a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2018

5 thí nghiệm tâm lý cho thấy con người dễ bị lừa thế nào

Dù chúng ta có tự tin rằng mình tỉnh táo đến mấy, vẫn có những hiệu ứng tâm lý tác động lên ta một cách vô thức trước khi ta kịp nhận ra.
1. Thí nghiệm Carlsberg: “Đừng đánh giá ai qua vẻ bề ngoài”
5 thí nghiệm tâm lý cho thấy con người dễ bị lừa thế nào - Ảnh 0
Thí nghiệm này là gì: Hãy tưởng tượng bạn đang hào hứng vào rạp xem bộ phim bom tấn mới nhất, và khi bước vào bạn nhìn thấy rất nhiều “thanh niên xăm trổ” đang ngồi trong rạp, chỉ còn mỗi 2 ghế trống ở gần họ. Bạn đã mua vé, nhưng cảnh này nhìn có vẻ còn giống phim kinh dị hơn bộ phim bạn sắp xem. Bạn sẽ bỏ đi hay ở lại?
Kết quả: Nhiều người đã quyết định rời khỏi rạp để “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Tuy nhiên cũng có một số người đã ở lại, những “thanh niên xăm trổ” nhìn có vẻ dữ tợn ấy đã đến chúc mừng những người ở lại, thú nhận rằng họ chỉ là những người bình thường đang tham gia thí nghiệm, và tặng bia cho những ai ở ở lại.
Thí nghiệm tâm lý này cho thấy chúng ta vẫn bị ảnh hưởng nhiều bởi định kiến về vẻ ngoài đến thế nào, cũng như thể hiện rằng ta không nên đánh giá người khác thông qua vẻ bề ngoài.
2. Hiệu ứng Solomon Asch: “Thà sai còn hơn là khác biệt với mọi người”
Mô tả thí nghiệm: Solomon Asch muốn thử xem sức mạnh của sự đồng thuận trong một tập thể lớn đến đâu. Đồng thuận là khi hành vi của ta thay đổi vì áp lực từ ý kiến của người khác, dù ta biết rõ ý kiến đó sai mười mươi đi nữa.
Những người tham gia thí nghiệm được yêu cầu ước lượng chiều dài của những đường kẻ trên bảng, tìm ra những vật thể lớn bằng nhau, phân biệt màu của các ảnh kim tự tháp… Trong nhóm tham gia tình nguyện có trà trộn những diễn viên được giao nhiệm vụ trả lời sai để “tung hỏa mù” những người khác.
Kết quả: Trong 75% trường hợp, mọi người đều đi theo phương án trả lờ sai dù đó là những câu hỏi dễ đến hiển nhiên.
Sau khi thí nghiệm kết thúc, những người tham gia chia sẻ rằng họ đã cảm thấy rất không thoải mái, nhưng cuối cùng vẫn đi theo ý kiến trái chiều kia dù biết đó là sai đi nữa.
5 thí nghiệm tâm lý cho thấy con người dễ bị lừa thế nào - Ảnh 1
3. “Nếu bạn có ý kiến khác, bạn đã sai”
Mô tả thí nghiệm: Lee Ross, một giáo sư từ trường ĐH Stanford đã đưa cho những người tham gia thí nghiệm một vấn đề khó. Hai bên phải chọn giữa hai đáp án khác nhau. Họ cũng được yêu cầu nghĩ xem những học viên khác sẽ chọn câu trả lời nào, và mô tả xem đó những người như thế nào.
Kết quả: Thí nghiệm chỉ ra rằng phần lớn người tham gia nghĩ những người khác sẽ đưa ra câu trả lời tương tự, đồng thời miêu tả những người có câu trả lời ngược lại theo cách khá tiêu cực.
5 thí nghiệm tâm lý cho thấy con người dễ bị lừa thế nào - Ảnh 2
4. Hiệu ứng “kẻ bàng quan” – “Rồi sẽ có ai khác giúp thôi”
Mô tả thí nghiệm: Sau vụ giết người gây chấn động một thời – vụ cô gái tên Kitty Genovese bị giết và có hàng chục người chứng kiến nhưng không ai ra mặt giúp đỡ, nhà khoa học John Darly và Bibb Latane đã làm chuỗi thí nghiệm thử phản ứng của mọi người khi có người cần giúp đỡ.
