a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Bảy, 16 tháng 7, 2022

Ý Tưởng Vui : "Để Hiểu Đàn Bà"

The book "Understanding Women" has arrived in bookstores!

Mới đây, tổ chức đàn ông thế giới đã xuất bản một cuốn sách dày ba mươi tập, nhằm giúp cho các nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn về phụ nữ, một phạm trù phức tạp nhất của hành tinh. 

    Chúng tôi xin lần lượt trích đăng một số chương trong đó, để các quý vị đàn ông có một số kiến thức cần thiết để sống sót.

 Chương I: 

 Sự khác nhau giữa phụ nữ và nai. 

 1. Nai ngơ ngác suốt đời. Phụ nữ chỉ ngơ ngác khi cần ngơ ngác .

 2. Nai không bao giờ giả nai. Còn phụ nữ thường làm thế.

 3. Nai có sừng toàn đầu. Phụ nữ có sừng trong ánh mắt.

 4. Nai ăn cỏ. Còn phụ nữ thỉnh thoảng ăn nai . 

 5. Gặp tai nạn, nai biến thành khô nai Còn gặp tai nạn, phụ nữ biến thành … mít ướt .

 6. Nai chạy theo đàn. Phụ nữ cũng chạy theo đàn, nhưng không phải đàn nai. 

 7. Nai nhảy tung tăng. Phụ nữ đi tung tăng.

 Chương II:

 Sự giống nhau của phụ nữ và cọp. 

 1. Cọp gầm.. Phụ nữ cũng gầm.

 2. Cọp uyển chuyển. Phụ nữ mềm mại .

 3. Trẻ con đứa nào cũng sợ cọp và đứa nào cũng sợ mẹ mìn, mặc dù cả đời có khi không nhìn thấy .

 4. Cọp được gọi là ông ba mươi, Phụ nữ được gọi là sư tử. 

 5. Cọp nổi tiếng về sự oai vệ . Phụ nữ nổi tiếng về sự quý phái. 

 6. Cọp vẫn quan tâm tới móng. Phụ nữ cũng vậy .

 7. Cọp nổi tiếng về da. Phụ nữ nổi tiếng về áo quần.

 8. Cọp đôi lúc chỉ vồ chứ không ăn. Phụ nữ đôi khi chỉ yêu mà không lấy . 

Chương III:

 Sự khác nhau giữa phụ nữ và khẩu súng . 

 1. Súng chỉ nổ khi có người bóp cò. Phụ nữ có thể tự khai hỏa .

 2. Súng có thể bắn từng viên. Phụ nữ có thể trở thành súng máy, bắn hàng loạt .  

 3. Khi nguy hiểm người ta mang súng bên mình. Khi hạnh phúc người ta cần phụ nữ bên mình.

 4. Súng có thể cướp cò. Phụ nữ có thể nói mà không báo trước .

 5. Đầu súng có lưỡi lê. Đầu phụ nữ có cái kim kẹp tóc. 

 6. Đàn ông có thể ra đi với một khẩu súng, và cũng có thể ra đi với một cô gái.

 7. Số đàn ông bị thương vì súng luôn ít hơn số đàn ông bị thương vì phụ nữ 

 8. Súng có thể hết đạn. Phụ nữ chả bao giờ .

 9. Ta xách súng. Còn phụ nữ xách ta. 

Chương IV:

 Sự giống nhau và khác nhau của phụ nữ và một con sông .

1. Sông đôi khi không biết đâu là bờ. Phụ nữ cũng thế .

 2. Biết bơi đôi lúc cũng chết. Hiểu phụ nữ đôi lúc còn chết nhanh hơn.

 3. Sông êm đềm. Phụ nữ phẳng lặng. 

 4. Sông cuốn trôi mọi thứ khi ta xuống nước. Phụ nữ cuốn trôi mọi thứ khi ta vẫn ngồi trong nhà.

 5. Sông có thác. Phụ nữ có cơn.

Sưu Tầm

Nghề gánh nước mướn ở Sài Gòn xưa.

