a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.
Hiển thị các bài đăng có nhãn SUU TAM. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn SUU TAM. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2024

Ngày Xuân Nhàn Luận Truyện Kiều

 



Tuy truyện Kiều đã hơn 200 năm, vẫn có vài đề tài thường hay được bàn luận và một số câu hỏi được nêu ra. Nếu bạn đọc muốn biết nàng Kiều bao nhiêu tuổi khi câu chuyện bắt đầu, thằng bán tơ là ai, truyện Kiều của Nguyễn Du khác với tiểu thuyết Kim Vân Kiều của Trung quốc như thế nào, Kiều đánh loại đàn gì, « vành ngoài bảy món, vành trong tám nghề » là nói về cái gì, giá mua nàng Kiều là lượng vàng hay lượng bạc, thì mời bạn đọc tiếp.
1. Thúy Kiều bao nhiêu tuổi khi gặp Kim Trọng? Đề tài này cũng được nhiều vị tiền bối như Tản Đà, Lê Văn Hòe, v.v. và các văn thi sĩ bàn tán trên mạng. VT cũng xin góp kiến giải của mình. Nhưng trước hết, chúng ta chỉ nên dựa theo truyện Kiều, chứ cũng không cần tra xét nhân vật Kiều trong lịch sử, hay tìm hiểu từ truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân. Đây là tác phẩm Kiều của Việt-Nam và chúng ta muốn hiểu ý của thi hào Nguyễn Du là thế nào. Đa số học giả dựa theo câu thơ này để kết luận nàng Kiều bao nhiêu tuổi:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”.
Tuổi cập kê là tuổi cài trâm, theo câu thơ ““Nữ tử thập hựu ngũ niên nhi kê” “ trong Kinh Lễ là 15 tuổi. Cho nên nhiều người cho rằng từ câu thơ này mà nói nàng Kiều sắp 15 tuổi, mình hãy cho là 15 đi cho chẵn. Chính vì vậy rất nhiều điểm trong truyện Kiều nghe không thông suốt.. Kiều phải lớn hơn Vương Quan ít nhất 3 tuổi. Nếu ba năm sinh ba người thì Vương Ông cũng là quá hăng đi, cho nên để hợp tình hợp lý chút, Kiều nên lớn hơn Vương Quan ít nhất 3 tuổi chứ không phải là 2. Vậy giả thuyết Kiều 15, Thúy Vân 14, và Vương Quan 12. Kim Trọng một thân một mình đi hộ tang đất Liêu Dương, lại nghĩ đến “chày sương chưa nện cầu Lam”, “xem trong âu yếm có phần lả lơi”, để Kiều từ chối và nhắc truyện Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh, thì chàng Kim nên tối thiểu là 17 tuổi trở lên. Vương Quan dù là thần đồng đi nữa với tuổi 12 thì quá nhỏ để kết giao thân tình với chàng Kim.
Nếu Thúy Kiều chỉ mới 15 tuổi, thì tuổi của bé Quan nghe không thông tí nào, mới 12 làm sao đã biết rành chuyện phong tình của Đạm Tiên. Xét theo lối cư xử của Thúy Kiều, đi tìm chàng Kim ban đêm, “vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa” , và so chàng Kim với hoa đẹp ( hoa đẹp không phân giới tính nam/nữ) , và quyết định bán mình cứu gia đình, thì nàng Kiều cũng nên xấp xỉ 17 tuổi trở lên và Vương Quan khoảng 14, như vậy thì kết giao với chàng Kim mới nghe thông, và có bị “đám ruồi xanh” đeo gông vào cổ cũng không đến nỗi quá mất tính người. Chả lẽ bọn côn an lại đeo gông vào cổ đứa bé nít mới 11,12 tuổi, treo lên cột nhà ư?.
Trở lại câu thơ trên: “Xuân xanh xấp xỉ, (đã) tới tuần cập kê”. Thơ Kiều của Nguyễn Du viết bằng chữ Nôm, giống Hán tự mà rắc rối hơn, cũng không có phẩy, chấm than, chấm hỏi, v.v. Nếu chúng ta thêm dấu phẩy vào sau chữ xấp xỉ, thì có thể hiểu là 2 nàng Kiều trạc tuổi gần bằng nhau và cũng “đã” tới tuần cập kê. Thiếu chữ “đã” cho người đọc thơ tự thêm vào. Chúng ta hãy xem những câu thơ này:
Nàng rằng: “Trước đã hẹn lời
Dẫu trong nguy hiểm (đâu) dám rời ước xưa.”
Trăng thề còn đó trơ trơ
(Đâu) Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng
Vì là thơ nên ý từ cô đọng, người đọc thơ nên hiểu tâm ý tác giả, ý tại ngôn ngoại, và tự nhiên thêm chữ vào cho hợp lý, chẳng thể đòi hỏi văn phạm giống như trong văn xuôi. Cho nên, câu thơ trên “ Xuân xanh xấp xỉ, (đã) tới tuần cập kê”. Thì hai nàng Kiều xấp xỉ hơn kém 1 tuổi và đă qua tuổi cập kê. Như vậy thì câu lục bát tiếp theo nghe lại càng hợp lý. “Êm đềm trướng rủ màn che / Tường đông ong bướm đi về mặc ai.” Nếu nhỏ hơn tuổi cập kê thì tất nhiên là nên lờ ong bướm rồi, không đáng đề cập tới. Mười sáu, 17 tuổi, vì con nhà gia giáo, lờ ong bướm thì mới làm cho đoạn thơ đó có ý nghĩa. Vậy, Thúy Kiều và Thúy Vân đã qua tuổi cập kê, thì Kiều nên khoảng 17, Vân 15, 16, Quan 14, thì tính chất, hành xử của những nhân vật trong truyện Kiều sẽ trở nên hợp tình hợp lý. Chàng Kim phải lớn hơn Kiều vậy thì khoảng 18, 19 là vừa.
2. Truyện Kiều của Nguyễn Du dựa cốt truyện “Kim, Vân, Kiều” của Thanh Tâm Tài Nhân (TTTN). Cốt truyện giống nhau khoảng 90 phần trăm. Cũng thuyết tài mệnh đối kỵ, cũng đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ. Truyện của TTTN kể tỉ mỉ về sự kiện vu oan của thằng bán tơ, giải thích rõ ràng “vành ngoài bảy món, vành trong tám nghề”, và cho nàng Kiều sổ thơ rất nhiều. Đoạn thuyết phục và những sự kiện dẫn đến Tư Hải nguyện ý đầu hàng, thì rất dài dòng, luộm thuộm. Một đoạn nhiều khác biệt nữa là sự trả thù của nàng Kiều. Tuy cốt truyện giống nhau, nhưng Nguyễn Du bỏ đi rất nhiều chi tiết của truyện Tàu, chắc cũng hơn 60 phần trăm và với tài văn chương của thi hào Nguyễn Du đã làm truyện Kiều thành kiệt tác, còn truyện văn xuôi của TTTN vẫn chỉ là một pho tiểu thuyết thường thường của Trung quốc.
