành chiếc thuyền bay. Sau chuyến bay thành công tới các thành phố ven biển Đức năm 1932, Lufthansa lên kế hoạch cho Do X bay tới Vienna, Budapest và Istanbul vào năm 1933. Tuy nhiên, cuộc hành trình kết thúc chỉ sau 9 ngày do phần đuôi của chiếc thuyền bay bị rách trong một lần hạ cánh không thuận lợi xuống hồ nước gần Passau.
Do X trở thành vật trưng bày cho đến khi bị phá hủy trong Thế chiến II. Các mảnh vỡ của phần đuôi rách được trưng bày tại Bảo tàng Dornier ở Friedrichshafen. Dù không thành công về mặt thương mại, Do X vẫn là thuyền bay lớn nhất thế giới cách đây gần 100 năm, giúp chứng minh tiềm năng của dịch vụ chở khách quốc tế bằng đường hàng không.

Theo Rare Historical Photos

Triều Đại Duy Nhất Ở Nước Ta Có 2 Vua Chung Một Ngai Vàng?

Hai vị vua cùng ngồi chung một ngai vàng trị vì đất nước là câu chuyện đặc biệt của lịch sử phong kiến Việt Nam.


Nhà Ngô (939-965) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam. Sau khi vua Ngô Quyền qua đời, giai đoạn từ năm 951-954, hai con của ông Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập cùng làm vua nước Việt. Về sau, 2 anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ cùng trị vì đất nước nhưng đó là 2 triều đại khác nhau.


Sau hơn nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, năm 905, hào trưởng đất Hồng Châu là Khúc Thừa Dụ nổi lên giành chính quyền, tự xưng làm Tiết độ sứ An Nam, buộc nhà Đường phải công nhận, từng bước xác lập quyền tự chủ cho dân tộc ta.


Tồn tại từ 939-965, nhà Ngô ở nước ta trải qua 4 đời vua, gồm: Ngô Quyền (Tiền Ngô Vương), Ngô Xương Văn, Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Xí. Đến năm 966, 12 sứ quân xuất hiện (loạn 12 sứ quân).


Sau khi đánh tan quân Nam Hán (938), Ngô Quyền xưng vương vào mùa xuân năm Kỷ Hợi (939). Vua chọn vùng đất Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay làm nơi định đô.


Làng cổ Đường Lâm ở thị xã Sơn Tây (Hà Nội) là quê hương của vua Ngô Quyền. Ngôi làng này còn có biệt danh “đất hai vua”, đã sinh ra vua Ngô Quyền và vua Phùng Hưng.


Ngô Quyền (897-944) sinh ra trong dòng họ hào trưởng của đất Đường Lâm. Ông được Dương Đình Nghệ gả con gái. Sau này, Dương Đình Nghệ bị thuộc tướng là Kiều Công Tiễn hại chết, Ngô Quyền kéo quân từ Hoa Lư ra báo thù cho bố vợ. Kiều Công Tiễn hoảng sợ đã cầu cứu nhà Nam Hán sang xâm lược nước ta.


Theo lời cầu cứu của Kiều Công Tiễn, cuối đông năm 938, vua Nam Hán phái con trai là Lưu Hoằng Tháo mang 200.000 quân sang xâm lược nước ta. Ngô Quyền nhận định “Hoằng Tháo chỉ là đứa trẻ dại”, khó địch với quân ta. Cuối cùng, khi đến sông Bạch Đằng, đội quân xâm lược này bị đánh bại hoàn toàn.



Năm 944, Ngô Quyền ốm nặng. Trước khi qua đời, ông để lại di chúc nhờ em vợ là Dương Tam Kha phò tá cho con. Dương Tam Kha làm trái di chiếu, cướp ngôi nhà Ngô, xây dựng triều đại riêng, khiến đất nước từng bước loạn lạc

Sưu tầm

Tri Huyện Hống Hách Bắt Binh Bộ Thượng Thư Nguyễn Công Trứ Khiêng Kiệu Và… Cái Kết

Tri huyện Nghi Xuân hống hách, vứt cuốc, bắt ông lão cản đường khiêng kiệu cho mình, nhưng khi biết đó là Binh bộ Thượng thư Nguyễn Công Trứ, hắn đã nhận được một bài học thích đáng…

Chuyện xưa kể lại rằng, có một viên quan trẻ tuổi và rất hách dịch được bổ về làm Tri huyện Nghi Xuân. Tuy cũng đã từng nghe tiếng cụ Thượng Trứ nhưng chưa hề gặp và có lẽ cũng cao ngạo hay sơ suất gì đó mà anh ta không tới yết kiến cụ như các quan khác thường làm. Vừa tới huyện lỵ được vài ba ngày, tân quan đã quyết định đi hành hạt, sức cho hàng huyện biết ngày giờ nào quan sẽ tới xã, thôn nào để biết mà nghinh tiếp rầm rộ.