Thuở ấy, ở Sài Gòn chưa có hệ thống nước kéo vào tận nhà.
Đồng hồ nước vào thời điểm đó là một thứ xa xỉ. Nó chỉ có trong các doanh trại quân đội, bệnh viện, trường học.
Người dân muốn xài nước thì ra các phông-tên nước được lắp đặt sẵn tại những nơi công cộng.

Ban đầu còn ít nhà nên cũng tiện cho những ai ở gần phông-tên dưới 100m. Song lâu dần, số người quần tụ đông đúc hơn, khoảng cách đã tăng lên và việc thiếu nước sinh hoạt đã thành vấn đề nghiêm trọng.
Vậy là nảy sinh việc những nhà có tiền mướn người gánh nước về cho mình, nghề gánh nước mướn bỗng dưng có một chỗ đứng trong xã hội.
Để làm được nghề này, người gánh nước phải có một hoặc nhiều đôi thùng thiếc (thường lấy từ những thùng đựng dầu hỏa có khắc nổi hình con sò của hãng Shell hay chữ Esso trong vòng ô-van của hãng Esso).
Dùng khúc cây tròn hoặc vuông đóng thành một thanh tựa, nối hai vách thùng với nhau.



Người gánh nước mướn phải có sức khỏe, đa phần thời đó, người lao động nghèo không có xe đạp để chở, nên chỉ biết dùng sức người như là một phương tiện chính để mưu sinh.
Có khi khoảng cách gánh nước đi dài hơn 300m hoặc những nhà ở trong hẻm thì còn xa hơn nữa. Mỗi khi có ai gọi, người gánh nước sẽ xách đôi thùng lại phông - tên để hứng nước rồi gánh lại nhà người đó. Giá trung bình khoảng 2 đồng/đôi. Mỗi nhà xài trung bình 4 đôi nước cho 5 người.
Cứ đến Tết, nghề gánh nước mướn được trọng vọng hơn bao giờ hết, vì đó là dịp người ta xài nhiều gấp đôi, gấp ba những ngày thường.
Ngoài ra, vì người dân Sài Gòn có tâm lý muốn đầu năm mới được no đủ để cả năm may mắn tốt lành nên cứ vào chiều ba mươi Tết, chủ nhà lại đặt hàng người gánh nước mướn để các lu chứa nước được đầy ăm ắp.
Đặc biệt, sau giờ giao thừa, những người gánh nước mướn còn hào phóng gánh tặng cho chủ nhà vài thùng xem như một lời cầu chúc tốt lành cho năm mới.
Đáp lại, chủ nhà cũng vui vẻ trao những bao lì xì đỏ tươi như là một lộc đầu năm cho những người gánh nước tận tụy này.