Kể lể rõ về “vành trong tám nghề” làm giảm giá trị quyến sách rất nhiều. Những áng thơ Kiều hay tác giả TTTN thích sổ ra để khoe văn chương làm loãng câu chuyện mà thơ cũng không lấy gì làm hay cho lắm. Những chi tiết như thế đại thi hào Nguyễn Du của chúng ta chỉ lướt qua, rồi viết ra vài câu thơ kể chuyện rất truyền cảm, rất tuyệt vời để diễn tả tâm trạng, ý tưởng, đối thoại của nhân vật.
Hình phạt tả sự trả thù ở trong truyện của TTTN nghe rất dã man, và nàng Kiều truyện Tàu cũng không có độ lượng như nàng Kiều của Việt Nam mà tha cho Hoạn Thư. Sau khi được chàng Thúc hết lời nài nỉ, thì Kiều mới chấp thuận tha chết cho Hoạn Thư, nhưng vẫn phạt tội sống - cho treo lên đánh đòn thịt da tan nát, thoi thóp rồi mới cho thả về. Mẹ của Hoạn Thư thì được tha ngay sau khi bà quản gia nhà họ Hoạn từng giúp đỡ Kiều nhiều xin chịu tội giùm. Nhưng Mẹ Hoạn Thư vì sợ quá, về nhà rồi chết. Cảnh tra tấn, trừng trị bọn Mã Giám Sinh, Bạc Hạnh, Bạc Bà, Sở Khanh, mỗi người một vẻ, rất tàn khốc, nghe mà rợn người. Đoạn này Nguyễn Du chỉ nói sơ qua.
3. Nhắc đến trừng phạt Hoạn Thư, Kiều của VN hiền lành, độ lượng tha ngay :
Khen cho: “Thật đã nên rằng
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.”
Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên
Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay.
Có vài bản dịch qua Anh ngữ cho rằng Kiều nói câu « Tha ra thì cũng may đời / Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen » với Hoạn Thư. Tôi thì cho rằng đó là ý nghĩ trong lòng Kiều mà thôi. Vì có Từ Hải ở đó, nên Kiều tuy phải tỏ vẻ độ lượng, nhưng cũng không có lý do gì mà phải báo cáo cho Hoạn Thư biết là tôi không đánh cô vì sợ mang tiếng là nhỏ nhen. Kiều có quá đủ lý do để đánh Hoạn Thư vì HT cho người bắt cóc Kiều, đánh đập Kiều, và còn hành hạ tâm lý Kiều nữa khi bắt Kiều hầu hạ ở bàn tiệc «Bắt khoan bắt nhặt đến lời / Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay. »
Kiều muốn độ lượng thì cứ độ lượng há phải nói nguyên nhân sâu xa trong đó cho Hoạn Thư biết. Thiệt ra, một phần lớn Hoạn Thư được tha không bị chút trày da gì là do có chàng Từ ở đó.
4. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ nói rất sơ sài về thằng bán tơ. Thằng bán tơ thuộc băng đảng bọn cướp, vì bọn cướp căm tức chú của Kiều, nên khi bị bắt, họ vu oan cho gia đình Kiều. Cần phải có 300 lạng mới lo lót xong chuyện. 100 lạng đút lót quan lớn, 100 lạng cho bọn cướp đổi lời khai, còn 100 lạng cho bọn côn an, đám ruồi xanh đó.
5. Kiều đánh loại đàn gì ? Nói là hồ cầm nhưng hồ cầm là loại đàn gì. Cũng là một loại đàn tỳ bà, cũng 4 dây, khác đàn tỳ bà thông thường 1 chút. Còn chính xác khác như thế nào thì mình cũng không nhớ, không thấy gì quan trọng.
6. Nàng Kiều trong truyện văn xuôi của TTTN sổ thơ rất nhiều. Đây là một phần bản dịch bài thơ Kiều khi tái hội với Kim Trọng và ngỏ lời từ chối chuyện phòng the, làm 10 bài thơ đưa chàng Kim đọc, tôi thấy cũng không có gì hay. So với văn chương của thi hào Nguyễn Du thì thiệt là cách xa một trời một vực. Đọc 10 bài ngũ ngôn thấy cũng không gì hay, xin đăng một bài cho quý độc giả xem :
bài 8. Lòng người nào ai biết?
Người chết, thật vì thiếp.
Vì thế, sông Tiền Đường,
Một chết cho vẹn tiết.
7. “vành ngoài 7 món, vành trong 8 nghề” là gì ? Vành trong 8 nghề là những kỹ thuật phòng the của gái làng chơi để làm cho khách mê mẩn. Món đầu trong 7 món vành ngoài là món “khóc”, nước mắt của nữ nhân. Khóc để cho khách thấy thương xót. Món thứ 2 là “xén tóc” nghĩa là kỹ nữ rủ khách xén tóc mỗi người một chút rồi bện lại với nhau để tỏ ý “kết tóc se tơ”. Những món khác cũng là những thủ đoạn dùng tâm lý để làm khách cảm động và dụ dỗ khách làng chơi. Kể ra thì cũng chẳng có gì là hay ho nên thi hào Nguyễn Du gom lại một hai trang chữ thành nửa câu thơ lục bát “vành ngoài 7 món, vành trong 8 nghề.”
8. Giá Kiều bán mình là đơn vị lượng vàng hay lượng bạc ? Trong Truyện Kiều chỉ nói Kiều bán mình ngoài 400 lạng, nhưng không nói rõ là lạng vàng hay lạng bạc. Đơn vị trao đổi tiền bạc thời đó là dùng lượng bạc. Nhưng ý của Nguyễn Du là lượng vàng hay lượng bạc ? Lượng bạc thì làm mất giá nàng Kiều của Việt Nam ta quá. Một lượng vàng cũng hơn cả trăm lượng bạc thì phải. Trong thơ Kiều có mấy câu như sau :
« Cò kè bớt một thêm hai / Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm »
« Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao », « Mối rằng : Đáng giá nghìn vàng »
« Thân ngàn vàng để ô danh má hồng », « Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân! »
« Tiếc thay lưu lạc giang hồ / Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài!”
Từ nàng Kiều đáng giá nghìn vàng hay là ngụ ý vô giá, mà nếu bán mình chỉ có vài trăm lượng bạc, thì quả thật quá rẻ tiền. Xem những câu thơ trên, hẳn là nàng Kiều nên được mua với giá lượng vàng thì chắc hợp ý với Nguyễn Du hơn. Dù sao cũng là truyện thơ « mua vui cũng được một vài trống canh », tác giả hẳn cũng không quan tâm tình tiết phải đối chiếu với hiện thực ngoài đời.
Vương Thanh / 12/2022, 02/2024


