Ông Khiêm nhẩy
mũi liên tục mấy cái. Làm như môi trường chung quanh cũng đồng lõa tiếp tay với
nỗi buồn bực sẵn có trong lòng mà hành hạ, quấy rầy cái thân già lẻ loi thui thủi
của ông cho đến nơi đến chốn vậy. Mỗi năm cứ vào đầu Xuân, trong vườn sau nhà
ông đủ loại hoa nở rộ cũng chính là lúc ông khổ sở nhất vì chứng dị ứng với phấn
hoa. Lúc con trai ông còn ở nhà cứ nhằn ông sao trồng quá nhiều hoa để cho
không khí kém trong lành. Nó đâu biết rằng mỗi loại hoa nở vào từng mùa khác
nhau - đặc biệt là dịp Tết - có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với ông. Đó
là vì ông vốn là người luôn thích sống theo thói quen xưa, lề lối cũ, luôn giữ
đúng lễ nghĩa, đạo đức, bảo vệ nề nếp, gia phong và tập quán cổ truyền một cách
cực đoan, cố chấp. Thêm vào tuổi tác cao cũng góp một phần ảnh hưởng đến sự bảo
thủ, tư duy, khó chấp nhận những đổi thay đồng thời tạo nên sự cản trở khó khăn
cho việc hội nhập và thích ứng với đời sống mới trên xứ người của ông.
Công việc vườn
tược gần như chiếm hết thời giờ trong ngày của ông Khiêm. Mùa Đông ông chăm sóc
từng gốc magnolia tím, hoa đào quince, tâng tiu từng giò thủy tiên, vun xới mấy
khúm cúc đủ màu. Ông trân quý từng cụm jasmine mùa đông* mà ông dùng thay thế
cho hoa mai vàng ở quê nhà và cố sao cho chúng trổ hoa vào đúng thời điểm Tết
thôi. Rồi những chậu lan bướm đủ màu sắc nữa, chúng là bậu bạn của ông trong những
ngày tháng lạnh lẽo. Vào tháng Hai tháng Ba ông có nào hoa mận plum, hoa đào
lông peach, đào trơn nectarine, hoa táo, hoa lê, hoa trà camelia cùng đám lan đất
với những ngồng cao mang hai hàng bông to rực rỡ. Đến tháng Tư ông lại có mấy gốc
anh đào Cherry Blossom, hoa hồng rose đủ màu, rồi hoa Tử Đằng Wisteria nở rộ
tím và thơm ngát, hoa đỗ quyên Azalea pha sắc, hoa tuyết Snowball trắng nuốt nuột...
Ôi thôi, kể hoài không hết tên các loài hoa nở quanh năm trong vườn nhà ông. Và
rồi chính vì thế mà ông luôn bận rộn quanh năm suốt tháng, làm quần quật cả
ngày không hết việc. Nhờ thế mà ban ngày ông quên khoắng đi nỗi buồn cô quạnh,
ngày dài đìu hiu cuối đời; tạm gác một bên cái buồn xa con cứ đeo đẳng bên lòng
và cái tuổi tác nó cứ leo thang vùn vụt mà lại ngược chiều với sức bền bỉ dẻo
dai của cơ thể ông. Có lúc ông cũng cũng thấy cơ thể mỏi nhừ tử chứ, đau đớn chỗ
này, nhức nhối chỗ nọ, nhất là cái lưng dạo này hành hạ ông thường xuyên hơn.
Nhưng ông vẫn không màng quan tâm đến, vì ông cần một giấc ngủ mê mệt thiếp đi
lúc đêm về. Ông tự nhủ: cứ ngủ đêm đến sáng là sẽ khỏe lại ngay. Và ông tiếp tục
miệt mài trong thú đam mê hoa lá và cây kiểng của mình. Thế mà cứ mỗi khi quanh
quẩn bên chúng vào lúc bông nở rộ đẹp nhất thì ông không sao tránh khỏi bị ngứa
ngáy mắt, mũi, tai, cuống họng và nhảy mũi liên miên. Thoạt đầu ông còn chịu
khó đi Bác sĩ lấy thuốc uống ngừa. Lâu dần ông lười rồi cứ để vậy chịu trận.
Ông bảo để cho cơ thể quen dần, cũng chẳng chết ai. Thế mà… thế mà…
”Ách… xi… i…
xì!” Lại nữa, ông phàn nàn. Thế mà… lâu nay nó có chịu quen đâu!
“God bless
you.” Bên kia rào nhà ông có tiếng non nớt của trẻ con nói vói sang.
“Thank you.”