Nghe dân tình bàn tán thấy chướng tai, cụ Trứ bèn vai vác cuốc tay dắt bò đến cho ăn cỏ trên con đường mà quan huyện sắp đi qua. Một lát sau đoàn xe ngựa, võng lọng tân quan đi đến, tên lính lệ đi trước dẹp đường, lớn tiếng hô: Ai nấy phải tránh về một bên để quan lớn đi.


Tranh vẽ Nguyễn Công Trứ.

Cụ Trứ giả vờ không nghe, cứ chăm chăm cuốc, rồi lại ngồi bệt xuống đường cái nhặt cỏ. Đám lính khiêng võng quan đến tận nơi mà cụ Trứ vẫn lom khom làm việc. Quan tức mình nhảy xuống võng, lớn tiếng quát: Hay cho lão già nhà quê vô lễ! Ngạo mạn!

Rồi giựt phắt cái cuốc trong tay cụ Trứ, ném xuống con sông Lam trong xanh, rồi truyền bắt ông già phải thay một người lính võng khiêng quan đi, còn con bò thì cho dắt theo. Cụ Trứ lẳng lặng ghé vai khiêng võng đi trước, còn quan huyện nằm trên võng ra dáng bệ vệ, hả hê. Vừa đi được chừng mươi thước thì đoàn người gặp một anh đồ Nho người cùng huyện Nghi Xuân. Trông thấy cụ Trứ, anh đồ hốt hoảng chạy tới chắp tay chào hỏi: Bẩm, lạy cụ lớn! Sao cụ lớn lại phải khiêng võng như thế ạ?

Cụ Trứ chưa kịp trả lời, quan huyện đã giật mình, nhảy ngay xuống đất, lắp bắp hỏi anh đồ Nho: Cụ già này là ai?

– Trình quan, đây là cụ Binh bộ Thượng thư trí sĩ, một bậc hưu quan có danh vọng, uy tín và phẩm tước lớn nhất trong tỉnh Hà Tĩnh ạ!

Bấy giờ quan huyện mới như người mắc bệnh kinh phong, run lẩy bẩy chắp hai tay lạy cụ Trứ như tế sao: Bẩm lạy cụ lớn! Vì con mới đến nhận chức ở quý huyện, chưa có dịp yết kiến nên chưa được biết cụ lớn. Nay con trót đã phạm tội lỗi nặng nề đối với cụ lớn. Trăm lạy cụ lớn mở lượng khoan hồng, con nguyện xin suốt đời làm tôi tớ. Xin cụ lớn tha cho con.

– Tôi bắt tội, bắt tình quan huyện làm chi? Quan huyện bắt tôi khiêng quan từ đâu đến đây, thì bây giờ quan phải khiêng tôi từ đây tới đó, thế là công bằng. Còn cái cuốc của tôi, quan quăng đi, thì quan tìm mà trả lại cho tôi, thế là xong việc. Cụ Trứ nói.

– Con xin khiêng cụ lớn tới nơi cụ lớn cuốc cỏ khi hồi. Còn cái cuốc, con trót quăng xuống sông cái, nước sâu quá con không thể lặn xuống tìm được, con xin mua cái mới tốt hơn đền cho cụ lớn ạ. Viên quan huyện nài nỉ.

– Không được! Hơn ba năm nay, với cái cuốc xấu xí, cũ kỹ ấy, tôi đã cuốc cỏ cho bò ăn, và cuốc rau má cho tôi cùng người nhà tôi ăn, tình nghĩa giữa tôi và cái cuốc sâu đậm biết chừng nào! Người ta ở đời, có gì đáng quý bằng tình nghĩa hay không? Nay quan ỷ thế nhiều tiền nhiều bạc, vứt cuốc tôi xuống sông, để rồi mua cái khác đền lại. Tiền bạc thì quan có thể bồi thường được, còn tình nghĩa giữa tôi và cái cuốc thì có thể lấy tiền bạc mà bồi thường được không?

– Bẩm lạy cụ lớn! Con lỡ làm một việc tội lỗi tày trời đối với cụ lớn, bây giờ con hối hận lắm. Rất mong cụ lớn thương hại con là đứa hậu sanh có khác nào đứa con út của cụ lớn.

– Đành rằng quan không biết tôi là Nguyễn Công Trứ, nhưng quan vẫn thấy tôi là người già nua, tóc bạc đó thôi. Cái chức Thượng thư của tôi là thân ngoại chi vật, quan muốn biết hay không muốn biết, là tùy quan. Nhưng cái đầu bạc trắng của một người gần tám mươi tuổi, thì mọi người trông thấy, không có lý gì mà quan không thấy? Đối với tôi mà quan còn hách dịch đến thế, thử hỏi đối với những người dân đen thấp cổ bé họng thì quan sẽ tác oai tác quái đến độ nào? Nay, nếu tôi dung thứ cho quan, thì vô tình tôi đã “trợ Kiệt vi ngược”. Vậy nên tôi sẽ trình báo minh bạch lên Đường quan tỉnh Hà Tĩnh chuyển trình về bộ Lại và triều đình xét xử, để làm gương cho những quan lại xấu xa quen hiếp đáp lương dân vô tội.