CHIA SẺ BÀI VIẾT QUÁ HAY TRÊN FACEBOOK CỦA TONY

Thập niên 60, Hàn Quốc là 1 trong những nước nghèo nhất châu Á. Năm 1968, người Hàn Quốc quyết định thay đổi giáo dục bằng cách bê nguyên sách giáo khoa của người Nhật về dịch sang tiếng Hàn và giảng dạy, ngoại trừ các môn xã hội như địa lý, lịch sử và văn học. Lúc đó cũng có nhiều người chỉ trích vì tính sĩ diện của người Hàn Quốc rất cao, lẽ nào lại không tự soạn được một bộ sách giáo khoa. Nhưng họ vẫn quyết tâm thực hiện, vì để có chương trình giáo dục đó, người Nhật đã mất cả trăm năm cải biến từ cách đào tạo của giáo dục phương Tây phù hợp với đặc trưng châu Á, bắt đầu từ thời Minh Trị Thiên Hoàng [Emperor Meiji Period].
Ðể rút ngắn thời gian, chẳng có cách nào ngoài việc lấy kinh nghiệm của người khác, để còn lo việc khác nữa. Vì Hàn Quốc muốn trở thành một bản sao mới của Nhật, nền kinh tế dựa trên lòng tự hào dân tộc, tính kỷ luật và đạo đức của toàn thể xã hội.
Ðúng 20 năm, đến 1988, Hàn Quốc đăng cai Olympic Seoul, cả thế giới không ai tin vào mắt mình khi thấy kỳ tích bên bờ sông Hàn lại khủng khiếp như thế. Ô-tô, xe máy, dệt nhuộm, hoá chất, đóng tàu, điện tử, bánh kẹo...bên Nhật có cái gì thì bên này có cái đó, dù dân số chỉ bằng 1/3. Không ai biết trong 20 năm đó, cả dân tộc Hàn Quốc đã nắm chặt tay với quyết tâm thoát nghèo như thế nào.
Trên Tivi chỉ có 2 chương trình là "dạy làm người" và "dạy làm ăn", từ cái văn minh nhỏ xíu như nụ cười của một nhân viên bán hàng, đến cách quản lý chi phí của một quán cà phê, đến cách tạo dựng một nhà máy. Từ một dân tộc "xin việc", tức các doanh nghiệp nước ngoài đến đặt nhà máy tại Hàn Quốc và thuê lao động Hàn, Hàn Quốc bắt đầu khan hiếm lao động và trở thành dân tộc đi "cho việc", tức xây dựng các nhà máy ở nước ngoài và hàng triệu người Trung Quốc, Thái Lan, Philippines đứng xếp hàng xin các ông chủ Hàn Quốc cho họ việc làm. Hàn Quốc đã thành công trong việc tiếp nối Nhật Bản thành dân tộc đi cho việc người khác.
Năm 1988, pháo hoa thắp sáng 2 bờ sông Hàn, người Hàn Quốc ôm nhau và cười trong nước mắt, hơn 100 quốc gia giàu có nhất trên thế giới miễn visa cho họ, Hàn Quốc giờ đây đã bước chân vào nhóm 24 quốc gia thịnh vượng nhất loài người.
Nhưng thách thức mới lại xuất hiện, vì bây giờ không phải là Nhật Bản nữa, mà là Hồng Kông và Singapore, 2 cực hút nam châm của cả châu Á về tài chính, thương mại và giải trí. Phim Hồng Kông tràn ngập thị trường và không có đối thủ.
Người Hàn tuyển chọn ngay 2000 sinh viên ưu tú nhất, cử sang Holywood, điên cuồng học hành, từ đạo diễn, diễn viên, phục trang đạo cụ ...4 năm sau tốt nghiệp, năm 1992, những bộ phim Hàn Quốc đầu tiên ra đời như Cảm Xúc, Mối Tình Ðầu, Hoa Cúc..với một thế hệ diễn viên đẹp từng milimét và hợp nhãn người châu Á. Ngành làm phim phối hợp với ngành thời trang, mỹ phẩm và hàng tiêu dùng, bắt đầu xâm nhập vào các thị trường. Ðại sứ quán Hàn Quốc tại các nước có nhiệm vụ dịch thuật ra tiếng địa phương và tặng không cho các đài truyền hình, tạo ra làn sóng Hanluy nổi tiếng.
Người Nhật điên cuồng, người Trung Quốc điên đảo, các nước Ðông Nam Á thì chỉ biết ụ pa ơi, ụ pa hỡi. Phim Hồng Kông bị đá văng ra khỏi thị trường cho thuê băng đĩa.
Năm 1988, ngoài 2000 người đi Holywood để xây dựng công nghiệp điện ảnh, ngần ấy người được cử đi Milan (Ý) và Paris để học về thời trang, mỹ phẩm. Các tập đoàn như xe Kia, Samsung, Hyundai còn thuê cả ê-kip thiết kế của các hãng xe Ðức như Mercedes, BMW làm việc cho họ, với tham vọng xuất khẩu xe sang Mỹ và châu Âu.
Muốn bán cho Tây âu thì bao bì nhãn mác phải có óc thẩm mỹ của Tây, chứ kiểu" tròn tròn xinh xinh" của dân châu Á, tụi Tây không thích, không bán được. Có những năm, những mẫu xe của Hyundai bán chạy nhất ở Bắc Mỹ và châu Âu. Người Mỹ bắt đầu nhìn người Hàn với ánh mắt khác, ngưỡng mộ và ngạc nhiên, thích thú.
Ngoài ra, những sinh viên giỏi toán nhất được hướng theo ngành tài chính ở các đại học lớn ở Mỹ, với tham vọng Seoul thành một London, New York.
Các quỹ đầu tư ra đời, tự tìm kiếm các nhà máy mới khởi nghiệp be bé để rót tiền vào, tham gia vào quản trị. Không chỉ trích, chỉ góp sức góp trí để xây dựng. Một người Hàn giàu có là cả dân tộc Hàn giàu. Hệ thống bán lẻ Lotte phải có nghĩa vụ mang hàng hoá Hàn đi khắp nơi, ông lớn Samsung bắt đầu tuyển dụng những sinh viên giỏi nhất châu Á về cho học bổng thạc sĩ miễn phí với điều kiện tốt nghiệp xong phải mấy năm phục vụ cho họ. Họ gom trí tuệ của cả châu Á để chinh phục thị trường điện thoại thông minh (Smart phone) và máy tính bảng (tablet), cạnh tranh đối đầu với Apple, đối đầu với cả một tập thể trí tuệ thung lũng Silicon (bắc Cali), cứ như Airbus của châu Âu cạnh tranh với Boeing vậy.
Người Hàn Quốc, dù dân thường hay sếp lớn, tất tần tật mọi thứ họ dùng phải là Made in Korea, dù lúc sản phẩm kém cỏi còn xấu xí và đầy lỗi của thập niên bảy mươi hay hiện đại tinh xảo như bây giờ. Nếu người tiêu dùng không ủng hộ sản phẩm nhem nhuốc của thời khởi nghiệp, thì doanh nghiệp còn tồn tại đâu mà có sản phẩm tinh xảo sau này?
Tony nhớ lần đi Hàn Quốc đầu tiên, mùa thu năm 2005, bà chị ở VN cẩn thận ghi tên mấy nhãn hiệu mỹ phẩm ưa thích của chị ấy cho mình mua giùm. Ở cửa hàng mỹ phẩm, cô bán hàng mặc bộ váy veston đen, chạy như bay lấy hết sản phẩm này đến sản phẩm khác cho Tony xem, đều là của Hàn Quốc cả. Do tiếng Anh không nói tốt nên cô cứ giải thích bằng tiếng Hàn đến lúc giọng khàn đặc. Ðến lúc Tony lấy tay chỉ hộp phấn Lancôme, thì cô thất vọng oà khóc. Cô khóc vì cô đã không thành công khi tình yêu nước của cô không thuyết phục được khách hàng. Tony nhìn cô ấy sững sờ, lẽ nào chỉ là 1 cô gái bán hàng bình thường mà có lòng yêu đất nước mãnh liệt thế sao? Tony thôi bèn mua mấy hộp mỹ phẩm của Hàn, dù chẳng biết có tốt không, vì kính phục quá. Lúc Tony bước ra khỏi cửa hàng, ngoái lại vẫn thấy cổ gập đầu cung kính.
Ngoài phố, gió bắt đầu lạnh, từng tốp học sinh chạy tập thể dục rầm rập trên vỉa hè, những chiếc áo khoác thêu cờ quốc gia ở sau lưng. Và Tony biết, sau lưng của mỗi công dân luôn là một Tổ quốc.
Fb Tiny



5 Người Phụ Nữ Tuyệt Sắc Nào Khiến Vua Bảo Đại Phá Bỏ Lời Hẹn Thề Với Nam Phương Hoàng Hậu?

Nhắc đến vua Bảo Đại, người ta không chỉ nhớ đến ông là vị hoàng đế cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam mà còn ấn tượng bởi cuộc đời đầy sóng gió với những mối tình dang dở.

Thứ phi phương Bắc – Bùi Mộng Điệp

Thứ phi Mộng Điệp (SN 22/6/1924) quê ở Bắc Ninh. Bà xuất thân trong một gia đình bình thường nhưng từ nhỏ đã sở hữu vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Bà từng có cuộc hôn nhân không hạnh phúc với người chồng làm bác sĩ và có chung với nhau một người con trước khi có cuộc gặp gỡ định mệnh với vua Bảo Đại vào năm 1945 khi ông đã thoái vị.

Năm 1945, ông Nguyễn Đình Liên (một trí thức Hà Nội) sắp xếp cho gặp Bảo Đại ở sân tennis. Khi gặp Mộng Điệp, ông đã trúng tiếng sét ái tính và phải lòng bà ngay lập tức. Vẻ đẹp đặc trưng của người con gái xứ Bắc làm say đắm biết bao nhiêu chàng trai chính là điều khiến Bảo Đại nuốt lời hứa một vợ một chồng với Nam Phương Hoàng hậu.


Bùi Mộng Điệp – Thứ phi phương Bắc

Bà Mộng Điệp cũng sinh cho Bảo Đại 2 con trai và 1 con gái. Thế nhưng, chỉ sau một thời gian, Bảo Đại đã chạy theo tiếng gọi của những bông hồng khác, bỏ bà sống cô độc nơi đất khách.

Dẫu quãng thời gian chung sống với cựu hoàng Bảo Đại chỉ kéo dài vài năm, nhưng bà Mộng Điệp được cho là người có vị trí vô cùng quan trọng trong cuộc đời cựu hoàng. Dù sau này không còn sống cùng Bảo Đại nhưng bà Mộng Điệp vẫn chăm lo việc thờ cúng tổ tiên nhà Nguyễn, đúng với phận sự của một vương phi thực sự.

Kỹ nữ lừng danh Hà Thành – Lý Lệ Hà

Lý Lệ Hà xuất thân từ vùng đất Hải Phòng, cô có sắc đẹp quyến rũ nên nhanh chóng nổi tiếng trong giới ăn chơi đất cảng.Năm 1936, Lệ Hà chuyển lên Hà Nội sinh sống trên phố Khâm Thiên, nơi tập trung nhiều nhất các vũ trường lúc bấy giờ. Người ta kể rằng mỗi bước nhảy của cô luôn khiến cho đàn ông ngây ngất. Thời điểm này,Lệ Hà cũng tham gia cuộc thi hoa khôi đầu tiên của miền Bắc và giành danh hiệu cao nhất.

Sau đó, Lệ Hà rơi vào tầm ngắm của biết bao công tử nhà giàu, nhưng ngay từ đầu, vũ nữ này đã nhắm đến vua Bảo Đại. Vào những năm 1940, vũ nữ Lý Lệ Hà quyến rũ cựu hoàng Bảo Đại.Họ sóng đôi bên nhau, đêm đêm đi dạo, tiệc tùng hay lui tới các nơi ăn chơi.

Mối tình của Bảo Đại và Lý Lệ Hà cũng đã khiến cho Nam Phương Hoàng hậu cũng như “Thứ phi” Mộng Điệp vô cùng phiền lòng. Nam Phương Hoàng hậu đã từng gửi một lá thư cho Lý Lệ Hà và trở thành một trong những màn đánh ghen văn minh và đắt giá nhất trong lịch sử:“Em Lý Lệ Hà thân quý. Chị ở xa đức cựu hoàng hàng mấy vạn dặm trùng dương, nhưng chị biết rằng em đang hết lòng hết sức chăm sóc cựu hoàng ở Hồng Kông. Chị cầu mong lịch sử mai đây không buông rơi cựu hoàng, còn gặp lại nhau. Đức Từ Cung thái hậu và chị trọn kiếp nhớ ơn em. Chị Nam Phương”.