Kết quả: Thí nghiệm đã chứng minh rằng trong những trường hợp khẩn cấp, mọi người thường hành động nhanh chóng hơn nếu họ chỉ có một mình. Tuy nhiên, nếu có nhiều người khác xung quanh, họ sẽ do dự và nghĩ rằng rồi ai khác sẽ thay mình làm việc đó thôi. Hiệu ứng này sau đó được nghiên cứu kỹ hơn với một thí nghiệm tiêu biểu mang tên “Căn phòng khói ngạt”. Những người ngồi trong phòng một mình và nhận ra khói sẽ lên tiếng cảnh báo nhanh hơn người ở chung phòng với nhiều người khác, đặc biệt là khi những người xung quanh cũng tỏ ra thụ động.
5 thí nghiệm tâm lý cho thấy con người dễ bị lừa thế nào - Ảnh 3
5. Hiệu ứng Ringelmann: “Tôi sẽ chỉ quan sát thôi”
5 thí nghiệm tâm lý cho thấy con người dễ bị lừa thế nào - Ảnh 4
Mô tả thí nghiệm: Maximilien Ringelmann đã đặt ra một giả thuyết rằng mỗi người sẽ đóng góp ít hơn vào mục đích chung nếu họ làm cùng với nhiều người khác. Nhiều thí nghiệm khác nhau được tiến hành, ví dụ như kéo co, nhấc vật nặng… với nhiều nhóm tình nguyện viên khác nhau, kết quả hoạt động nhóm của mỗi người được so sánh với kết quả cá nhân.
Kết quả: Hiệu quả làm việc của cá nhân lại lớn hơn so với khi họ làm trong nhóm. Các nhà khoa học lý giải rằng người ta giảm động lực cống hiến khi họ đang trong một nhóm. Điều này có thể do ta cảm thấy thành quả của mình được ghi nhận không rõ ràng bằng khi thực hiện cá nhân.
Hoàng Ngọc Vũ
Nguồn: Gia Đình Mới

Người khai sinh nghệ thuật nhiếp ảnh dưới nước

Năm 1880, ở tuổi 21, một năm sau khi nhận được học vị tiến sĩ khoa học của Đại học Paris (Pháp), Boutan đã lên đường sang Australia để nghiên cứu về phôi thai của thú có túi. Vài năm sau đó, Boutan đã trở thành bậc thầy thỉnh giảng tại Đại học Lille (Pháp).
Ông đã nghiên cứu về đời sống hải dương ở Tây Nam nước Pháp và Hồng Hải. Cũng ở vùng Tây Nam nước Pháp, lần đầu tiên Boutan bắt đầu tưởng tượng về khả năng của nhiếp ảnh dưới nước.
Chuyến lặn biển đầu tiên của Louis Boutan nhằm thẩm tra thế giới các loài động vật thân mềm đã diễn ra vào năm 1886. Sau này ông nhớ lại: “Mọi thứ thật đẹp đẽ và kỳ ảo đến nỗi tôi thường có thể phác họa ngay ra hay vẽ nên khung cảnh đó”.
Boutan quyết định chụp “những phong cảnh tàu ngầm” này. Thật ra Louis Boutan không phải là người đầu tiên thử nghiệm với chụp ảnh dưới nước. Vào năm 1856, một cố vấn pháp luật người Anh tên là William Thompson đã tự mình lặn xuống vịnh Weymouth (Dorset, Anh) để chiêm ngưỡng thế giới dưới nước thông qua một camera được giấu bên trong chiếc hộp gỗ được tạo tác đặc biệt.
Louis Boutan biết rõ rằng có 2 khía cạnh chính để làm nên một bức ảnh dưới nước đạt chuẩn: áp suất và ánh sáng. Vì thế, Boutan bắt đầu thử nghiệm theo cách của riêng ông. Với sự giúp đỡ của anh trai Auguste (vốn là một kỹ sư), anh em nhà Boutan đã phát minh ra một thiết bị camera phát hiện đặt trong một hộp đồng không thấm nước.
Boutan đã cố gắng sử dụng thiết bị này vào năm 1893 nhưng kết quả không mấy khả quan. Không nản chí, Boutan đã sử dụng một bộ lọc màu xanh để đẩy máy và di chuyển thiết bị sang vịnh Troc nằm cạnh đó để có thể nhìn được tốt hơn.