Nghe nói, quan huyện càng tái mặt, ấp úng không nên nửa lời.

Cụ Trứ nói tiếp: Bây giờ quan hãy khiêng tôi trở lại nơi tôi đang cuốc cỏ khi hồi.

Quan huyện cúc cung ghé vai võng cụ Thượng Trứ đi trở lại nơi cũ, trước những con mắt hiếu kỳ của nhân dân địa phương. Còn con bò của cụ Trứ vẫn được người lính lệ dắt đi theo. Tới nơi, cụ bảo dừng võng lại, thung dung bước xuống đất, nhìn con bò bị đói cỏ, rồi nói:

– Quan huyện đã làm xong một việc rồi, bây giờ còn một việc nữa là tìm cái cuốc của tôi cho kỳ được, đoạn cụ lấy tay chỉ xuống sông Lam.

Quan huyện chắp hai tay vái dài, khóc nức nở không còn biết xấu hổ, thể diện nữa. Bấy giờ, cụ Thượng Trứ mới nghiêm nghị nói: Thôi được, tôi tha cho quan một lần!

Lời bàn:

Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ quả là lắm thăng trầm và đầy giai thoại, song giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, bản lĩnh trí tuệ và mang tính bình dân sâu sắc. Sinh thời, Nguyễn Công Trứ rất tin vào tài năng của mình, với khát vọng lớn lao: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Là một ông quan, Nguyễn Công Trứ giữ đúng “thanh, cần, thận, trực”. Là một con người, ông có đủ trung, dũng, nhân, trí, tín. Ông là một phẩm cách cao đẹp, luôn luôn nhập thế, luôn luôn hành động vì cuộc đời, vì con người.

Nguyễn Công Trứ đã tạc “tượng đồng bia đá” trong lòng mọi thế hệ không bởi con đường thăng quan hoạn lộ, mà bằng chính sự nghiệp công danh cứu dân giúp đời. Và có lẽ từ thượng cổ tới nay chắc duy nhất chỉ có Nguyễn Công Trứ mới có đủ bản lĩnh làm như vậy với người có chức, có quyền trong xã hội. Đây cũng là cách mà Nguyễn Công Trứ giúp đời dạy cho những kẻ hống hách chỉ biết hạch sách dân. Ai chưa tin xin cứ suy ngẫm kỹ thì sẽ rõ.





Cleopatra (1963)....

 



Cleopatra (1963) là bộ phim duy nhất trong lịch sử có doanh thu cao nhất năm nhưng vẫn lỗ nặng. Mãi đến năm 1973, 10 năm sau khi ra mắt, bộ phim mới hòa vốn. Kinh phí tăng vọt từ 2 triệu USD ban đầu lên tới 31 triệu USD, quá trình sản xuất suýt nữa khiến hãng 20th Century Fox phá sản, còn nữ chính Elizabeth Taylor tí thì mất mạng.


Quay phim đúng vào mùa đông khắc nghiệt của phim trường nước Anh, những cơn mưa dai dẳng đã phá hỏng phim trường rộng lớn, khiến Taylor mắc bệnh viêm phổi nghiêm trọng. Sau khi tạm dừng quay phim nhiều tháng để Taylor hồi phục, đoàn phim quyết định chuyển địa điểm tới Rome ấm áp hơn, đồng nghĩa 70 bối cảnh phải xây lại từ đầu.

Cho rằng người La Mã cổ đại thiếu tham vọng, phim trường xây mới đã được mở rộng...gấp ba lần kích thước ban đầu, cao hơn 500 mét và rộng hơn 300 mét. Công trình đồ sộ này lớn đến mức suýt khiến Italy cạn kiệt nguyên liệu xây dựng.

"Ăn chơi không sợ mưa rơi" bộ phim còn phá kỷ lục xa hoa ở nhiều khía cạnh khác. Cảnh quay thể hiện quy mô hạm đội tàu chiến của Cleopatra sử dụng nhiều tàu bè đến mức người ta đồn rằng hãng phim 20th Century Fox có hạm đội lớn thứ 3 thế giới.

Flop về mặt thương mai, Cleopatra chí ít cũng giành được 4 giải Oscar, trong đó có giải Thiết kế Mỹ thuật xuất sắc cho bối cảnh ấn tượng. Tác phẩm đã trượt Giải Phim hay nhất.

Nguồn: Ổ Phim



Cận cảnh Eshima Ohashi: Cây cầu đáng sợ nhất Nhật Bản

Eshima Ohashi được nhiều người gọi là cây cầu đáng sợ nhất tại Nhật Bản, thậm chí là đáng sợ nhất thế giới. Tuy nhiên, kể từ khi khánh thành thì cây cầu này lại thu hút rất nhiều người dân và khách du lịch vì kiến trúc sáng tạo.