Ông cũng vội vàng đáp lễ theo phép lịch sự.
Chủ cũ ngôi
nhà sát cạnh nhà ông trước kia đã dọn đi cả nửa năm rồi. Nhà để trống cho đến
bây giờ mới có người mới dọn vào được vài hôm. Theo như sự tò mò, xoi mói của
ông Quỳnh - bạn ông - thì hình như chỉ thấy có một người đàn bà và hai đứa trẻ.
Ông nghe vậy thì biết vậy thôi, chẳng để ý làm chi. Đến nay nghe tiếng trẻ con
ông độ chừng là bé gái chỉ khoảng 5 hay 6 tuổi là cùng. Có lẽ gia đình hàng xóm
mới là cặp vợ chồng hãy còn trẻ.
Ôi chao! Cái
cổ của ông sao mà nó ngứa khốn ngứa khổ thế này. Ông phát ho lên mấy tiếng cho
thông cuống họng. Bên kia rào lại vọng lên tiếng trong trẻo, non nớt và đãi nhựa
kéo dài:
“Are you
O.K… ê… ế…?” Giọng như săn đón, lo lắng và dễ thương làm sao!
“Yes, I am
OK. Thank you.” Ông Khiêm mỉm cười và trả lời.
“Where is
your mom?”
Bây giờ thì
ông thật sự bật cười thành tiếng vì đứa bé này có sự ân cần, quan tâm cho người
khác đến hay.
“I am an old
man and I don’t need my mom.”
“Oh!”
Sau tiếng
“oh” như trút được nỗi lo âu thì ông nghe có tiếng kéo lê vật nặng nề một cách
khó khăn. Rồi một cặp mắt tròn xoe với khuôn mặt bầu bĩnh, xinh xắn, đẹp như
tiên đồng ngọc nữ nhô lên khỏi hàng rào, vẫy vẫy tay về phía ông.
“Hello! Oh!
Oh! You look like my Gran Pa. Sonny! Get up here. Look at him. See? See?
Con bé này
thật lanh lợi, nói không ngừng miệng. Nó đi xuống và ông nghe lục đục một lát
thì một đứa bé trai kháu khỉnh lại cố rướn đầu nhìn sang bên ông nhưng cứ bị thậm
thụt vì còn quá thấp. Bây giờ thì đến phiên ông Khiêm đâm lo lắng, sợ chúng bị
té lỗ đầu gẫy cẳng. Ông lật đật chạy đến bên rào để chúng nhìn ông cho rõ và trả
lời mấy câu hỏi tò mò, ngây thơ của chúng. Chúng cứ quả quyết là ông giống y
ông nội của chúng trong hình. Thằng bé Sonny thì bảo râu của ông giống râu ông
nội nó. Đứa con gái tên Annie thì chỉ vào kiếng ông đang mang và bảo kiếng của
ông nó cũng như vậy đó. Ông phải phì cười và giảng giải cho chúng là những người
già đều có điểm chung là để râu và mang kiếng. Cuối cùng ông bảo chúng vào
trong nhà vì ông bận việc nên không ở ngoài sân nữa.
“Can I call
you ‘Gran Pa’?” Chúng vâng lời ông, nhưng trước khi đi còn ngoái cổ hỏi.
“If it’s OK
with your mom.”
Ông trả lời
cho qua chuyện rồi thong thả đi vào với một thoáng lâng lâng, nhẹ nhàng và háu
hức như đứa trẻ vừa được quà. Dường như có một cái gì là lạ vừa mới len lỏi vào
con tim nguội lạnh, khô cằn của ông. Có tiếng reo vui lào xào từ khóm hoa, ngọn
cỏ đang đuổi theo sau lưng. Mùi hương tổng hợp của hoa Xuân thoang thoảng quyện
bước chân ông vào đến tận trong nhà.
Đã lâu rồi,
từ khi thằng con trai bỏ đi, ông chưa bao giờ có được giây phút vui vẻ như chiều
hôm nay. Hai đứa trẻ con nhà hàng xóm mới dọn tới thật dễ thân thiện và đáng
yêu làm sao. Những đứa trẻ sinh đẻ trên xứ người hình như dạn dĩ và niềm nỡ hơn
trẻ ở xứ mình. Giá ông có được mấy đứa cháu nội bên cạnh thì hẳn giờ này chúng
cũng lớn chừng này và cũng khôn ngoan, mau mắn như thế. Ơ, mà nào phải ông
không có đâu chứ!... Rồi theo dòng suy tư một cách vô thức, ông lần hồi quay trở
về với cuốn phim cũ kỹ đã làm nhức nhối, tê buốt cả cõi lòng trong phần đời còn
lại của ông.