Vũ nữ Hà Thành – Lý Lệ Hà

Đắm say nhau như vậy nhưng cuối cùng, Lý Lệ Hà cũng chung số phận như những người phụ nữ đi qua đời Bảo Đại trước đó. Ông tiếp tục rời bỏ Lý Lệ Hà để theo đuổi những cuộc vui khác.

Sau đó, Lý Lệ Hà sang Pháp, kết hôn với người bản địa và sống ở ngoại thành Paris. Suốt thời gian sống ở đất Pháp, bà không gặp lại cựu hoàng Bảo Đại lần nào nữa.

Hoàng Tiểu Lan – Vũ nữ Trung Hoa lai Pháp

Và cô gái Tàu lai Tây được đề cập ở trên chính là Hoàng Tiểu Lan. Cựu hoàng Bảo Đại quen biết với cô gái này trong khoảng thời gian giữa những năm 1946 – 1950, lúc ông đang sống tại Hồng Kông cùng Lý Lệ Hà. Thông tin ghi chép về bà không nhiều, chỉ biết thời gian chung sống cùng nhau, bà sinh cho Bảo Đại một người con gái.

Cũng có nguồn tin cho rằng, về sau này, cựu hoàng Bảo Đại có đưa bà về Đà Lạt sống và cũng tặng cho bà một căn nhà ở đây. Sau đó, thông tin cũng như tung tích của bà không được nói đến nữa.

Thứ phi Lê Thị Phi Ánh

Phi Ánh tên đầy đủ là Lê Thị Phi Ánh. Bà là một thiếu nữ xuất thân trong gia đình danh giá, có học thức tại Huế và nổi tiếng bởi nhan sắc tuyệt trần.

Năm 1949, khu cựu hoàng Bảo Đại trở về nước, ông Phan Văn Giáo đã giới thiệu bà Phi Ánh cho ông. Theo ghi chép, bà được miêu tả là người da trắng, cao ráo, mắt sáng, mũi cao. Đúng lúc tâm trạng nặng nề lại gặp được bà Phi Ánh nên cựu hoàng đã phải lòng ngay.

Giống những thứ phi khác, bà cũng được Bảo Đại tặng một căn biệt thự tại Đà Lạt. Được biết, biệt thự của bà được xây theo lối kiến trúc Tây Ban Nha, khác hẳn kiến trúc kiểu Pháp thường thấy ở Đà Lạt. Như vậy cũng đủ thấy cựu hoàng ưu ái bà như thế nào.

Bà Phi Ánh hạ sinh cho Bảo Đại 2 người con, 1 trai 1 gái. Sau khi Bảo Đại sang Pháp, bà ở lại Việt Nam và đi bước nữa nhưng cuộc hôn nhân này không hạnh phúc. Năm 1986, bà mất tại TP.HCM vì bệnh ung thư.


Thứ phi Lê Thị Phi Ánh

Monique Baudot – Người vợ cuối cùng của vua Bảo Đại

Bà Monique Marie Eugene Baudot, thường được gọi ngắn gọn là Monique Baudot, người phụ nữ Pháp gắn bó với Bảo Đại suốt mấy chục năm cuối đời. Mặc dù Bảo Đại có rất nhiều bóng hồng nhưng trừ Hoàng hậu Nam Phương, chỉ duy nhất người đàn bà Pháp này trở thành vợ chính thức của ông.

Theo tài liệu xưa ghi chép rằng bà là hầu gái, làm công việc dọn phòng tại những tòa cao ốc nơi cựu hoàng Bảo Đại đến thuê. Khi biết Bảo Đại là vị vua sống lưu vong, già yếu không người chăm sóc, bà đã quyết định ở bên và bầu bạn cùng ông suốt năm tháng cuối đời.

Năm 1972, họ kết hôn với nhau và có đầy đủ giấy hôn thú. Mặc dù không có con chung nhưng thời gian chung sống rất hạnh phúc và hòa thuận. Vào lúc 5h sáng ngày 31/7/1997, cựu hoàng Bảo Đại qua đời tại Quân y viện Val de Grace, hưởng thụ 85 tuổi. Sau khi chồng mất, bà Monique vẫn lưu giữ các tài liệu và kỷ vật quan trọng của nhà Nguyễn.


Monique Baudot – Người vợ cuối cùng của vua Bảo Đại

Có thể thấy, Vua Bảo Đại sinh ra và lớn lên trong giai đoạn lịch sử đầy biến động ở cả trong nước và thế giới. Nhưng trong tình trường, ông vẫn phong lưu và vô cùng đào hoa khi có rất nhiều người phụ nữ bên cạnh và đa phần đều là tuyệt sắc mỹ nữ lúc bấy giờ.

S.H (Theo DNVN)


Vì sao các đô thị ở miền Tây thường cách nhau 60km?

Châu Đốc cách Long Xuyên 60km, Long Xuyên cách Cần Thơ 60km, Cần Thơ cách Sóc Trăng 60km, Sóc Trăng cách Bạc Liêu gần 60km và Bạc Liêu lại cách Cà Mau cũng khoảng 60km.


Một góc TP Cần Thơ - nơi cách TP Long Xuyên (An Giang) và TP Sóc Trăng (tỉnh Sóc Trăng) đều với khoảng cách 60km - Ảnh: CHÍ QUỐC

Các đô thị ở Đồng bằng sông Cửu Long đa phần có một điểm chung là thường cách nhau với khoảng cách địa lý 60km. Do đâu có sự trùng hợp kỳ lạ này?

Chiều 15-5, tại Trường đại học Cần Thơ đã diễn ra lễ ra mắt dự án kỹ năng về khí hậu - hạt giống cho chuyển đổi xanh, do Hội đồng Anh và Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu (Trường đại học Cần Thơ) triển khai.

Tại đây, PGS.TS Lê Anh Tuấn, giảng viên cao cấp khoa môi trường và tài nguyên thiên nhiên (Trường đại học Cần Thơ), đã trình bày về chủ đề "Dòng sông Mekong và thực trạng biến đổi khí hậu tại Đồng bằng sông Cửu Long".

Đáng chú ý trong phần trình bày này, ông Tuấn có nêu một hiện tượng thường thấy ở Đồng bằng sông Cửu Long nhưng không nhiều người biết lý do là tại sao các đô thị trong vùng thường cách nhau 60km?

Ông Tuấn dẫn chứng một thực tế: TP Châu Đốc cách TP Long Xuyên 60km, TP Long Xuyên cách TP Cần Thơ 60km, TP Cần Thơ cách TP Sóc Trăng 60km, TP Sóc Trăng cách TP Bạc Liêu gần 60km và TP Bạc Liêu lại cách TP Cà Mau cũng khoảng 60km.

Theo ông Tuấn, đây không phải là khoảng cách ngẫu nhiên, mà có lý do của nó. 

"Ngày xưa người dân Việt Nam ở các nơi đến Đồng bằng sông Cửu Long đi bằng ghe, xuồng. Họ đi theo con nước.

Một ngày thủy triều bốn lần thay đổi dòng chảy, mỗi lần được sáu giờ đồng hồ, trong đó sáu giờ nước lên và sáu giờ nước xuống.

Và vận tốc trung bình của dòng sông Mekong khoảng 10km/h, nhân với sáu giờ thì ra khoảng 60km. 

Ghe, xuồng đi được 60km thì nước đổi dòng, người ta dừng lại thì ở đó hình thành những chợ nổi, họ đợi tới con nước thì đi tiếp. Dấu vết còn lại hiện nay là chợ nổi, đây là chỗ trao đổi hàng hóa, rồi sau đó họ lên định cư trên bờ, hình thành nên những đơn vị hành chính sau này.

Không có đồng bằng nào trên thế giới mà nó hình thành địa giới hành chính theo nhịp thủy triều như Đồng bằng sông Cửu Long. Đó là đặc điểm rất đặc biệt", ông Tuấn lý giải. 

PGS.TS Lê Anh Tuấn lý giải về khoảng cách địa lý các đô thị ở Đồng bằng sông Cửu Long - Ảnh: CHÍ QUỐC

Cũng theo ông Tuấn, Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có mạng lưới sông rạch rất chằng chịt, tất cả các địa phương ở vùng này đều nối qua hệ thống sông và có thể đi trên tàu thuyền từ địa phương này qua địa phương khác.

Tổng chiều dài kênh rạch ở Đồng bằng sông Cửu Long nối lại với nhau thì có chiều dài gấp đôi đường xích đạo của Trái đất.