Chuyện Tình Cô Gái Gánh Nước Mướn

Trong số những người làm nghề gánh nước mướn thời đó, người được xem là may mắn và hạnh phúc nhất phải kể đến hoa khôi chân đất Bùi Thị Ba.
Tuy vất vả, cực nhọc với nghề gánh nước mướn nhưng vẻ đẹp mỹ miều toát lên từ thân thể của cô hoa khôi đã hút hồn chàng h
Hắc công tử nổi tiếng như cồn ở miền Nam thuở đó.
Ngày ngày, ngắm nhìn nàng gánh từng thùng nước ngang nhà tâm hồn chàng Hắc công tử bỗng xốn xang.
Ông nhất quyết đi tìm nhà của cô gái gánh nước mướn, biết nàng là con của một ông già làm nghề sửa xe đạp, Hắc công tử đã xin đổi cả căn nhà chỉ để được lấy cô làm vợ.
Cuộc đời cô gánh nước mướn nghèo khổ bước sang một trang mới.
Cô sanh cho Hắc công tử bốn người con (hai trai, hai gái) là Hoàn, Toàn, Trinh, Nữ và sống hạnh phúc suốt đời bên chàng.
Đó là cô gái làm nghề gánh nước mướn may mắn nhất trong tất cả những người làm nghề gánh nước thời đó.
Vào dạo cuối thập niên 1960, áp lực nước không đủ đáp ứng, chảy ri rỉ hàng giờ liền vẫn không đầy một thùng nước khiến việc làm nghề trở nên khó khăn hẳn.
Những dãy thùng xếp hàng nối nhau dài như quân đôminô khô khốc không một giọt nước khiến cuộc sống của dân gánh nước mướn lâm vào bế tắc.
Đến đầu thập niên 1970, khi Công ty thủy cục Sài Gòn cho lắp đồng hồ nước vào từng nhà dân thì nghề gánh nước mướn đã mất hẳn.
Từ đó trở đi, không ai còn thấy người gánh nước mướn nào ở Sài Gòn nữa. Và một cái nghề từ từ trôi vào miền quên lãng.
Hợp Phố

Vì sao Trư Bát Giới phải đầu thai thành lợn?