Vợ ông mất sớm,
để ông lại một mình cu ky nuôi thằng con trai mới 15 tuổi. Ông chỉ mong sao lo
cho nó học hành xong rồi cưới một con vợ đàng hoàng tử tế và đẻ cho ông vài đứa
cháu nội để nối dõi. Thế là ông đã làm tròn bổn phận đối với tổ tiên, giữ vẹn lời
hứa với bà, vì nhà ông mấy đời vốn chỉ một cây một trái đơn độc. Thế mà bao
nhiêu hy vọng ông đặt vào thằng con trai nay đã tiêu tan theo mây khói.
Trăm chuyện
chỉ tại bắt nguồn từ một con đầm lai mà thôi! Khi Nhân – thằng con trai duy nhất
của ông - ra trường rồi tìm được một việc làm tương đối tốt và gần nhà thì ông
Khiêm bắt đầu dò la, tìm cách làm mai mối ngầm những cô gái trong đám con cháu
của bạn bè ông cho nó. Mỗi lần ông dẫn đi coi mắt đứa con gái nào thì nó đều gạt
ra và viện hết lý này lẽ nọ để thối thoát. Lúc thì nó bảo chờ có công ăn việc
làm thật vững chắc đã. Khi thì nó muốn để thong thả học lên cao nữa. Hoặc chưa
gặp phải người đồng tâm hợp ý… Mãi cho đến khi ông Khiêm sốt ruột, lo nghĩ có lẽ
mình sẽ không kịp thấy mặt cháu nội trước ngày nhắm mắt - thì đùng một cái - thằng
con xin phép ông cho nó cưới một con đầm lai. Lai gì thì ông chẳng cần hỏi, chỉ
chắc một điều là nó không phải con gái Việt Nam thuần túy như ông đã trừu định.
Ông Khiêm đón tin này như trời long đất lở. Cái điều ông lo sợ sẽ bị tuyệt
dòng, tuyệt giống, mất gốc nay sắp thành sự thật rồi. Làm sao ông chấp nhận được
chứ? Tổ tiên nhà ông có chịu nhìn nhận đám cháu ngoại lai chẳng giống ai trong
họ hàng xưa nay không? Ông vừa lo sợ vừa tức giận phừng phừng. Thế là ông làm
toáng lên, la rầy thằng con không tiếc lời. Cha con cứ lời qua tiếng lại. Thằng
con nhất định không nhượng bộ bố nó nửa bước. Còn ông cương quyết không thừa nhận
con dâu người nước ngoài. Cuối cùng ông tuyên bố thẳng thừng:
“Mày còn
nhìn nhận tao là cha mày thì kiếm một con vợ Việt Nam mà mang về đây. Còn muốn
lấy Tây Tàu gì thì cứ đi theo nó. Tao cấm mày không được mang những thứ ấy vào
nhà này. Kể như tao không có con có cháu vậy.”
Nhân chẳng
nói chẳng rằng, lẳng lặng bỏ đi. Vài hôm sau nó trở về với lão Quỳnh – bạn của
ông Khiêm – để nhờ lão năn nỉ phụ. Nó biết ông Khiêm thường nể lời ông Quỳnh vì
họ là bạn nối khố lâu đời với nhau. Nhưng lần này thì dù ông Quỳnh nói phải nói
trái gì đều bị ông Khiêm gạt qua một bên và khăng khăng giữ vững lập trường của
mình: không thừa nhận con dâu ngoại quốc. Cuối cùng ông Quỳnh đành nói huỵch toẹt
cái sự thật phũ phàng trước mắt:
“Ông bạn già
à, tôi nói thiệt nghen, lớp mình rồi nay mai gì cũng theo ông theo bà chớ đâu
có lột da mà sống đời với con cháu đâu. Thôi thì mình ở xứ người được sao thì bằng
lòng vậy đi, miễn tụi nó thuận thảo, hạnh phúc với nhau là mừng rồi. Như con
cái tôi ấy…”
“Ông khác
tôi khác. Ông có tới 3 thằng con trai, mất đứa này còn đứa kia. Còn tôi chỉ có
một mống, thử hỏi cháu nội tôi một lũ ngoại lai làm sao tôi ăn nói với tổ tiên
chớ?”
“Ối, thời
nay mà. Ông bà mình rồi cũng châm chước chứ hơi đâu mà bắt bẻ, trách móc con
cháu.”
“Không! Tôi
đã bảo không là không. Anh đừng có vẽ đường cho hưu chạy nữa bằng không tình bạn
bè của mình sẽ bị sứt mẻ đó.” Ông Khiêm bực tức trả lời.