"Đây là con số rất đáng kinh ngạc, cho thấy lao động của người dân Đồng bằng sông Cửu Long khi đào những con kênh có tổng chiều dài gấp đôi đường xích đạo của Trái đất là như thế nào. 

Chính đặc điểm sông nước này tạo ra đặc điểm rất riêng biệt so với các vùng khác mà người ta hay nói là vùng văn minh sông nước", ông nói thêm.

CHÍ QUỐC

Vị hoàng hậu được mệnh danh là ‘mỹ thần’ Trung Hoa: Từng khiến 6 vị hoàng đế say mê, thay phiên chiếm giữ, đến già vẫn có người tranh giành

Khi diện kiến Tiêu thị lúc còn nhỏ, thầy bói chỉ nói đúng 8 chữ: "Mẫu nghi thiên hạ, mệnh đới đào hoa". Cuộc đời của bà quả đúng như vậy.

Tiêu Hoàng hậu hay còn gọi là Dạng Mẫn Hoàng hậu xuất thân là công chúa của Lương Minh Đế, Hoàng đế nước Tây Lương. Sử sách ghi lại, Tiêu thị được mô tả như một vật báu của nhân gian. Vừa chào đời, nàng đã xinh một bông hoa mẫu đơn, sắc đẹp tuyệt trần, dường như mọi thứ hoàn hảo nhất đều quy tụ nơi bà.

Thầy bói từng hết sức kinh ngạc trước diện mạo của Tiêu thị. Sau một hồi gieo quẻ kỹ lưỡng, người này chỉ kết luận đúng 8 chữ "mẫu nghi thiên hạ, mệnh đới đào hoa".


Tiêu thị - Dạng Mẫn Hoàng hậu

Năm 13 tuổi, Tiêu thị đã lên ngôi hoàng hậu và từ đó, nàng liên tiếp trải qua những lần thay danh đổi phận như Hoàng hậu của Tùy Dương, thục phi của Vũ Văn Hóa Cập, vợ lẽ của Đậu Kiến Đức, Hoàng hậu hai đời vua Turkic và cuối cùng trở thành Chiêu Dung trong hậu cung của vua Đường Lý Thế Dân.

Theo ghi chép, vì Tiêu thị sinh vào ngày xấu và Lương Minh Đế tin vào điều mê tín này nên đã giao con gái cho người khác nuôi dưỡng. Gia cảnh của người này khá nghèo túng.

Ngày tháng trôi qua, Tiêu thị đã lớn lên thành một cô gái xinh đẹp. Mặc dù ăn mặc rất đơn giản, nhưng khí chất cao quý của bà không thể che giấu được.

Năm 580, để tri ân sự giúp sức của Lương Minh Đế trong cuộc nội chiến nhà Tùy, Tùy Văn Đế Dương Kiên hỏi cưới một công chúa Tây Lương cho con trai của mình Tấn vương Dương Quảng. Lương Minh Đế khi đã cho thầy bói xem mệnh các công chúa của mình nhưng không ai hợp tuổi hợp mệnh với Dương Quảng. Bất đắc dĩ, Lương Minh Đế mới cho người đưa Tiêu thị hồi cung và chuẩn bị gả sang nhà Tùy.

Song lúc này Tiêu thị mới 9 tuổi nên chưa gả đi ngay. Nàng được Độc Cô Hoàng hậu yêu mến như con ruột, mời rất nhiều thầy giỏi đến dạy cầm kỳ thi họa. Nhờ vậy mà chỉ vài năm sau, Tiêu thị đã trở thành một nữ nhân tuyệt sắc đa tài đa nghệ.

Vốn háo sắc nên ngay khi nhìn thấy nhan sắc tuyệt trần của người vợ đã được thân mẫu lựa chọn, Dương Quảng đã muốn đưa nàng vào cung. Và năm Dương Quảng 25 tuổi, không chờ đợi thêm được nữa, hôn lễ giữa Tiêu Thị và Dương Quảng được cử hành, nàng chính thức trở thành vương phi của Tấn vương.

Năm 600, Tùy Văn Đế phế truất Thái tử và đưa Dương Quảng lên thay thế, Tiêu vương phi lập tức trở thành Thái tử phi.

Tiêu thị dù trải qua nhiều thăng trầm nhưng vẫn được 6 vị vua sủng ái

Năm 604, Tùy Văn Đế băng hà, Thái tử Dương Quảng nối ngôi, lấy hiệu Tùy Dạng Đế, Tiêu thị được sách lập làm Hoàng hậu. Tùy Dạng Đế dù sống phong lưu xa hoa và có hậu cung hàng nghìn cung phi nhưng vẫn luôn tôn trọng Tiêu Hoàng hậu.

Năm 618 sau Công Nguyên, Vũ Văn Hóa nổi dậy và ám sát Dương Quảng. Sau đó, hắn đã chiếm đoạt Tiêu Hoàng hậu. Tất nhiên, có hai lý do chính để Vũ Văn Hóa làm điều này, một là vì bà xinh đẹp, hai là để củng cố thế lực cai trị của ông.

Sau đó, ông đưa cháu (gọi bằng bác) của Tùy Dạng Đế là Dương Hạo lên làm Hoàng đế. Tuy nhiên, Vũ Văn Hóa đã nhanh chóng bị mọi người phản đối, Đậu Kiến Đức đã tập hợp một đội quân nổi dậy trong dân chúng, dưới sự lãnh đạo của ông, quân phản loạn đã chiếm được cung điện, và Vũ Văn Hóa chết dưới tay họ.

Sau khi Đậu Kiến Đức xưng vương, ông cũng chiếm giữ Tiêu Hoàng hậu. Lúc này, Tiêu Hoàng hậu dù đã ở tuổi trung niên nhưng vẫn rất xinh đẹp.

Vào thời điểm này, thế lực của người Turkic ở phương Bắc không ngừng lớn mạnh và đang tiến về Trung Nguyên. Em gái của Tùy Dạng Đế được gả cho Hòa Thân Khả Hãn, Nghĩa Thành công chúa, nghe tin Lý Uyên đã xưng đế ở Trường An lại biết nơi ở của Tiêu hoàng hậu bèn phái sứ giả tới Lạc Thọ đón chị dâu.

Trước tình thế đó, Đậu Kiến Đức không dám đối đầu với người Turkic, chỉ còn cách giao lại Tiêu hoàng hậu và người của hoàng tộc cho sứ giả.

Sau bao năm phiêu bạt, sức hấp dẫn và quyến rũ của Tiêu Hoàng hậu vẫn tiếp tục làm hai vị vua của Turkic là Xử La Khả Hãn và Hiệt Lợi Khả Hãn mê mẩn..

10 năm sau, quân của Đường Thái Tông Lý Thế Dân đánh chiếm được Turkic. Khi đó, Tiêu hoàng hậu đã 48 tuổi, Lý Thế Dân mới 33 tuổi nhưng khi Tiêu hoàng hậu vào cung, Lý Thế Dân đã bị chinh phục hoàn toàn trước nhan sắc của Tiêu Hoàng hậu ngay lần đầu nhìn thấy nàng.

Mặc cho quần thân ra sức can ngăn, Lý Thế Dân không màng tới những lời bình phẩm lập tức phong bà làm Chiêu Dung. Theo các nhà sử học, sở dĩ Lý Thế Dân sủng ái Tiêu hoàng hậu là bởi 2 nguyên nhân sau:

Thứ nhất, Lý Thế Dân tìm thấy cảm giác an toàn ở Tiêu hoàng hậu. Lý Thế Dân từ nhỏ đã không có được tình thương của mẹ, ông luôn cảm thấy bản thân thiếu đi thứ tình cảm ruột thịt này. Tiêu hoàng hậu đã vào độ tuổi chín mùi, ở bà có sự mặn mà, trưởng thành của người mẹ, có lẽ vì thế Lý Thế Dân thấy tâm hồn mình được an ủi.


Ở độ tuổi 48, Tiêu thị vẫn khiến Lý Thế Dân mê mẩn

Thứ hai, có lẽ là bởi một câu nói của Tiêu hoàng hậu. Khi mừng Tiêu Chiêu Dung tới hậu cung, Lý Thế Dân đã tổ chức một bữa tiệc chào đón. Ông đã bày tiệc với rất nhiều món cao lương mỹ vị, cho cung nữ gảy đàn hát ca cả ngày, thắp đèn sáng rực hoàng cung…

Sau đó, Lý Thế Dân hỏi Tiêu Hoàng hậu rằng: "Nàng cảm thấy cảnh tượng này so với Tùy cung năm xưa thế nào?". Tiêu Chiêu Dung nhẹ nhàng đáp: "Bệ hạ là hoàng đế khai quốc, sao lại tự đem bản thân mình so với một vị vua làm mất nước?". Lý Thế Dân lập tức hiểu ẩn ý trong câu trả lời của Tiêu Hoàng hậu, ngài rất hài lòng với tài ứng phó thông minh của bà. Vì thế, Lý Thế Dân càng thêm yêu mến, sủng ái Tiêu Hoàng hậu.