Khởi công vào năm 1997 và chính thức đi vào hoạt động năm 2004, ai nhìn từ xa cũng không khỏi hốt hoảng vì độ dốc quá khủng, gần như là thẳng đứng. Điểm cao nhất so với mực nước biển là 45m, sở dĩ cầu Eshima Ohashi được xây cao như vậy để cho những chiếc tàu lớn có thể đi qua phía dưới, khách qua cầu chỉ được phép chạy tối đa 40km/h để đảm bảo sự an toàn.

Cầu Eshima Ohashi được chia thành 2 làn xe chạy, tổng chiều dài là 1700 m, gầm cầu dài tới 1500m còn chiều rộng là 11,3m. Cây cầu dốc nhất thế giới từng xuất hiện trong một quảng cáo ô tô của hãng Daihatsu, mỗi ngày có khoảng 14.000 lượt xe lưu thông trên cầu Eshima Ohashi.

Nhiều người đã ngạc nhiên khi nhìn thấy chiều cao và độ dốc của cầu Eshima Ohashi qua những tấm hình được lan truyền trên Internet, thậm chí việc tưởng tượng đi trên cây cầu này cũng khiến nhiều người cảm thấy sợ.
Nhìn từ xa, cầu Eshima Ohashi có độ dốc khá lớn và việc chạy xe lên cầu dường như là điều bất khả thi. Tuy nhiên, mặc dù trông đáng sợ nhưng cây cầu Eshima Ohashi thực sự khá an toàn.

Trên thực tế, chiều cao và độ dốc ‘khủng’ của cầu Eshima Ohashi đều là do góc nhìn. Nếu nhìn trực tiếp từ xa thì cây cầu khá đáng sợ nhưng khi nhìn từ một góc độ khác, cầu Eshima Ohashi lại giống như những cây cầu thông thường.

Sau khi những tấm hình chụp cầu Eshima Ohashi được lan truyền trên mạng, rất nhiều người dân và khách du lịch từ khắp nơi đã đến đây để ngắm nhìn và chụp ảnh cây cầu ‘đáng sợ’ này.

Sưu tầm - Tổng hợp

Ngai Của Hoàng Đế Ngày Xưa Có Được Làm Từ Vàng Thật?

Ngai vàng của nhà vua ngày xưa được thếp vàng ở những chỗ chạm trổ hoa văn. Đây là quá trình trang trí rất kỳ công, đòi hỏi thợ có tay nghề cao.


Theo Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế, ngai vàng của vua chúa ngày xưa không phải được làm từ vàng hoàn toàn, mà bằng gỗ được sơn son thếp vàng. Sơn son được chế ra từ nhựa cây sơn ở nước ta. Thếp vàng là trang trí dán lớp vàng lá, vàng quỳ dát mỏng lên mặt các vật dụng bằng gỗ, đá, đồng… để tạo màu vàng tự nhiên, có ánh kim bắt mắt và sang trọng. Ngai vàng của nhà vua ngày xưa được thếp vàng ở những chỗ chạm trổ hoa văn. Đây là quá trình trang trí rất kỳ công, đòi hỏi thợ có tay nghề cao.


Hiện nay, duy nhất ngai vàng của triều Nguyễn còn tồn tại. Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, chiếc ngai cao 101 cm, rộng 72 cm, dài 87 cm. Phần đế dài 118 cm, rộng 90 cm, cao 20 cm. Phía trên ngai có bửu tán thếp vàng lộng lẫy. Tất cả đều được làm bằng gỗ với các hình ảnh trang trí rồng mang ý nghĩa cầu phúc, thọ, may mắn.


Theo Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế, ngai vàng triều Nguyễn được chế tác dưới thời vua Gia Long (1802-1819), sau đó được sử dụng xuyên suốt trong thời Nguyễn với tổng cộng 13 đời vua, kéo dài trong 143 năm.


Trong suốt 143 năm của triều Nguyễn, một lần ngai vàng được trùng tu dưới thời vua Khải Định (1916-1925). Khi làm vua, ông cho làm lại bửu tán phía trên ngai, chuyển từ chất liệu gấm lụa sang gỗ sơn son thếp vàng và chạm khắc tinh xảo


Theo Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế, hiện nay, ngai vàng được gìn giữ trong điện Thái Hòa, thuộc khu vực Đại nội của kinh thành Huế. Tháng 1/2016, ngai vàng được xếp hạng bảo vật quốc gia.


Dục Đức là vua có thời gian ngồi trên ngai vàng triều Nguyễn ít nhất: 3 ngày. Tự Đức (1829-1883) ngồi trên ngai vàng triều Nguyễn lâu nhất, 36 năm (1847-1883).