“Là bằng hữu
với nhau lâu nay, tôi chỉ mong cha con anh được vui vẻ, gia đình anh yên ấm
thôi. Tôi hy vọng anh nhẹ tay cho cháu nó nhờ. Đừng để đi đến cảnh “già néo đứt
dây” nghe ông bạn già.” Ông Quỳnh hơi bị phật lòng nên nói xẵng. Xong ông quay
sang Nhân và nói:
“Chú xin lỗi
đã không giúp được gì cho cháu. Chuyện này chú đã đoán trước với cháu vậy đó.
Khó lắm.”
Nói xong ông
Quỳnh bỏ ra về. Một mình Nhân vẫn tiếp tục xuống nước nài nỉ:
“Ba, tụi con
lỡ thương nhau rồi. Ba cho con cưới Jeannette nghe.”
“Không cưới
xin gì cả. Mày muốn thì dắt đi cho khuất mắt tao. Đừng bước chân vào nhà này nữa.
Lời tao như đinh đóng cột.” Nói xong ông Khiêm bỏ ra sau vườn.
Nhân buồn
bã, lặng lẽ mấy hôm rồi báo cho ông biết nó đã nhận việc làm ở Âu Châu và có lẽ
sẽ ở bên ấy một thời gian. Ông Khiêm kinh ngạc đến lịm đi, đớ người ra khi biết
tin này. Rồi tiếp đến là những chuỗi ngày quay quắt với nỗi xót xa thắt thẻo,
buồn rầu áo não. Ông chỉ tính làm cứng cho thằng con thấy khó khăn mà thôi con
đầm chứ ông đâu có nghĩ tới nước nó cũng cứng đầu cứng cổ và ngang bướng, dám
thi gan với ông. Ông thầm ước phải chi còn bà thì những chuyện nhức đầu này đã
không xẩy ra. Bây giờ ra nông nổi này ông chỉ còn nuôi hy vọng thời gian sẽ làm
cho thằng con sớm chán con đầm, suy nghĩ lại rồi trở về nhà.
Bẵng đi thời
gian dài cha con xa cách. Mỗi năm Nhân ghé qua nhà vài hôm thăm ông rồi lại đi
tiếp, còn thì chỉ gọi điện thoại hỏi thăm sức khỏe, việc nhà cửa, linh tinh vậy
thôi. Cả hai cha con cùng tránh nhắc nhở đến chuyện xưa. Có nhiều lúc nói chuyện
với con trai ruột thịt của mình qua điện thoại mà ông tưởng như đang nói vu vơ,
gượng gạo với người xa lạ, chưa đủ thân thiết để có thể cởi mở hàn huyên mọi
chuyện vậy. Bức tường chia cách cha con ông ngày một dầy hơn, kiên cố hơn. Vì
đâu nên nỗi này? Nỗi đau nỗi buồn khó giải! Tại sao thằng con không biết giữ đạo
làm con? Trời không chịu đất thì đất phải chịu trời chứ, chẳng lẽ ông phải xuống
nước đầu hàng? Bao đêm ông Khiêm nhớ đến người vợ quá cố của mình và thầm trách
sao bà đi trước để khổ lại cho ông. Nếu bà còn sống bà sẽ xử trí ra sao đây?
Ông già rồi nhưng cái lòng tự ái vẫn còn to bằng trái núi, tánh tự cao tự đại vẫn
cứ y nguyên như thuở còn trẻ. Ông không thể hạ mình để lên tiếng tha thứ hay
năn nỉ thằng con quay lại. Mới cách đây mấy tháng thôi, Nhân trở về một mình và
ở nhà khoảng hai tuần lễ. Ông Khiêm mừng lắm, tưởng mọi chuyện đã qua đi và sẽ
trở lại bình thường như xưa. Ngờ đâu trước ngày đi nó xin ông tha lỗi rồi lại
xin phép được đem vợ con về tạ tội. Thế là niềm hy vọng mới chớm trở lại của
ông đã vội tan vỡ, cơn giận ngỡ rằng đã nguôi ngoai bây giờ lại bùng lên như ngọn
lửa gặp phải gió to.
“Tưởng mày bỏ
con đó mà về đây để tao lo vợ con đàng hoàng tử tế cho mày chứ còn cái thứ vợ
con lượm đầu đường xó chợ thì đừng hòng tao nhìn nhận.”