Dưới sự bảo vệ của Lý Thế Dân, Tiêu Hoàng hậu sống một cuộc sống vô cùng thoải mái trong những năm tháng sau này, và bà sống đến năm 81 tuổi.

Nguyễn Phượng



Tất cả cảm 

Chủ Nhật, 18 tháng 2, 2024

Những điều ít biết về Lũy Thầy


 

 


Trong lịch sử quân sự Việt Nam có một hệ thống thành lũy khá lợi hại. Dân gian vẫn gọi là Lũy Thầy. Nhờ có Lũy Thầy mà nhà Nguyễn mới tồn tại chín chúa, mười ba vua. Nhưng tại sao lại có tên là Lũy Thầy?

Sở dĩ thành lũy trên vùng đất Quảng Bình có tên Lũy Thầy là do sự tôn kính của các chúa Nguyễn và người dân địa phương đặt tên công trình phòng thủ này mà  “Thầy” Đào Duy Từ, một nhà chiến lược thiên tài giúp chúa Nguyễn và cũng là tổng công trình sư tạo ra ở nơi đây.

Trong bối cảnh cuộc chiến Trịnh Nguyễn phân tranh đầu thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn có công mở cõi về phương Nam và đương đầu với quân Trịnh nên Đào Duy Từ đã thành lập hệ thống thành lũy dựa vào địa thế hiểm trở để ngăn chặn. Đôi bờ sông Gianh vì thế đã trở thành ranh giới đàng Trong-đàng Ngoài nhiều năm, trước khi giang sơn thu về một mối ở thời Tây Sơn và thời Nguyễn. Tìm hiểu về hệ thống thành lũy này để có thể hiểu được tri thức quân sự thời cổ của cha ông ta.

Lũy Thầy được Đào Duy Từ khởi công đắp vào năm Tân Hợi (1631), ở Đồng Hới, Quảng Bình. Lũy cao 12 thước, dài 10 dặm, trải dài từ núi Đầu Màu đến cửa sông Nhật Lệ đổ ra biển, có hình cong như hình cầu vồng. Mặt lũy khá rộng, có thể đi lại được. Cứ mỗi đoạn 40 thước lại xây một pháo đài, đặt súng Thần công án ngự. Từ đó, chiến tranh Trịnh-Nguyễn thực sự xảy ra. Sông Gianh (còn gọi là Linh Giang) là giới hạn. Khi Đào Duy Từ qua đời, chúa Nguyễn truy tặng ông là Trụ Quốc Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Lộc Khê Hầu.

Năm Minh Mạng thứ 12 (1841), Lũy Thầy được sắc phong làm “Định Bắc Trường Thành” và Đào Duy Từ được truy phong làm Khai Quốc Công Thần.

Mặc dù Lũy Thầy được đắp bằng đất, nhưng là một công trình phòng thủ khá bề thế, kết hợp với con hào tự nhiên là con sông Gianh, vì thế nơi đây trở thành một phòng tuyến quân sự lợi hại. Ngay từ thời các chúa Nguyễn đã có câu ca về thành cao, hào sâu này:

“Lũy Thầy ai đắp mà cao

Sông Gianh ai bới, ai đào mà sâu”.

Chính cái vị trí đắc địa của phòng tuyến kết hợp giữa thiên nhiên và nhân tạo này đã phát huy tác dụng triệt để. Mảnh đất phía Bắc Quảng Bình hẹp, một bên dựa vào dãy Trường Sơn hiểm trở, một bên là Biển Đông, chỉ còn một lối tiến công là dải đồng bằng. Vì thế phòng tuyến giăng ngang giữa hai đầu núi biển đã như một cánh cửa đóng chặt con đường vào Nam giống như cái thế đất eo “cổ chai”, bảo vệ vùng đất có dinh các chúa Nguyễn ở Quảng Trị. Công trình thành lũy phòng thủ này lợi hại đến nỗi mà:

“Khôn ngoan qua được Thanh Hà

Dẫu rằng có cánh khó qua Lũy Thầy”.

Thực ra, Lũy Thầy là một hệ thống lũy, có thể kể ra như sau:

Lũy Trường Dục dài 2.500 trượng, tức khoảng 10km, chạy từ chân núi Thần Đinh dọc theo hữu ngạn sông Rào Đá (Long Đại) đến ngã ba sông Nhật Lệ, men theo bờ Nam qua các làng Xuân Dục, Cổ Hiền, Trường Dục, Quảng Xá đến vùng động cát của phá Hạc Hải. Lũy Trường Dục được đắp bằng đất sét cao 3m, chân lũy rộng 6m. Bên trong lũy có doanh trại, công sự, kho lương thực.

Sau đó, một lũy khác được đắp bổ sung ở vùng Động Hải (Quảng Bình), được gọi là lũy Đầu Mâu, cách lũy Trường Dục gần 20km về phía Bắc. Lũy này được đắp cao khoảng 6m, cao gấp đôi lũy Trường Dục; phía ngoài lũy đóng cọc gỗ lim, phía trong đóng cọc tre, đổ đất lên 5 tầng cấp, voi và ngựa có thể đi trên thành lũy. Trên lũy cứ cách 12m đến 20m lại xây một pháo đài đặt súng thần công, cách 4m đặt 1 súng phóng đá. Chiều dài của lũy khoảng 12km từ động Ông Hồi dưới chân núi Đầu Mâu chạy men bờ Nam sông Lệ Kỳ đến cầu Dài ở phía Nam Đồng Hới.

Tiếp theo, lũy Trấn Ninh cũng được xây dựng. Lũy này tiếp nối với lũy Đầu Mâu, chạy từ Cầu Dài, vòng sang phía Tây thành Đồng Hới, bọc lấy làng Đồng Phú, qua Hải Thành ra đến cửa sông Nhật Lệ. Phía ngoài lũy còn được đào hào vây quanh. Lũy Đầu Mâu hợp với lũy Nhật Lệ được gọi là lũy Động Hải (Đồng Hới) hay Trấn Ninh. Kiến trúc của lũy đã lợi dụng địa thế các bãi lầy và kinh rạch để ngăn các cuộc tấn công của đối phương rất hiệu quả.

Trên chiều dài khoảng 17km từ Đầu Mâu đến Nhật Lệ lũy Động Hải còn lại 3 cửa, trong đó có cửa vào dinh Quảng Bình, còn gọi là Quảng Bình Quan nay vẫn đứng sừng sững bên đường Quốc lộ 1A, vốn xưa là con đường Thiên Lý xuyên Việt, như chứng nhân của lịch sử Quảng Bình suốt hàng trăm năm.

Lịch sử đã ghi lại hệ thống Lũy Thầy là một tuyến phòng thủ kiên cố. Năm 1633, Trịnh Tráng khởi binh đánh chúa Nguyễn đã phải dừng bước ở cửa sông Nhật Lệ, bị quân Nguyễn phục kích đánh úp, quân tướng hoang mang rệu rã phải lui về bờ Bắc sông Gianh. Năm 1634, chúa Nguyễn lại cho đắp thêm lũy Trường Sa, dài 7km chạy từ Sa Động đến Huân Cát, hữu ngạn sông Nhật Lệ. Năm 1648, quân Trịnh tấn công lũy Trường Dục nhưng không phá được đoạn thành này, lại bị đẩy lui xuống vùng đầm lầy Võ Xá và bị sa lầy tại đấy nên phải rút quân về Bắc, để lại 3 tướng và 3.000 quân bị bắt làm tù binh.

Trận đánh ác liệt nhất trong cuộc chiến Trịnh – Nguyễn vào năm 1672 đã chứng tỏ sự lợi hại của hệ thống thành lũy. Quân Trịnh liên tục tấn công mặt lũy Trấn Ninh nhưng không hạ được thành, phải rút lui, chấm dứt cuộc chiến gần 50 năm và mở ra hơn một thế kỷ hòa hoãn.

Có thể nói, góc độ quân sự, hệ thống Lũy Thầy đã phát huy sức mạnh tối đa. Với nhiều lớp thành đất phòng thủ liên hoàn, tổng cộng 34km kết hợp với địa thế thiên nhiên đã đứng vững qua 7 cuộc tấn công của quân chúa Trịnh. Có lẽ trong lịch sử cổ đại nước ta, Lũy Thầy là một hệ thống thành lũy đơn giản, dễ thi công, nhưng lại phát huy tốt nhất chức năng phòng thủ. Đội quân của chúa Trịnh với nhiều binh hùng tướng mạnh cũng đã phải dừng bước trước hệ thống Lũy Thầy lợi hại.