Vua cuối cùng ngồi trên ngai vàng triều Nguyễn là Bảo Đại. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Bảo Đại thoái vị, triều Nguyễn cáo chung, sứ mệnh của chiếc ngai vàng cũng khép lại. Điều đặc biệt là trong 143 năm tồn tại của nhà Nguyễn, chiếc ngai vàng tại điện Thái Hòa chưa bao giờ bị di chuyển khỏi vị trí ban đầu. Đến nay, ngai vàng triều Nguyễn là hiện vật độc bản có giá trị lịch sử, văn hóa và mỹ thuật.

Sưu tầm



Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2024

DUNG NHAN MÙA HẠ




 

Những món ăn lừng danh ở miền gái đẹp Tiền Giang

 


Hủ tiếu Mỹ Tho, bún gỏi già hay chả nướng chợ Gạo là những món ăn nhất định bạn nên thử khi đến thăm Tiền Giang.

Hủ tiếu Mỹ Tho

Có lẽ món ăn được nhắc đến đầu tiên khi nhớ về miền đất Tiền Giang chính là hủ tiếu Mỹ Tho – một trong ba thương hiệu hủ tiếu nức tiếng nhất, bên cạnh hủ tiếu Sa Đéc và Nam Vang. Vào bất cứ tiệm bán hủ tiếu nào ở Mỹ Tho cũng sẽ nhìn thấy trên bàn ăn những thứ lỉnh kỉnh như: lọ nước mắm, tương xì dầu, tương ớt, tương đen, chanh, giá sống, ớt hiểm, tỏi, ớt sừng trâu xắt xéo màu xanh, vàng, đỏ. Rổ rau thường có ngò gai, quế là những thứ không bao giờ thiếu.


Bí quyết làm nên sợi hủ tiếu ngon ở Mỹ Tho là gạo Gò Cát thơm dẻo. Ảnh: I.T

Đặc điểm của hủ tiếu Mỹ Tho là cọng nhỏ, khô, dai dai, hương vị hơi chua, mang nét đặc trưng không lẫn với hủ tiếu ở nơi nào khác. Những tiệm hủ tiếu ngon “số dzách” ở Mỹ Tho có thể đếm trên đầu ngón tay. Một tiệm hủ tiếu Mỹ Tho ăn ngon, bao giờ cũng kèm theo bánh mì, hoành thánh, hai món chiến lược rất khoái khẩu của người Hoa.

Bí quyết làm nên sợi hủ tiếu ngon ở Mỹ Tho là gạo Gò Cát thơm dẻo. Ở Tiền Giang, món hủ tiếu thường gồm có tôm, mực, gan heo, lòng, tim, gan, hoành thánh, sườn… Nước dùng ngon phải là loại đậm vị nước hầm xương, tôm khô và mực nướng, pha một chút vị của củ cải thanh thanh.

Bún gỏi già

Chỉ riêng cái tên món ăn này cũng đủ khiến bạn tò mò. Món ăn này làm từ tôm, me chua, tương xay, bún, tôm tươi, sườn non, thịt ba chỉ thái sợi, chan nước lèo và ăn cùng nhiều loại rau sống phong phú như húng, bắp chuối, hẹ, giá, rau muống chẻ. Bún gỏi già thực ra cũng hao hao giống bún mắm.Nói là giống, nhưng vị của nó khác nhau xa. Bún mắm và bún gỏi già có chung nguyên liệu là mắm cá. Bún gỏi phải nấu chung với me, mới cho ra vị nước lèo chua chua ngọt ngọt ăn không ngán là vì vậy.


Món ăn này ngon là nhờ hương vị của hẹ. Ảnh: I.T

Đặc biệt, món ăn này chỉ ăn chung với tép là ngon nhất. Tép bạc, tép lột, hay tôm sú lột đều được cả. Những con tép đỏ au, được lột vỏ kỹ càng trông hấp dẫn. Bún gỏi già chua chua ngọt ngọt ăn ghém với rau muống và bông chuối bào... Nhưng món ăn này ngon lànhờ hương vị của hẹ.Thêm nữa phải có nước chấm đặc biệt nó là nước cốt mắm cá linh nguyên chất, rất thơm và có vị ngọt đậm đà.

Chả nướng chợ Gạo

Chả nướng chợ Gạo là một trong các đặc sản Tiền Giang mà người đi xa luôn nhung nhớ. Món ăn được làm vào dịp giỗ chạp hay lễ tết với các nguyên liệu như thịt nạc vai, hành tím, tỏi, trứng vịt, bánh tráng, lá chuối, các loại rau ăn kèm… Thịt luộc chín thái mỏng, xào với hành tỏi cho thơm rồi trộn chung với trứng vịt, tỏi, tiêu, nước mắm, hạt nêm.