Ông quát
tháo to tiếng và tức giận quá độ khiến áp huyết lên ầm ầm đến nỗi phải chở vào
bịnh viện cấp cứu. Từ đó ông mang thêm chứng bịnh cao máu. Và cũng từ đó thằng
Nhân không gọi về nữa. Vậy đó. Cảnh gà trống nuôi con của ông bây giờ thành gà
trống cui cút một mình. Ông rơi vào tận cùng của nỗi cô đơn, chán chường và thất
vọng vì thấy mình bất lực.
Càng ngày
ông càng cảm thấy những quyết định của mình ngày ấy dường như có điều quá đáng,
không ổn. Ngày xưa cha mẹ ông ở dưới quê tận Phong Điền - Cần Thơ, cho ông lên
Sài Gòn học rồi cũng muốn ông về lấy con gái vùng quê đó để có con dâu biết
cách ăn thói ở cho thích hợp với gia đình chồng. Nhưng nào ông có nghe lời đâu.
Ông chống đối quyết liệt và nhất định đòi cưới An, một cô gái gốc Sài Gòn đang
học trường Marie Curie. Dạo ấy để được cưới An ông đã dọa cha mẹ nếu không bằng
lòng thì ông sẽ cạo đầu đi tu. Dòng họ ông chỉ trông cậy vào một mình ông để nối
dõi tông đường sau này. Thế là cha mẹ ông đành phải chìu thằng con. Nhờ vậy ông
mới cưới được vợ theo ý mình. Phải chăng sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đó? Phải
chăng cha mẹ ông đã có tầm hiểu xa, thấy rộng và cảm thông cho thế hệ kế tiếp
nhiều hơn ông, đã khôn ngoan sáng suốt hơn ông vạn lần? Ông suy nghĩ, cân nhắc
nhiều lần trong những đêm thâu trăn trở không ngủ được, rồi tự hỏi có phải mình
đã tính toán sai lầm. Làm sao lật ngược thế cờ đây? Mới đó mà đã năm năm trời!
Một tuần sau
bà hàng xóm dẫn hai đứa con và mang một dĩa bánh nướng còn nóng hổi sang thăm
ông. Bà bảo lẽ ra bà định sang thăm ông ngay hôm mới đến nhưng vì dọn nhà một
mình quá lu bu nên không làm được. Ông Khiêm cũng lấy làm tiếc vì đúng ra chính
ông phải là người đến thăm láng giềng mới dọn đến trước mới phải, nhưng vì vợ
ông mất rồi nên ông chẳng biết tính toán sao coi cho được. Janne – tên người
hàng xóm và bà yêu cầu ông gọi như vậy - tánh tình bặt thiệp, cởi mở, vui vẻ,
dí dỏm, đôi lúc khôi hài rất duyên dáng. Tuy mang vẻ đẹp rạng rỡ của người Tây
phương, nhưng bà vẫn không thiếu nét nhu mì, hiền hậu và tế nhị. Janne cho ông
biết sau mùa hè năm nay sẽ vào dậy môn Ngôn ngữ học cho một trường College gần
khu ông ở. Còn chồng bà vài tháng nữa sẽ chuyển công tác về hãng gốc cũng tại
đây, lâu nay ông ta đã làm cho một chi nhánh của hãng này nhưng ở nơi khác.
Hai đứa trẻ
một gái một trai thật xinh xắn, khôn ngoan và lễ phép. Chờ khi người lớn ngừng
chuyện mới xen vào.
“Mom, can I
call him “ông nội”? Con Annie hỏi mẹ nó.
Ông Khiêm
chưng hửng một cách thích thú và trố mắt nhìn vì ông nghe rõ ràng nó phát âm
hai chữ “ông nội” đúng y tiếng Việt Nam. Đoán được sự ngạc nhiên của ông, Janne
giải thích:
“Tôi dạy
cháu tiếng Việt đấy. Vì chuyên môn của tôi là Ngôn ngữ học nên tôi cũng biết được
vài thứ tiếng. Hơn nữa chồng tôi và tôi luôn cho rằng càng biết được nhiều thứ
tiếng thì càng tốt. Tôi đoán chừng ông là người Việt Nam nên rất mừng là mẹ con
tôi được ở cạnh làm quen với ông và có cơ hội thực tập nói tiếng Việt luôn.”
“Ồ, tôi rất
lấy làm vinh dự được cái may nắm đó. Tôi cũng nghĩ như bà, biết thêm nhiều thứ
tiếng rất có lợi cho bọn trẻ về sau.”
Ông Khiêm trả
lời vội vàng như sợ lỡ mất cơ hội hiếm có vậy. Dầu gì thì cũng là cái tự hào
dân tộc mà.
“Và ông cho
phép chúng nó gọi bằng “ông nội” nhé?