Năm 1896, Boutan đã cố gắng để tung ra một camera có khả năng cách ly nước hoàn toàn. Boutan viết: “Khi tôi bắt đầu những thí nghiệm này, tôi nhận thấy khá thoải mái khi chụp ảnh ở độ sâu 1,2m, ở một độ sâu nào đó không cần thiết để người chụp ảnh tự lặn xuống. Có nghĩa là thông qua một ống kím loại gắn vào tấm gương, tôi có thể nhìn thấy rõ mồn một bề mặt của bức tranh mà tôi muốn chụp”. Boutan đã sáng tạo ra một ống kính ngắm dưới nước.
Bức ảnh chụp thợ lặn phụ tá Joseph David do nhà sinh học Louis Boutan bấm máy.
Bức ảnh chụp thợ lặn phụ tá Joseph David do nhà sinh học Louis Boutan bấm máy.
Cũng như các nhiếp ảnh gia hiện đại, trong các thí nghiệm của mình, Boutan đã phải đối mặt với việc xử lý vấn đề ánh sáng. Ông đã thử nghiệm nhiều loại lỗ ống kính khác nhau và cùng kỹ sư điện M. Chaufour, ông đã sáng chế một loại bóng đèn dưới nước từ một chai thủy tinh có chứa khí ô xy và sợi dây ma-nhê mà có thể đốt cháy bằng dòng điện.
Nhưng khó khăn nằm ở chổ là chai thủy tinh có thể phát nổ, hay ánh sáng bị che khuất bởi hơi nước hoặc tỏa ánh sáng không đều. Boutan đã đi tìm một nguồn ánh sáng khác và phút cuối, nguồn ánh sáng đó đã tự tìm đến ông. Một nhà sản xuất quang học đã chế tạo 2 kính thiên văn dùng để chụp các ngôi sao cho sự kiện Triển lãm Paris năm 1900 và người này muốn bao gồm những hình ảnh về đại dương.
Chủ tịch của công ty quang học đã viết thư cho ông Boutan với lời ngỏ rằng ông có cần gì không để có thể tạo ra một nguồn ánh sáng điện dưới nước kèm điều kiện rằng bất kỳ bức ảnh nào mà Boutan chụp được sẽ được sử dụng cho việc trưng bày. Với nguồn tài trợ quý báu này, Boutan đã nhanh chóng bắt tay vào chế tạo 2 chiếc đèn hồ quang dưới nước chạy bằng pin, chúng có thể hoạt động khoảng 30 phút và mặc dù mất tới 70 tiếng đồng hồ để sạc điện cho một động cơ hơi nước.
Boutan đã thử nghiệm thiết bị vào một đêm tối như mực tháng 8-1899. Ông đặt 2 đèn hồ quang ngay bên hông của camera và hạ thấp toàn khối thiết bị xuống độ sâu 50m. Tổng cộng trọng lượng của 8 cái camera dao động từ 498kg đến 598kg, nhưng thật sự rất đáng giá: bất chấp độ sâu, hình ảnh tạo ra rất sắc nét và rõ ràng.
Qua các đợt thử nghiệm không ngừng nghỉ của mình, Boutan đã chụp ra những gì mà thế giới chưa từng nhìn thấy từ trước đó. Ông trở thành nhiếp ảnh gia dưới nước tự thân, ông chụp một bức ảnh về người thợ lặn phụ tá Joseph David ngay dưới vịnh Troc vào một sớm mùa thu bằng cách dùng thiết bị dưới nước thứ 3 và cũng là sáng tạo cuối cùng của ông.
Louis Boutan đã cho xuất bản cuốn sách ảnh chụp dưới nước đầu tiên, nó được công bố ngay tại thời điểm diễn ra sự kiện Triển lãm Paris năm 1900. Nhưng sau sự kiện Triển lãm Paris, Boutan không chụp thêm bức ảnh dưới nước nào nữa. Năm 1929, Boutan nghỉ hưu ở Tigzirt-sur-Mer (vùng duyên hải Algeria) và miệt mài vẽ những bức tranh tường về cảnh đẹp dưới biển.
Nguyễn Thanh
Nguồn: ANTG