- Câu chuyện hài hước lại ẩn chứa bốn huyền cơ :
Tục ngữ có câu:
‘Người ngoài nghề xem náo nhiệt, người trong nghề xem môn đạo’.
Những người đã từng thưởng thức tác phẩm ‘Tây du ký’ chắc hẳn đều biết, Trư Bát Giới đời trước là ‘Thiên Bồng nguyên soái’ trên thiên cung.
Chức vụ này tương đương với tư lệnh hải quân trong nhân gian hiện nay.
Do một lần Bát Giới sau khi uống rượu đã giở trò trêu ghẹo Hằng Nga nên mới bị trục xuất khỏi thiên giới, đày xuống phàm trần.
Thế nhưng ngặt nỗi khi rơi xuống đến nhân gian, Bát Giới lại không cẩn thận đầu thai nhầm chỗ.
May mắn được Quan Âm Bồ Tát điểm hóa, khi hai thầy trò Đường Tăng đi qua Cao Lão Trang, Bát Giới được Tôn Ngộ Không thu phục, sau đó cùng với Tôn Ngộ Không bảo vệ Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh, cuối cùng tu thành chính quả.
Tuy nhiên, đến ngày nay, rất ít người hiểu được những thiên cơ vạn cổ chất chứa đằng sau câu chuyện thần thoại này.
1 - Đầu tiên, câu chuyện nói cho chúng ta: con người là từ đâu tới
Có lẽ bạn chưa biết, từ nguyên tử đến phân tử rồi lại đến không gian mà mắt thịt của con người nhìn thấy có vô số tầng thứ. Các tầng trong vũ trụ nhiều không kể xiết, tầng thứ khác nhau lại có những sinh mệnh khác nhau. Mỗi một tầng cũng có những tiêu chuẩn khác nhau đối với sinh mệnh trong mỗi một tầng. Bởi vì vũ trụ có quy luật phát triển: thành – trụ – hoại – diệt, nên khi một sinh mệnh không còn phù hợp với tiêu chuẩn của tầng đó nữa thì sẽ bị rớt xuống dưới một tầng. Từ ý nghĩa này mà giảng, con người thực ra là từng tầng từng tầng dần dần rớt xuống thế giới nhân loại, trở thành con người. Con người hoàn toàn không phải là từ khỉ tiến hóa thành.
Cũng chính là nói, con người trên mặt đất nguyên bản đều là thần tiên trên trời (bao gồm cả không gian của nguyên tử hoặc phân tử).
Chỉ vì nảy sinh ra những tư tưởng cùng suy nghĩ không tốt, đã làm những chuyện không phù hợp với tiêu chuẩn của người trời nữa, nên không cách nào tiếp tục ở lại trên tầng cao mà chỉ có thể từng tầng từng tầng rớt xuống, cuối cùng rớt xuống trên mặt đất (không gian nơi nhân loại sinh tồn) và chuyển sinh thành người.
Nếu như con người đã rớt đến đây còn không tuân thủ chuẩn tắc hành vi và quy phạm đạo đức làm người, vậy thì cuối cùng có thể đến cả người cũng chẳng làm nổi nữa. Khi đó, người ấy chỉ có thể chuyển sinh thành động vật và các sinh vật cấp thấp khác, thậm chí còn có thể bị đánh nhập vào địa ngục, vĩnh viễn không có ngày ngóc đầu lên được.
Ví như, Trư Bát Giới vốn là thủy thần thực thi pháp lệnh và lễ tiết trên thiên đình, tổng quản tám vạn thủy quân Thiên Hà, tinh thông 36 phép biến hóa, binh khí trong tay là bảo vật thượng đẳng Thấm Kim Bá (còn gọi là ‘đinh ba chín răng’) do Thái Thượng Lão Quân chế tạo và được Ngọc Hoàng đích thân ban tặng.
Chỉ vì dục tâm không diệt, lại thêm tính háo sắc nên Trư Bát Giới (khi đó là ‘Thiên Bồng nguyên soái’) đã vi phạm luật trời. Tại tiệc bàn đào Giao Trì của Vương Mẫu nương nương, Thiên Bồng nguyên soái sau khi uống say nhất thời dục tính bộc phát, xông nhầm vào cung Quảng Hàn, trêu ghẹo Nghê Thường tiên tử, tội đáng phải chịu chém đầu. Nhưng nhờ có Thái Bạch Kim Tinh nói đỡ, Thiên Bồng nguyên soái mới được giảm phạt, bị Ngọc Hoàng Đại Đế hạ chỉ lưu đày xuống trần gian.
Vì tính xấu không đổi, khi tới nhân gian chuyển sinh, Trư Bát Giới lại vào nhầm bào thai của lợn, cuối cùng trở thành hình tượng nửa người nửa lợn – đầu lợn thân người mà mọi người nhìn thấy trên truyền hình.
Tất nhiên, đây cũng là quả báo tạo thành do sắc tâm chưa dứt. Trư Bát Giới ban đầu làm cướp tại động Vân Sạn, núi Phúc Lăng, tự xưng là Trư Cương Liệp. Quan Âm Bồ Tát theo lời Phật Tổ đến vùng đất phía Đông tìm kiếm người đi thỉnh kinh. Khi đi qua núi Phúc Lăng, Quan Âm Bồ Tát nhận định Trư Bát Giới là một trong số những hộ pháp của người đi lấy kinh sau này nên đã đặt cho hắn tên pháp danh là Trư Ngộ Năng.
Từ đó, Trư Ngộ Năng quy y cửa Phật, chờ đợi ngày lên đường tới Tây Thiên. Thế nhưng, vì không chịu nổi cô đơn lạnh lẽo, Trư Ngộ Năng lại biến thành hình người rồi tới Cao Lão Trang ở rể. Thẳng cho đến khi Đường Tăng cùng Tôn Ngộ Không đi qua Cao Lão Trang, Trư Ngộ Năng mới bị Tôn Ngộ Không thu phục, trở thành đồ đệ thứ hai của Đường Tăng, cùng Tôn Ngộ Không bảo vệ Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh.
Thực chất, câu chuyện về đời trước và đời này của Trư Bát Giới là muốn nói cho chúng ta biết rằng: các chúng sinh trong thiên hạ cũng đều giống như Bát Giới – là người ở trên tầng cao từng bước từng bước rơi xuống nhân gian.