“Được. Được
lắm.” Ông Khiêm toét miệng cười.
“Theo phong
tục người Việt nam thì cháu chỉ đáng tuổi con cháu ông thôi và sẽ gọi ông theo
con cái mình, tức là cũng gọi ông bằng “ông nội” để cho bọn trẻ noi theo.”
Lần này bà
Janne nói tiếng Việt hẳn hoi và rõ ràng. Ông không ngờ bà chẳng những nói được
mà còn am hiểu sâu xa phong tục, lễ nghĩa của người mình nữa. Ông thật hỉ hả
trong lòng và có cảm tình với gia đình này ngay. Ông thầm hy vọng người chồng của
Janne cũng sẽ có sự thông hiểu văn hóa Á đông như vậy.
Bỗng nhiên
ông Khiêm có được một người láng giềng tốt bụng, hiểu biết và bải bui cùng hai
đứa cháu nội “hờ” thật dễ thương giống như cơ may từ trên trời rớt xuống vậy. Họ
qua lại với ông thường xuyên hơn. Hai đứa nhỏ quấn quit, líu lo bên ông mỗi khi
chúng sang chơi làm ông tạm quên được nỗi buồn quạnh hiu. Janne nấu được món ăn
gì lạ và ngon đều chia sẻ với ông một cách vồn vã, nhiệt tình. Nhất là sau này
cô tuyên bố đang học nấu thức ăn Á đông và đặc biệt là món ăn của người Việt
Nam. Lúc đầu ông nghĩ đó chỉ là cử chỉ lịch thiệp, ân cần của người Tây phương.
Nhưng lâu dần thì ông thấy cả mấy mẹ con họ đều tỏ ra nồng nhiệt, thân thiện thật
sự và luôn quan tâm đến ông một cách đặc biệt khiến ông cảm động và thấy trong
lòng cũng nẩy sinh một thứ tình cảm quyến luyến, quí mến họ không kém. Cảm giác
hơi lạ lẫm, ngỡ ngàng, nhưng thật dễ chịu.
Ông Khiêm
vui cùng cái vui chung với gia đình hàng xóm mà lâu nay ông không hề trải qua.
Ba mẹ con họ thường mời ông tham dự những buổi picnic ngoài công viên do ông hướng
dẫn địa điểm, hay những bữa tiệc nướng nho nhỏ nhưng đầy thích thú cho cả người
già lẫn trẻ con trong sân sau nhà. Thét rồi ông đề nghị và được sự ủng hộ nhiệt
liệt của cả 3 mẹ con là mở một cửa nhỏ giữa hàng rào ngăn hai bên vườn sau để
thông thương hai nhà cho dễ dàng và an toàn cho 2 trẻ. Ông tự coi cái trọng
trách lưu truyền văn hóa và dạy tiếng nước mình cho người khác là bổn phận của
ông, của những người Việt lưu vong còn nhớ gốc. Vì vậy ông soạn thảo chương
trình dạy bọn trẻ nói và đọc chữ Việt một cách kỹ càng, có phương pháp hẳn hoi,
vừa hấp dẫn, vừa vui lại dễ nhớ. Ông thầm tự hào dầu gì thì mình cũng từng làm
việc phiên dịch sách ngoại ngữ cho bộ giáo dục trước đây chứ tệ gì. Bọn trẻ học
nói tiếng Việt nhanh chóng và tiến bộ thấy rõ, chúng thường thỏ thẻ kể chuyện
cho ông nghe về ba nó. Thằng em có lúc mếu máo nói với ông “con nhớ Ba lắm”.
Còn con chị hay nhắc đến ông nội mà nó chưa bao giờ biết mặt, chỉ thấy qua
hình. Nó bảo “Ba hứa đem con về thăm ông Nội nay mai mà”. Có lúc nó lại bảo ba
nó lấy tên bà nội đặt cho nó đó. Bà nội nó chết rồi. Ông chạnh lòng nghĩ đến thằng
con mình và ước gì mấy đứa này là con của nó thì chắc ông sẽ thương yêu chúng
vô vàn. Còn Janne, có lúc cô gọi ông bằng “ông nội” theo hai đứa con, có lúc
cao hứng cô gọi ông là “Papa” ngon ơ, ngọt xớt luôn làm ông rưng rưng nghĩ đến
người con dâu không bao giờ có được của mình mà mủi lòng. Vì sao nên nỗi này?