Người Tiền Giang nướng chả bằng nồi gang để mẻ chả chín đều và chín từ trong. Đặc biệt, người ta phải lót lá chuối dưới đáy nồi để lấy được miếng chả ra dễ dàng, không bị xát, hơn nữa lại dậy mùi thơm mát. Chả được nước bằng than là ngon nhất, miếng chả chín thái ra, cuộn cùng bánh tráng, rau thơm và chấm nước mắm chua ngọt.

Vú sữa Lò Rèn


Mùa vú sữa thường khoảng tháng 9 đến tháng 4 âm lịch năm sau. Ảnh: I.T

Miệt vườn miền Tây nổi tiếng với các loại hoa trái sum sê, quả ngọt, trái thơm. Một trong số đặc sản được nhớ tới nhiều nhất chính là vú sữa Lò Rèn (Tiền Giang). Cũng là trái vú sữa chín nhưng ruột bên trong trắng tinh, mọng nước, vị ngọt thanh và hương thơm mát nhẹ nhàng.

Bên ngoài quả vú sữa căng bóng, quả to, tròn và nặng. Mùa vú sữa thường khoảng tháng 9 đến tháng 4 âm lịch năm sau. Ngày nay, vú sữa Lò Rèn được thương lái mang đi muôn nơi và được khách hàng yêu thích.

Chuối quết dừa

Chuối quết dừa là món ăn vặt khá lạ miệng có xuất xứ từ Tiền Giang. Mùi vị giản dị, ngọt ngào, thơm bùi, dùng với nước chấm chua ngọt pha từ nước mắm chanh, tỏi, ớt hiểm, nước cốt dừa. Để làm món ăn này, người ta luộc chuối đến chín dẻo, vàng thơm, trộn với dừa nạo, dứa thái lát, giã trong cối cho tới khi nhuyễn rồi thêm muối đường cho hợp vị. Khi ra thành phẩm, món ăn vừa béo bùi vị dừa nạo, ăn kèm bánh tráng, các loại rau vườn và nước chấm tạo nên mùi vị là lạ, vừa mặn vừa ngọt vừa cay thơm.

Sam biển Gò Công

Tháng 10 tới tháng 2 âm lịch năm sau là mùa sam biển ở Gò Công. Khi đó, con sam cái đang có nhiều trứng có thể chế biến thành nhiều món ngon. Trứng sam béo thơm, bổ dưỡng, màu vàng ươm, được nướng cho tới khi chín, mùi thơm ngào ngạt. Món ăn này được dùng cùng bưởi chua, củ cải chua, rau thơm, lạc rang, hành phi, chấm với mắm chanh tỏi ớt. Sam biển cũng có thể chế biến ra nhiều món khác ngon không kém như canh chua sam nấu với các loại rau.

Theo Dân Việt. VN








Siêu tàu dài nhất thế giới đã thành sắt vụn.

Dài hơn 458m với sức chở hơn 564.000 tấn hàng, Seawise Giant là con tàu dài, lớn và nặng nhất thế giới từng được sản xuất cuối thập niên 1970 đã trở thành sắt vụn.

Con tàu thậm chí dài hơn tháp Eiffel và tòa nhà Empire State. Sàn tàu có diện tích lớn hơn 6 sân bóng đá, theo Andrew Boyd, chuyên gia kỹ thuật công nghiệp ở Đại học Houston. Con tàu khổng lồ ra khơi trong hơn hai thập kỷ. Khi ngừng hoạt động, 18.000 công nhân mất hơn một năm để tháo dỡ tàu và biến nó thành đống sắt vụn, theo Interesting Engineering.

Cuối thập niên 1970, công ty đóng tàu Sumitomo Heavy Industries ở Tokyo nhận được đơn hàng đóng một siêu tàu chở dầu đồ sộ từ một thương nhân Hy Lạp. Năm 1979, khi tàu sắp hoàn thành, thương nhân đó đã rút lui. Một số nguồn tin cho rằng ông bị phá sản trong khi nguồn khác tiết lộ ông đã đổi ý. Tuy nhiên, lý do phía sau quyết định không mua Seawise Giant của ông vẫn không được tiết lộ.

Hai năm sau, Tung Chao Yung, người sở hữu công ty vận chuyển hàng hóa Orient Overseas Container Line (OOCL), liên lạc với Sumitomo. Ông bày tỏ hứng thú mua lại siêu tàu chở dầu nhưng với một điều kiện. Yung muốn con tàu lớn hơn và nhà đóng tàu Nhật Bản đồng ý. Cuối cùng, khi công ty của Yung nhận bàn giao siêu tàu chở dầu, nó dài 458m. Chỉ riêng bánh lái đã nặng tới 230 tấn. Chính Yung đặt cho con tàu tên gọi "Seawise Giant".