Dạo bước giữa phố phường của thành phố Đồng Hới ngày nay, du khách không khỏi bâng khuâng khi tìm dấu tích xưa của Lũy Thầy quanh cửa sông Nhật Lệ. Đây đó vẫn còn một vài gò đất cao hay đoạn thành thấp ở phường Phú Hải hay tấm bia đá ven đường còn ghi sự tích Lũy Thầy. Ngày nay, Lũy Thầy đã được xếp hạng là Di tích quốc gia. Nơi Lũy Thầy ngày xưa nay đã là phố xá, dọc ven sông Nhật Lệ đã sừng sững tượng đài “Mẹ Suốt anh hùng” chèo đò qua sông Nhật Lệ thời chống Mỹ. Lũy Thầy bây giờ chỉ còn một chút di tích, thư tịch ghi lại và những câu ca dao truyền đời.

Thêm nữa, Lũy Thầy lại càng nổi tiếng bởi đi vào bài hát quen thuộc “Bình Trị Thiên khói lửa” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương với đoạn ca: “Ai đã qua đèo Ngang, đã sang Ba Rền. Mến dòng sông Gianh, biết danh Lũy Thầy”.

Không những nổi tiếng, Lũy Thầy còn là di sản văn hóa vật thể chứng minh cho sự sáng tạo trong lịch sử quân sự Việt Nam.

Theo các nhà khảo cổ học, đến nay dấu tích Lũy Thầy chỉ còn lại vài đoạn thành đất cao khoảng 1m và dài khoảng 1km, bên trên còn một số cây to ở khu vực xã Hiền Ninh (huyện Quảng Ninh, Quảng Bình). Đến thời Nguyễn, giang sơn đã thống nhất, hệ thống Lũy Thầy đã không còn tác dụng. Mảnh đất xưa của lũy Trấn Ninh được xây thành Đồng Hới vào năm 1812 cũng là thành đất. Sau đó, dưới thời Minh Mạng, thành Đồng Hới mới được quy hoạch lại và xây bằng gạch theo kiến trúc Vô băng, thành có hình múi khế, nay vẫn còn nhiều đoạn rêu phong và là nơi thu hút khách du lịch trong và ngoài nước của tỉnh Quảng Bình.

Tác giả: PGS.TS Trịnh Sinh


Người phụ nữ trong hình chính là mẹ của tỷ phú giàu nhất thế giới Elon Musk. Bà là người mẫu 72 tuổi Maye Musk, cho tới nay vẫn rất đắt giá vì các chương trình biểu diễn và chụp hình.
Bà vốn là mẹ đơn thân có 3 con, ngoài tỷ phú còn có đạo diễn phim Tosca Musk và chủ nhà hàng doanh nhân Kimbal Musk. 3 con của bà rất thành công.
Maye Musk, sinh năm 1948, là người gốc Canada nhưng di cư sang Nam Phi cùng cha mẹ bằng một chiếc máy bay cá nhân. Theo New York Times, vào năm 1952, khi mới chỉ 4 tuổi, bà đã cùng cha mẹ bay 22.000 dặm vòng quanh thế giới. Lớn lên, Maye và gia đình đã đi lang thang trên sa mạc Kalahari để tìm kiếm "Thành phố đã mất". Cũng chính nhờ những bậc cha mẹ thích phiêu lưu mạo hiểm này, bà đã tìm thấy sự tự tin của mình để theo đuổi sự nghiệp trong thế giới thời trang.
15 tuổi, bà trở thành người mẫu, thi Hoa hậu Nam Phi và lọt vào vòng chung kết. 6 năm sau, 21 tuổi, bà rơi vào tiếng sét ái tình với kỹ sư Errol Musk và từ bỏ tất cả để trở thành vợ của ông. Trong vòng 10 năm, bà sinh 3 con. Nhưng hôn nhân tan vỡ khi bà mới 31 tuổi. Bà trắng tay mặc dù gia đình chồng rất giàu có.
Từ giã Nam Phi, bà một thân một mình đưa ba con về Toronto, Canada. Đây cũng chính là quãng thời gian khó khăn nhất trong cuộc đời của Maye. Đã có khi bà phải làm cùng một lúc 5 công việc để kiếm tiền nuôi dạy các con: từ làm thêm tại tiệm tạp hóa và giặt ủi, nhân viên nghiên cứu cho Đại học Toronto, dạy học tại trường dinh dưỡng cho đến làm người mẫu. Maye từng nói với Huffington Post rằng: "Sau khi ly hôn, tôi phải vật lộn để kiếm sống và nuôi 3 đứa trẻ. Nghèo đói khiến bạn làm việc chăm chỉ."
Khi Maye 41 tuổi, nghề người mẫu lúc ấy không còn "hot" nữa, bà phải vất vả kiếm tiền thuê nhà và học phí cho các con bằng nhiều cách khác nhau. Quãng thời gian này, gia đình bà thậm chí còn chẳng có tiền để mua thịt cho bữa cơm tối.
Khi đó, một người khách hàng của Maye, chủ một lò mổ gia súc đã thương cảm cho hoàn cảnh của bà và quyết định cung cấp cho gia đình bà một khoanh thịt khổng lồ vào mỗi tháng. Bà Maye sẽ cắt khoanh thịt thành 4 miếng để ăn trong 4 tuần.
Trong khi đó, các con của bà cũng làm một phần để hỗ trợ gia đình. Tosca làm việc tại một cửa hàng tạp hóa cao cấp khi còn đi học và Maye Musk đã giúp Elon có một công việc tại Microsoft.
Dù vậy, bà vẫn rất kiên nhẫn dạy con nên người. Cùng lúc, bà đi học . Bà theo học ngành dinh dưỡng tại Đại học Pretoria ở Nam Phi và được trao hai bằng thạc sĩ, một từ Đại học Orange State, Nam Phi và một của Đại học Toronto, Canada.
Kết quả từ sự nỗ lực không ngừng của bà, 3 con bà rất thành đạt, trong đó có tỷ phú giàu nhất thế giới. Và dù già, ở tuổi 72 bà vẫn tiếp tục hành nghề người mẫu vì yêu thích và muốn được trẻ trung.
Người phụ nữ này luôn thử thách những điều mới mẻ và không bao giờ bị tuổi tác cản trở. Chính tinh thần đó không chỉ làm nên cuộc đời Meyer mà còn trở thành ánh sáng của 3 đứa con. "Hãy để trẻ đủ can đảm khám phá cuộc sống của chúng". Người phụ nữ này cũng cho rằng cách giáo dục hữu ích nhất cho trẻ là để chúng thấy rằng bố mẹ đang nỗ lực để trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình. "Đó là cách tốt nhất để giáo dục con cái"
Một người mẹ xứng đáng của những đứa con xứng đáng
Sưu tầm



Cô gái Chùa Hương sống mãi tuổi 15

Những người yêu nhạc hẳn nhiều người sẽ biết đến bài hát “Em Đi Chùa Hương” của nhạc sĩ Trung Đức, phổ thơ Nguyễn Nhược Pháp với những câu hát quen thuộc: 
    Hôm nay em đi chùa Hương, hoa cỏ còn mờ hơi sương…

Bài thơ “Chùa Hương” của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp cũng đã được giáo sư Trần Văn Khê phổ thành một bài hát dài mang tên Đi Chơi Chùa Hương từ thập niên 1940.

Thi phẩm “Chùa Hương” ra đời trong hoàn cảnh rất kỳ thú. Hội Chùa Hương năm 1934, nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp cùng nhà văn Nguyễn Vỹ và hai người bạn nữ sinh Hà thành đi trẩy hội. Đến rừng mơ, hai văn nhân gặp một bà mẹ cùng cô gái độ tuổi trăng rằm vừa bước lên những bậc đá vừa niệm phật “Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Đại Từ Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát”.

Vẻ đẹp thánh thiện mang nét chân quê của cô gái đã hớp hồn hai chàng thi sĩ khiến họ trân trân nhìn quên cả hai bạn gái cùng đi.

Nguyễn Nhược Pháp lại gần hỏi:

“Tại sao trông thấy chúng tôi cô lại không niệm phật nữa?”

Cô gái bối rối, thẹn thùng như muốn khóc. Nguyễn Nhược Pháp thấy vậy liền cố bắt chuyện để an ủi cô gái. Câu chuyện vẩn vơ đã diễn ra cùng họ cho đến chùa Ngoài. Mải chuyện với người đẹp, Nguyễn Nhược Pháp và Nguyễn Vỹ bị hai cô bạn gái đi cùng bỏ rơi lúc nào không hay.