Ông vẫn thường tự hỏi. Có phải vì ông quá khắt khe, quá cố chấp không? Tại sao
cứ là người Việt mới thương yêu, quí mến được? Biết đâu cháu ông nó cũng đáng
yêu như hai đứa trẻ này thì sao? Dẫu chúng có lai căng thì vẫn còn một phần máu
mủ của ông chứ nào phải nước lã? Ờ, mà ông nghe đâu hình như thằng Nhân cũng đã
có hai đứa con rồi. Nhưng biết nó ở đâu mà hỏi bây giờ? Lòng ông chùng xuống,
trĩu nặng như bầu trời mùa Đông thê lương, ảm đạm.
Năm nào cũng
vậy, từ khi thằng Nhân bỏ đi, cứ hễ đến ngày sinh nhật của ông Khiêm là ông Quỳnh
hẹn đến để chúc thọ ông rồi họ rủ nhau đi đây đi đó để giúp ông tạm quên nỗi buồn
cô quạnh. Sau cùng ông Quỳnh trao cho ông món quà gọi là của riêng thằng Nhân
nhờ ông trao lại. Còn thằng Nhân chỉ gọi về chúc mừng sinh nhật ông qua loa là
xong chuyện. Mấy lần đầu ông Khiêm buồn và giận thằng con lắm vì nó chẳng nhân
nhượng và nể nang ông chút nào. Nó cứ đi biệt không về! Giống như tình phụ tử
giữa ông và nó nhẹ tênh như lông hồng vậy. Lâu dần ông cũng đành làm ngơ cho
qua ngày đoạn tháng. Vì ông không thể hạ mình mà xoay chuyển thế cờ được.
Năm nay thì
hơi đặc biệt khác. Ông Quỳnh hẹn sẽ chuẩn bị thức ăn và mang đến nhà ông để họ
cùng nhau nhậu nhẹt một bữa cho đến quắc cần câu. Nói nghe hùm hổ thế thôi chứ
thật ra hai ông chỉ lai rai dăm ba sợi là đã đầu hàng thua trận tại chiến trường
rồi. Còn sức đâu mà chiến đấu đến cùng chứ! Họ đều thừa nhận như vậy. Nhưng vẫn
đủ sức tạo bầu không khí sôi nổi, vui vẻ, hào hứng cho hai ông già sống lại
giây phút hào hùng của mình ngày xửa ngày xưa. Mới đó mà đã mấy mươi năm rồi
còn gì!
Ông Quỳnh
mang đến hai chai rượu đỏ, một gói khô mực cáng mỏng, tơi và mềm chấm với tương
ớt, một dĩa gỏi chân gà rút xương mà ông Khiêm thích.
“Gỏi của bà
nhà tôi gửi ông đấy. Còn khô mực này con dâu về VN mua qua cho tôi cùng cái máy
cán cho mềm chứ răng cỏ đâu mà nhai nổi khô mực như xưa.” Ông Quỳnh giải thích.
Trong lúc
ông Khiêm loay hoay dọn thức ăn bày ra bàn rồi với tay lấy hai cái ly uống rượu
thì có tiếng gọi cửa. Mở cửa ra ông thấy người hàng xóm mới khệ nệ mang hai dĩa
thức ăn thật to cùng lổm ngổm nào gói nào bọc. Vừa thấy mặt ông Janne nói
“Happy birthday, papa”. Ông Khiêm hơi sửng sốt bất ngờ xong vui ra mặt, rồi đưa
tay đỡ phụ một dĩa thức ăn và mời rối rít:
“Vào đây,
vào đây tôi giới thiệu cho. Ông Quỳnh ơi, đây là…”
“Ồ! Chúng
tôi đã biết nhau. Hôm đến đây không có ông ở nhà nên tôi đã sang làm quen với
Janne và đã thay mặt ông mời cháu ấy sang dự tiệc sinh nhật .” Ông Quỳnh cướp lời.
Rồi ông quay sang lấy bớt những bao bọc to trên tayJanne và giục:
“Vào đi
cháu. Chà! Bánh xèo và chả giò. Toàn món ông ưa thích cả đây nhé.”
Ông Khiêm ngớ
ra một tí rồi cười thầm trong bụng: Lão già này môi mép, lẹ chân lẹ tay và ghê
gớm thật. Thảo nào lúc trẻ luôn đắt đào nhất trong bọn.
Thức ăn được
bày dọn khéo léo đẹp đẽ ra bàn nhờ sự phụ giúp của Janne. Ông Khiêm bốc thử cái
chả giò còn nóng hổi và miếng bánh xèo giòn tan rồi buộc miệng:
“Chà, ngon
tuyệt. Giống y như chả giò và bánh xèo bà nhà tôi thường làm lúc còn sinh tiền.”