Siêu tàu chở dầu này lớn đến mức nếu một thủy thủ cần chuyển hướng tàu, anh ta sẽ cần khu vực trống rộng ít nhất 7.042km2. Ngoài ra, nếu tàu di chuyển ở tốc độ tối đa 30,5 km/h và thuyền trưởng muốn dừng lại, họ sẽ phải đi thêm 9km trước khi tàu đi chậm lại và dừng hẳn. Việc dừng đột ngột một tàu lớn như Seawise không thực tế và an toàn trong khi di chuyển. Đó là vì quán tính tạo bởi kích thước ngoại cỡ của tàu có thể rung lắc mọi thứ bên trong. Tuy nhiên, Seawise Giant vẫn là tài sản giá trị đối với OOCL. Trong 7 năm tiếp theo, công ty thường xuyên sử dụng con tàu để vận chuyển dầu thô giữa Mỹ và Trung Đông.

* Cái chết và sự hồi sinh của Seawise Giant

Mọi thứ thay đổi đối với Seawise Giant năm 1988. Đó là năm Iraq và Iran có chiến tranh. Ngày 14/5/1988, con tàu chở đầy dầu thô của Iran chuẩn bị khởi hành từ đảo Larak, Iran thì Không quân Iraq bắt đầu thả bom và tên lửa trong khu vực. Dầu thô trong bình chứa trên tàu Seawise Giant bắt lửa và đám cháy lan ra cả tàu chỉ trong thời gian ngắn. Tàu gặp thiệt hại nghiêm trọng và cuối cùng bị chìm.

Khi chiến tranh qua đi, OOCL chịu tổn thất nặng nề do vụ đắm tàu Seawise Giant. Họ biết nơi con tàu bị chìm nhưng vẫn để nguyên trạng do kết quả phân tích cho thấy việc trục vớt và sửa chữa siêu tàu chở dầu không khả thi về mặt kinh tế. Tuy nhiên, một công ty Na Uy khác là Normal Internation nhìn thấy cơ hội lớn. Họ quyết định kéo lên, sửa chữa và sở hữu con tàu với chi phí hàng triệu USD. Cuối cùng, họ có thể sửa xong con tàu, sử dụng 3.700 tấn thép. Họ cũng đổi tên tàu thành Happy Giant. Dù vậy, Normal International chỉ giữ con tàu trong thời gian ngắn khi nhiều ông lớn bày tỏ hứng thú mua lại.

* Sự trở lại của Seawise Giant

Năm 1991, Normal International nhận được một đề nghị cực hấp dẫn. Jørgen Jahre, một ông lớn trong ngành vận chuyển ở Na Uy trả họ 39 triệu USD để mua lại Happy Giant và đổi tên thành Jahre Viking. Không lâu sau, con tàu hoạt động trở lại trong ngành vận chuyển dầu. Công ty của Jahre thuê đội thủy thủ đoàn 40 thành viên do thuyền trưởng Surrinder Kumar Mohan chỉ huy. Họ vận hành thành công con tàu trong 10 năm tiếp theo.

Tuy nhiên, những quy định thương mại đường biển thay đổi theo thời gian. Đầu thập niên 2000, các công ty vận chuyển chuyển từ tàu lớn, cũ và chậm sang tàu nhỏ, nhanh và linh hoạt. So với tàu hiện đại, Jahre Viking cần nhiều nhiên liệu hơn và có chi phí vận hành cao hơn. Ngoài ra, do chiều dài, nó không thể di chuyển dễ dàng và nhanh chóng qua những tuyến đường thông thương quan trọng nhưng hẹp như kênh đào Panama và Suez. Tất cả thách thức đó cuối cùng buộc Jahre phải bán con tàu lớn nhất thế giới cho First Olsen Tankers.

* Hành trình cuối cùng của con tàu dài nhất

First Olsen Tankers tiếp nhận con tàu năm 2004. Họ đổi tên nó thành Knock Nevis và sử dụng trong 5 năm làm cơ sở lưu trữ cố định ở mỏ dầu Al Shaheen tại Qatar. Cuối cùng, khi tàu không còn phù hợp để lưu trữ bình chứa dầu, nó được bán cho một xưởng phá dỡ tàu ở Gujarat, Ấn Độ, và đổi tên thành Mont. Không lâu sau, Seawise Giant thực hiện hành trình cuối cùng và tới đích vào tháng 12/2009. Năm tiếp theo, 18.000 công nhân tham gia tháo dỡ nó. Phần duy nhất của siêu tàu chở dầu còn tồn tại hiện nay là mỏ neo nặng 36 tấn, trưng bày ở Bảo tàng hàng hải Hong Kong.
===========
Tàu Seawise Giant chuyên vận chuyển dầu mỏ trên biển. (Ảnh: Orbitshub).