Không tìm được hai cô bạn trong đám đông trẩy hội, đêm ấy hai chàng bèn ngủ lại trong chùa Hương cùng hai mẹ con cô bé quê.

Sáng hôm sau gặp lại hai cô bạn, Nguyễn Vỹ phải xin lỗi mãi, còn Nguyễn Nhược Pháp chỉ tủm tỉm cười. Về đến Hà Nội được mấy hôm, Nguyễn Nhược Pháp sáng tác nên bài thơ “Chùa Hương”.

Trong bản chép tay đầu tiên, bài thơ có tên là “Cô Gái Chùa Hương”.

Bài thơ dài 34 khổ 136 dòng, lấy cuộc gặp gỡ lý thú của tác giả với cô gái quê ở Chùa Hương làm đề tài và tưởng tượng thêm.

Điều đặc biệt là dưới tên bài thơ, Nguyễn Nhược Pháp mở ngoặc đơn dòng chữ “Thiên ký sự của một cô bé ngày xưa”.

Cuối bài thơ còn ghi thêm: “Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người sẽ lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô gái còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện”.

Trong bài thơ Chùa Hương, chàng thi sĩ 20 tuổi đã thể hiện tình cảm của mình với cô bé 15 tuổi thanh tao đến thánh thiện, đằm thắm mà không ủy mị, nồng cháy mà vẫn thanh lịch, trữ tình mà tinh tế, cả tâm hồn và hiện thực hòa quyện vào nhau hài hòa khiến Chùa Hương có vị trí xứng đáng trong thi đàn.

Trước năm 1945, bài thơ đã được nhạc sĩ Trần Văn Khê phổ nhạc thành bài hát “Đi Chơi Chùa Hương”, bài hát này khá dài, chỉ có ca sĩ Mộc Lan ở Huế hát tthành công nhất, được nhiều người hâm mộ nhất.

Giữa những năm 1980, nhạc sĩ Trung Đức phỏng theo mấy đoạn thơ phổ thành bài hát “Em Đi Chùa Hương” và được phổ biến rộng rãi hơn vì nó mộc mạc chân thành, đậm chất dân ca xứ Nghệ, dễ hát và dễ nhớ.

Nhưng nếu Nguyễn Nhược Pháp sống lại để nghe bài hát này, chắc ông sẽ lại tủm tỉm cười khi thấy câu thơ “Chân đi đôi dép cong” của ông đã bị đổi thành “Chân em đi đôi guốc cao cao” bởi vì đi Chùa Hương phải leo dốc, xuống hang rất ghập ghềnh, đi guốc cao thì làm sao mà đi nổi.

Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp là một trí thức con nhà dòng dõi. Cha ông là nhà văn, nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh, từng dịch tập thơ “Ngụ ngôn” của La Fontaine ra tiếng Việt rất đặc sắc.

Nguyễn Nhược Pháp sinh năm 1914 tại Hà Nội, đỗ bằng Tú tài Tây, làm thơ từ năm 16 tuổi. Ngoài ra, ông còn sáng tác kịch, truyện ngắn và viết báo. Ông viết báo tiếng Pháp khá nhiều, năm 1935 xuất bản tập thơ “Ngày xưa”, trong đó có bài thơ “Chùa Hương” rất nổi tiếng. Nhưng tiếc thay, thi sĩ tài danh Nguyễn Nhược Pháp mất đột ngột khi mới 24 tuổi, vào năm 1938.

Đến nay, bài thơ Chùa Hương đã tròn hơn 70 tuổi, Nguyễn Nhược Pháp đã qua đời được 70 năm, song Chùa Hương cùng tên tuổi nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp vẫn sống mãi với thời gian.

Mời bạn đọc lại bài thơ này:

Hôm nay đi Chùa Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương.
Cùng thầy me em dậy,
Em vấn đầu soi gương.

Khăn nhỏ, đuôi gà cao,
Em đeo giải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới,
Tay cầm nón quai thao.

Me cười: “Thầy nó trông!
Chân đi đôi dép cong,
Con tôi xinh xinh quá!
Bao giờ cô lấy chồng?”

Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm,
Nhờ mối mai đưa tiếng,
Khen tươi như trăng rằm.

Nhưng em chưa lấy ai,
Vì thầy bảo người mai
Rằng em còn bé lắm!
(Ý đợi người tài trai.)

Em đi cùng với me.
Me em ngồi cáng tre,
Thầy theo sau cưỡi ngựa,
Thắt lưng dài đỏ hoe.
Thầy me ra đi đò,

Thuyền mấp mênh bên bờ.
Em nhìn sông nước chảy
Đưa cánh buồm lô nhô.
Mơ xa lại nghĩ gần,

Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa lẹ bước,
Em thấy một văn nhân.
Người đâu thanh lạ thường!

Tướng mạo trông phi thường.
Lưng cao dài, trán rộng.
Hỏi ai nhìn không thương?
Chàng ngồi bên me em,

Me hỏi chuyện làm quen:
“Thưa thầy đi chùa ạ?
Thuyền đông, trời ôi, chen!”
Chàng thưa: “Vâng thuyền đông!”

Rồi ngắm trời mênh mông,
Xa xa mờ núi biếc,
Phơn phớt áng mây hồng.
Dòng sông nước đục lờ.

Ngâm nga chàng đọc thơ.
Thầy khen: “Hay! Hay quá!”
Em nghe rồi ngẩn ngơ.
Thuyền đi, Bến Đục qua.

Mỗi lúc gặp người ra,
Thẹn thùng em không nói:
“Nam Mô A Di Đà!”
Réo rắt suối đưa quanh.

Ven bờ, ngọn núi xanh,
Nhịp cầu xa nho nhỏ.
Cảnh đẹp gần như tranh.
Sau núi Oản, Gà, Xôi,

Bao nhiêu là khỉ ngồi.
Tới núi con Voi phục,
Có đủ cả đầu đuôi.
Chùa lấp sau rừng cây.
(Thuyền ta đi một ngày.)

Lên cửa chùa em thấy
Hơn một trăm ăn mày.
Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,

Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàu.
Thầy me đến điện thờ,
Trầm hương khói tỏa mờ.

Hương như là sao lạc,
Lớp sóng người lô nhô.
Chen vào thật lắm công.
Thầy me em lễ xong,

Quay về nhà ngang bảo:
“Mai mới vào chùa trong.”
Chàng hai má đỏ hồng
Kêu với thằng tiểu đồng

Mang túi thơ bầu rượu:
“Mai ta vào chùa trong!”
Đêm hôm ấy em mừng.
Mùi trầm hương bay lừng.

Em nằm nghe tiếng mõ,
Rồi chim kêu trong rừng.
Em mơ, em yêu đời!
Mơ nhiều… Viết thế thôi!

Kẻo ai mà xem thấy,
Nhìn em đến nực cười!
Em chưa tỉnh giấc nồng,
Mây núi đã pha hồng.

Thầy me em sắp sửa
Vàng hương vào chùa trong.
Đường mây đá cheo veo,
Hoa đỏ, tím, vàng leo.

Vì thương me quá mệt,
Săn sóc chàng đi theo.
Me bảo: “Đường còn lâu,
Cứ vừa đi ta cầu

Quán Thế Âm Bồ Tát
Là tha hồ đi mau!”
Em ư? Em không cầu,
Đường vẫn thấy đi mau.

Chàng cũng cho như thế.
(Ra ta hợp tâm đầu.)
Khi qua chùa Giải Oan,
Trông thấy bức tường ngang,
Chàng đưa tay lẹ bút

Thảo bài thơ liên hoàn.
Tấm tắc thầy khen: “Hay!
Chữ đẹp như rồng bay.”
(Bài thơ này em nhớ,
Nên chả chép vào đây.)
Ô! Chùa trong đây rồi!

Động thắm bóng xanh ngời.
Gấm thêu trần thạch nhũ,
Ngọc nhuốm hương trầm rơi.
Me vui mừng hả hê:

“Tặc! Con đường mà ghê!”
Thầy kêu: “Mau lên nhé!
Chiều hôm nay ta về.”
Em nghe bỗng rụng rời

Nhìn ai luống nghẹn lời!
Giờ vui đời có vậy,
Thoảng ngày vui qua rồi!
Làn gió thổi hây hây,

Em nghe tà áo bay,
Em tìm hơi chàng thở.
Chàng ôi, chàng có hay?
Đường đây kia lên trời,

Ta bước tựa vai cười.
Yêu nhau, yêu nhau mãi!
Đi, ta đi, chàng ôi!
Ngun ngút khói hương vàng,

Say trong giấc mơ màng,
Em cầu xin Trời Phật
Sao cho em lấy chàng…

( Sưu tầm )

Thân mến
TQĐ