Bạn có thể thấy ở Trư Bát Giới một mặt là người chăm chỉ, trung thực và thẳng thắn, mặt khác lại ích kỷ, tham lam, lười biếng và ham phụ nữ. Bức tranh cho thấy hình ảnh của Trư Bát Giới.
2 - Thứ hai, câu chuyện nói cho chúng ta: mục đích cuộc sống của con người là gì?
Nếu như hiện tại làm một cuộc trắc nghiệm dân ý, hỏi mọi người xem: ‘Con người vì điều gì mà sống?’, ‘Ý nghĩa chân chính của việc con người được sinh ra trên thế gian là gì?’. Có thể tuyệt đại đa số mọi người đều sẽ trả lời rằng: Mục đích con người sống không nghi ngờ gì chính là vì những thứ quần áo, lương thực, nhà ở, đi lại; ăn uống vui chơi, kim tiền mỹ nữ, thăng quan phát tài, v.v… Chính là “hôm nay có rượu hôm nay say, cần gì quan tâm đến đúng – sai của ngày mai”’.
Như phần trước đã nhắc tới, con người là vì đã làm những điều không tốt nên mới từ trên trời rơi rớt xuống dưới. Cuối cùng rơi xuống đến nhân gian, chính là để cho con người ở trong không gian mê không nhìn thấy chân tướng của vũ trụ này mà có thêm một lần cơ hội cuối cùng: để cho họ thông qua tu luyện, sau khi đã vứt bỏ đi thất tình lục dục, họ sẽ lại có thể trở về thế giới thiên quốc, từ đó thoát khỏi nỗi khổ sinh – lão – bệnh – tử.
Đây mới là mục đích chân chính để làm người. Nếu như không thể trở về, vậy thì chỉ còn cách dựa theo những việc thiện – ác đã làm vào đời trước của người đó để quyết định xem người đó sẽ nhập vào cửa nào của ‘lục đạo luân hồi’ được giảng trong Phật giáo. Nếu như đã làm quá nhiều việc xấu, có khả năng ngay cả chuyển sinh cũng chẳng còn cơ hội nữa, đó mới là điều đáng sợ nhất đối với một sinh mệnh. Chính vì vậy, để cho nhân loại không đi tới bước hủy diệt quá sớm, mỗi khi nhân loại xuất hiện văn minh đều sẽ có Giác Giả hạ thế truyền Pháp độ nhân, nói cho con người biết đạo lý phản bổn quy chân. Trong lần xuất hiện văn minh này của nhân loại, mọi người đều đã biết tới Lão Tử, Thích Ca Mâu Ni và Jesus, v.v… Các pháp môn của những Giác Giả này đều dạy con người tu tâm hướng thiện.
Ví dụ, sau khi Trư Bát Giới được Đường Tăng thu nhận làm đồ đệ, Đường Tăng vì để hắn sửa đổi hết những thói quen xấu ác, trở về với bản tính thuần tịnh của mình, bèn đặt cho hắn một cái tên là ‘Bát Giới’ (‘Bát Giới’ là tám giới luật do Phật Đà quy định cho những đệ tử tu hành tại gia: một không sát sinh, hai không trộm cắp, ba không dâm dật, bốn không nói dối, năm không uống rượu, sáu không ăn mặc diêm dúa, bảy không nằm hoặc ngồi trên giường cao rộng, tám không ăn uống sau giờ chính ngọ).
Do đó, mọi người đều có thể nhìn thấy từ Trư Bát Giới một mặt có thể chịu khó chịu khổ, thật thà chất phác và ngay thẳng; một mặt khác lại ích kỷ tham lam, ham ăn biếng làm, ham mê nữ sắc, gặp phải một chút ngăn trở khó khăn liền la hét đòi trở về Cao Lão Trang. Hơn nữa, Trư Bát Giới còn hay thích ở trước mặt sư phụ khoe mẽ lấy lòng, thậm chí còn xúi giục Đường Tăng đuổi Tôn Ngộ Không có bản lĩnh cao hơn mình về Hoa Quả Sơn. Mặc dù toàn thân đầy rẫy những khuyết điểm như vậy, nhưng Trư Bát Giới cũng vẫn có thể thông qua các loại hoàn cảnh ma luyện bản thân mà cải tà quy chính, cuối cùng tu thành chính quả.