Hầm Hỏa Xa Tháp Chàm – Đà Lạt Chỉ Còn Là Phế Tích

Nhân một chuyến đi từ Phan Rang lên Đà Lạt, tôi có ghé thăm đường hầm hoả xa, nơi này ngày xưa tuyến đường sắt răng cưa đi từ Tháp Chàm (Phan Rang) lên Đà Lạt. Loại đường sắt này hình như trên thế giới chỉ có 2 nơi có, một là Thuỵ Sĩ và hai là Đà Lạt. Do địa hình đèo dốc nên đã tạo ra một sự độc đáo, vì phải leo lên độ cao rất lớn trên đường ray nên người ta phải tạo thêm một đoạn răng cưa giúp tàu hoả có điểm tựa bám chắc vào đường ray để lên đèo. Sau này do nhiều lý do nên tuyến đường này bị bỏ hoang và người ta cũng đã tháo đường ray để …. bán ve chai.

Hiện nay muốn tham quan nơi này, quý vị có thể ghé quán cafe Hầm Hoả Xa order nước rồi men theo triền đồi xuống tham quan (phải mua nước mới cho xuống tham quan nhé) . Đường hầm dài gần khoảng vài trăm mét, được xây dựng rất kiên cố nên dù hiện tại nó đã xuống cấp trầm trọng nhưng ta vẫn thấy được độ tinh xảo và chắc chắn của nó. Một chút hình ảnh gửi đến quý vị ….









Sưu tầm



"ĐỂU CÁNG" CÓ NGHĨA LÀ GÌ?
Ngày xưa mỗi khi đi đâu, chưa có xe cộ sẵn như bây giờ, là người ta phải thuê người cáng đi – nhất là người có tuổi, người ốm. Còn đồ đạc mang theo lại phải thuê người gánh. Người cáng thuê, người ta gọi là CÁNG, còn người gánh thuê, người ta gọi là ĐỂU.
Mỗi lần gọi người đưa đi như thế, thường người ta ra đầu đường – nơi tập trung những người làm nghề đó, gọi “Cho một ĐỂU, hai CÁNG nhé!” và thế là sẽ có ba người te tái chạy vào, hai người vác theo một cái cáng, còn một người mang theo đòn gánh quang gánh.
Hầu hết Đểu và Cáng là những người lao động chân tay, ít được học hành, nên cái sự ăn chia nó thường không đều, hoặc không vừa ý với nhau, dẫn đến cãi nhau, đánh nhau, chửi nhau khi chia tiền là việc xảy ra như cơm bữa. Cứ như thế mà dân gian mới có câu “Đối xử với nhau như cái bọn ĐỂU CÁNG!”.
Do từ “đểu” theo nghĩa là người gánh thuê hoặc nghề gánh thuê là từ cổ, người ta không còn biết được cái nghĩa cổ xưa của nó nên đưa từ Đểu nghĩa là gian manh vào luôn từ ghép đểu cáng, biến ý nghĩa của hai từ này thay đổi theo như cách hiểu hiện nay.
Chú thích
(1) Ngoài đểu cáng, ta còn có thể sử dụng đểu giả hoặc chỉ dùng mỗi từ đểu cũng đã thể hiện được nghĩa gian manh, lừa lọc. Điều đó cho thấy cáng thực chất chỉ là từ ký sinh.
ẢNH KIỆU VÕNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM NĂM 1898 CỦA NHÀ NHIẾP ẢNH ANDRÉ SALLES, ẢNH ĐƯỢC XỬ LÝ MÀU.
Nguồn: Quảng Long


BÁNH SÂM-BANH CỦA NGÀY XƯA...
Có loại bánh nào mà khi các bạn cắn một miếng, nhắm mắt lại thưởng thức thì cảm xúc tuổi thơ ùa về không?
Với tui thì có, đó là một loại bánh thon nhỏ như những ngón tay, ăn rất giòn, thơm ngậy mùi vị của trứng và đường.
Đó là bánh… sâm-banh.
Champagne được phủ một lớp đường mỏng, rất xốp và có màu vàng nâu.
Ngày xưa lúc còn nhỏ, chắc các bạn nhỏ cũng như tôi, hễ đi ngang tiệm tạp hóa nào ngó con mắt vô dãy các hũ thủy tinh có nắp đậy, đựng ê hề như bánh men, bánh con ngựa dính cục đường mà, bánh hạnh nhân, bánh tây lạt, bánh lỗ tai heo,... và có cả bánh sâm-banh, thì vét túi tới một đồng, năm cắc cuối cùng để mua hai cái bánh sâm-banh thưởng thức".
Nếu hôm nào má mua về một bịch bự, phát đều cho anh em rồi, mà có đứa cũng len lén… ăn vụng.
Những thứ bánh mà cứ gọi tên lên là những kí ức ngày xưa đẹp đẽ, thơm phức trong gian nhà cũ, trong sân trường xưa lại về.
Trong khung cảnh thần tiên ấy, hiện ra những nụ cười tươi vui.
Bây giờ thời đại của chúng ta có rất nhiều loại bánh tuyệt ngon từ khắp nơi trên thế giới, nhưng không thể nào có ấn tượng như ngày xưa!

(Nguồn : Một chút đáng yêu!)
Sưu tầm.