“Đấy, đó là
cái lợi của thời buổi văn minh Hitech mà. Ông muốn học nấu nướng thức ăn của bất
cứ nước nào trên thế giới thì chỉ cần ấn nút computer là biết cách làm ngay.”
Ông Quỳnh giải thích.
“Cháu cho
hai đứa nhỏ sang chơi nhé.” Không thấy hai đứa trẻ, ông Khiêm quay sang bảo
Janne.
“Vâng, chúng
sắp qua tới, Papa.” Janne trả lời không đắn đo.
Đang khi ông
Khiêm bận rộn xếp thêm ghế cho hai đứa nhỏ thì cửa trước bật mở toang và thằng
con trai ông bước thẳng vào nhà. Ông Khiêm ngạc nhiên và mừng rỡ đến thốt không
nên lời.
“Ba, con về
để chúc mừng sinh nhật của Ba. Nhờ chú Quỳnh giúp nên con mua được căn nhà ở cạnh
đây để gần gũi và chăm sóc Ba lúc tuổi già. Ba tha thứ cho vợ chồng con nghe
Ba.”
Quá đột ngột
và bất ngờ nên ông Khiêm đứng trơ như phỗng, chẳng kịp thời giờ cho những lời
nói mà ông chờ đợi từ cửa miệng Nhân xuyên vào cái đầu chậm chạp của ông. Một
lát sau ông đưa mắt nhìn ra cửa để tìm vợ con nó thì Janne bước đến cầm tay ông
và nài nỉ:
“Papa, con
xin lỗi đã làm Papa buồn lâu nay. Papa đừng giận con nữa nghe.” Rồi quay ra gọi
to “Annie, Sonny vào chào ông nội.”
Phải mất mấy
phút đồng hồ cho cái bộ óc già nua đang bất động của ông Khiêm hoạt động trở lại,
cho ông thấy mọi chuyện rơi đâu vào đấy đúng như ý ông mong muốn mà đã không
làm được. Ông xúc động đến đứng không vững và ngồi thụp xuống chiếc ghế trống cạnh
đấy. Hai đứa nhỏ ùa vào chia ra đứng hai bên ông, miệng nói đồng loạt
“Happy
birthday ông nội.”
“Ông bạn già
ơi! Vợ chồng nó có lòng thành và gắng công lắm mới tạo được ngày hôm nay. Thôi
thì ông mở lượng hải hà tha thứ cho chúng để ông cháu ông hủ hỉ những ngày còn
lại.” Nãy giờ ông Quỳnh lặng thinh bây giờ mới lên tiếng phụ họa.
Cảm giác mừng
mừng tủi tủi, sung sướng, hối hận, nuối tiếc… lẫn lộn trào dâng, tuôn chảy ra
như nước vỡ bờ khiến ông nghẹn ngào, không cầm được nước mắt. Rồi hai giọt lệ từ
từ lăn xuống, chảy dài trên đôi gò má đã không còn đầy đặn của ông. Ông Quỳnh
cũng xúc động không kém, nhưng thấy vai tuồng mình đóng đã xong, không còn cần
thiết nữa nên ông lặng lẽ bỏ ra về mà không ai hay. Nãy giờ hai đứa cháu nội im
thin thít, chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra. Chúng lo lắng, sợ sệt, hết nhìn người
này lại quay sang nhìn người khác, ngạc nhiên, ngơ ngác vì thấy gương mặt người
lớn sao quá nghiêm trọng. Khi thấy ông Khiêm khóc thằng Sonny vội cầm bàn tay
ông bóp nhè nhẹ. Còn con Annie – bây giờ ông mới nhận ra nửa phần đầu tên nó là
tên vợ ông – vòng tay lên cổ ông, rồi hạ xuống dần vừa vuốt vuốt, vỗ vỗ cái
lưng hơi còng của ông vừa dỗ dành:
“It’s OK.
It’s OK. Nín đi ông nội”
Ông quàng
tay ghì sát hai đứa trẻ vào lòng. Thằng con trai ông đã phải đánh một vòng thật
lớn để cuối cùng mới được ông nhìn nhận bầu đoàn thê tử của nó. Còn ông Khiêm,
một cái gật đầu rất nhẹ hay một tiếng “ừ” thật ngắn gọn vậy mà ông phải mất đến
5 năm dài mới thực hiện được! Thời gian trôi vùn vụt và nghiệt ngã, liệu còn chờ
đợi ông được bao lâu nữa để cho ông tiếp tục tận hưởng cái hạnh phúc đoàn tụ
quí báu này?
Cỏ
Hoang