Nhìn vào sự biến hóa thay da đổi thịt của Trư Bát Giới, mọi người sẽ phát hiện: Quá trình bốn thầy trò Đường Tăng đi Tây Thiên lấy kinh thực ra là một quá trình tu luyện không ngừng hoàn thiện và quy chính bản thân. Đây mới là mục đích chân chính của mỗi sinh mệnh khi đến thế gian.
3 - Tiếp theo, câu chuyện nói cho chúng ta biết con người cuối cùng sẽ đi về đâu?
Mặc dù phải chịu sự tẩy não của thuyết vô Thần luận từ Đảng cộng sản Trung Quốc trong một thời gian dài, nhưng sau khi người già nhắm mắt xuôi tay, mọi người thông thường đều sẽ nói một vài câu tốt lành, ví dụ như: ‘Cụ ấy đã thăng thiên (lên trời) rồi’, ‘đã lên thiên đường hưởng phúc rồi’, v.v… chứ không có ai nói rằng: ‘Cụ ấy xuống địa ngục rồi’. Nếu như có người nói những câu không tốt, gia đình của người đã khuất khẳng định sẽ không hài lòng, thậm chí còn có thể làm nảy sinh mâu thuẫn, gây ra xung đột. Ngoài ra, gia đình và người thân của người đã qua đời còn mời người đến làm pháp sự, khẩn cầu cho người đã mất sớm được đầu thai vãng sinh, tránh khỏi cái khổ dưới âm phủ.
Những năm gần đây, các học giả chuyên gia đến từ những trường đại học cao đẳng và các cơ quan nghiên cứu của Đại Lục sau khi trải qua điều tra phỏng vấn tại hiện trường đã phát hiện: ở thôn Bình Dương, huyện Hoài Hóa tỉnh Hồ Nam có một thôn của người dân tộc Động. Nơi đó cư trú hơn 100 ‘người tái sinh’, bởi vậy nên thôn này còn được gọi là ‘thôn Luân Hồi’. Mỗi một ‘người tái sinh’ đều có thể kể lại một cách rõ ràng những ký ức của mình vào đời trước. Trong số đó, có rất nhiều ‘người tái sinh’ có thể tìm được người thân kiếp trước của mình và thành công xác nhận được thân phận. Tại các nơi trên thế giới cũng đều có hiện tượng ‘người tái sinh’ như vậy, còn có người từng trải nghiệm cảm giác cận kề cái chết. Mặc dù khoa học hiện đại không cách nào giải thích được những sự việc này, nhưng đây lại là sự thật không phải bàn cãi.
Theo nhận thức phổ biến của giới tu luyện, nguyên thần của con người (linh hồn) là bất diệt. Phật giáo phương Đông giảng ‘Niết bàn’ là để chỉ tăng ni sau khi đã trải qua một đời khổ cực tu luyện, đến lúc viên mãn sẽ vứt bỏ đi thân thể xác thịt của con người, linh hồn bay lên trời, cũng chính là bay tới thế giới Cực Lạc phía Tây. Từ đó, người này thoát khỏi sinh tử luân hồi. Chẳng qua, một số ít cao tăng đắc Đạo sau khi viên tịch, thân xác thịt của họ cũng không mục nát thối rữa, ví dụ như: thân thể Bồ Tát ở núi Cửu Hoa, hay nữ cư sĩ tại Hương Hà, v.v…
Các giáo đồ Cơ Đốc giáo phương Tây lại cho rằng: được tiến vào Thiên Quốc (quốc gia trên trời) là kết cục tốt đẹp nhất của cuộc đời. Các giáo đồ Cơ Đốc phân chia quốc gia thành hai loại: quốc gia ở trên mặt đất và quốc gia trên thiên thượng. Quốc gia trên mặt đất chính là thế giới mà chúng ta đang cư trú, hiện nay trên địa cầu có hơn 200 quốc gia và khu vực, các chủng tộc người khác nhau sẽ có tín ngưỡng khác nhau.
Còn Thiên Quốc là đất nước vĩnh hằng của Thượng Đế, cũng là đất nước mà Thần chuẩn bị cho con dân của mình. Chỉ có những tín đồ thành kính hướng tới Thượng Đế cầu nguyện, sám hối, sửa chữa sai lầm thì sau khi tạ thế mới có thể tới Thiên Quốc, trở thành con dân của Thần.
Phật gia chú trọng tu tính, còn Đạo gia chú trọng tu mệnh, giảng về trường sinh bất lão. Đến lúc đắc Đạo thành tiên, ngay cả thân xác thịt cũng cần luyện thành thể kim cương bất hoại để mang theo. Hình thức viên mãn có khi là ‘bạch nhật phi thăng’ (ban ngày sáng tỏ bay lên trời), cũng có khi là ‘thi giải’ (tách rời khỏi xác). Ví như Hoàng Đế – ‘ông tổ nhân văn thuở sơ khai’ của dân tộc Trung Hoa. Hoàng Đế một đời tu Đạo, lấy Đạo trị quốc. Sau khi tu luyện viên mãn, Hoàng Đế cưỡi rồng bay lên trời. Chuyện này ở trong ‘Sử ký’ cũng có ghi chép: Hoàng Đế lấy đồng trên núi, đem đến dưới chân núi Kinh Sơn đúc vạc. Vạc đồng vừa đúc xong liền có một con rồng từ trên trời giáng xuống, nghênh đón Hoàng Đế lên trời thành tiên. Hoàng Đế lập tức cưỡi lên thân rồng, các phi tần hậu cung cùng với quan đại thần theo Hoàng Đế tu hành tổng cộng có hơn 70 người cũng đồng thời trèo lên thân rồng, sau đó cùng nhau bay đi.
Đọc tác phẩm ‘Tây du ký’, mọi người cũng đã thấy: bốn thầy trò Đường Tăng sang Tây Thiên lấy kinh cần phải trải qua 81 kiếp nạn, dù là thiếu một nạn cũng không được, thiếu một nạn cũng phải bổ sung thêm vào. Cuối cùng, cả bốn thầy trò đều có thể trở lại thiên đình, trở thành thần tiên trên trời. Ngay cả một kẻ lười biếng, tham ăn, háo sắc như Trư Bát Giới cũng có thể được Phật Như Lai phong thành ‘Tịnh Đàn sứ giả’.
4 - Thứ tư, lời tiên đoán của Phật Đà về sự việc Phật Di Lặc tới thế gian truyền Pháp độ nhân
Phật Thích Ca Mâu Ni từng có dự ngôn rằng: đến thời mạt Pháp, Pháp của Ông sẽ không thể độ nhân được nữa. Trong tương lai, vị Phật Di Lặc mà chư Phật và con người vẫn luôn chờ đợi qua đời đời kiếp kiếp sẽ lấy Pháp hiệu ‘Pháp Luân Thánh Vương’ để hạ thế chính Pháp, truyền ra rộng rãi một loại Pháp môn tu luyện không cần đoạn tuyệt với thế duyên. Trong Kinh Phật còn nói một cách minh xác rằng: tương lai khi Phật tới nhân gian, loài hoa Ưu Đàm Bà La 3 nghìn năm mới nở một lần sẽ khai nở tại nhân gian. Lưu Bá Ôn trong ‘Thiêu bính ca’ cũng đã tiết lộ rất nhiều chi tiết liên quan đến sự kiện Phật Di Lặc tới thế gian truyền Đạo này.
Tác giả: Tiểu Dương Xuân, Secret China
Trường Lạc biên dịch