a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2019

Cuộc đời huyền thoại của cao thủ công năng đặc dị khiến cả Einstein cũng phải ngả mũ

Cuộc đời huyền thoại của cao thủ công năng đặc dị Wolf Messing

Năm 1915, Einstein và Freud đã thực hiện một thí nghiệm chấn động thế giới về cao thủ công năng đặc dị Wolf Messing.
Đọc được suy nghĩ của người khác; dùng ý nghĩ điều khiển hành vi người khác; nhìn được vật nhỏ ở khoảng cách rất xa mà mắt thường và cả ống nhòm cũng không thể thấy được; đoán chính xác nhiều sự kiện tương lai… Rất nhiều kỳ tích khiến mọi người chỉ có thể ngả mũ thán phục là “thần kỳ” lại được chính các nhà khoa học như Einstein, Freud và thậm chí cả Stalin đích thân thử nghiệm và kiểm chứng xác thực.
Nhà khoa học vĩ đại Einstein và bậc thầy tâm lý học người Áo Freud là hai đại sư được mọi người trên thế giới kính trọng. Einstein suy nghĩ nhanh chóng và sâu xa, tư tưởng rộng khắp mọi lĩnh vực, ông và Freud có thái độ truy tìm sự thực chân chính trong khoa học. Đối với các hiện tượng siêu khoa học kỳ bí, hai ông đều không tùy tiện phủ nhận và bài xích, trái lại, cả hai đều rất hứng thú suy nghĩ tìm luận chứng. Năm 1915, hai đại sư đã thực hiện một thí nghiệm chấn động thế giới về cao thủ công năng đặc dị của thế giới đương đại là Wolf Messing.
Cao thủ công năng đặc dị Wolf Messing
Wolf Messing là cao thủ công năng đặc dị nổi tiếng nhất trong thập niên 20 và 30 của thế kỷ 20. Các nhà khoa học đã thử nghiệm anh rất nhiều lần để kiểm chứng. 
Messing là người Do Thái, sinh ngày 10 tháng 9 năm 1899 gần Warsaw (Vắc-xa-va), Ba Lan. Được biết, khi anh còn nhỏ, anh mắc chứng “mộng du đêm trăng”. Sau đó, bố mẹ anh đặt một chậu nước lạnh trước giường. Khi anh bước lên nước lạnh thì sẽ tỉnh dậy. Bố mẹ anh dùng phương pháp này để chữa căn bệnh lạ của anh.
Vào năm 6 tuổi, Messing được gửi đến một trường tôn giáo để học. Trí nhớ phi thường của anh khi đọc thuộc lòng những lời cầu nguyện khiến mọi người kinh ngạc. Sau đó, anh học tại trường trung học Do Thái. Hai năm sau anh trốn học, lên một đoàn tàu và ngủ dưới ghế. Khi nhân viên tàu hỏa yêu cầu anh đưa vé, anh nhặt một mảnh giấy từ mặt đất và đưa cho nhân viên; anh đã qua mặt được người soát vé, thuận lợi đi đến Berlin.
Ở Berlin, Messing đã làm việc vặt cho người ta để nhận khoản thù lao ít ỏi. Một lần, anh bị ngất trên đường phố và bị người ta chuyển đến nhà xác. Một giáo sư về thần kinh học tên là Abel đã cứu anh ta. Abel là người đầu tiên phát hiện ra rằng bộ não của Messing có khả năng phi thường.
Abel bắt đầu thí nghiệm khả năng đọc suy nghĩ người khác của cậu bé này. Messing tiến vào trạng thái hôn mê, một trạng thái có ý thức nhưng không có phản xạ cơ thể. Anh thấy mình có thể dự đoán tương lai trong trạng thái này.
Giáo sư Abel vô cùng ngạc nhiên trước kết quả của thí nghiệm. Messing có thể đoán ngay lập tức giáo sư muốn làm gì với anh và thực hiện nó mà không có bất kỳ sai lầm nào. Sau khi đào tạo huấn luyện thêm, giáo sư đưa anh đến chợ ở Berlin và kiểm tra xem anh có biết những người bán hàng đang nghĩ gì không.
Abel cũng huấn luyện cho cậu thiếu niên này học cách “đóng kín” cảm giác đau đớn về thể xác. Messing đứng trước khán giả và để mọi người dùng đinh đâm vào ngực và cổ anh nhưng anh hoàn toàn không có biểu hiện đau đớn. Anh gửi tiền kiếm được về cho gia đình nghèo để phụ giúp chi tiêu trong gia đình.
Một ngày vào năm 1929, người đứng đầu Bộ An ninh Quốc gia Ba Lan, bá tước Czarreski bị mất một lô trang sức quý trị giá 800.000 zloty tại nhà riêng. Cảnh sát và các thám tử bí mật đã tìm kiếm trong một tháng và vẫn không tìm thấy gì. Vì vậy, bá tước hứa rằng chỉ cần Messing có thể lấy lại số châu báu này cho ông ta thì ông ta sẵn sàng trả 250.000 zlotys thù lao.
Ngay khi Messing đến cung điện của bá tước, nhìn thấy chỉ là một cậu bé, bá tước nảy sinh nghi ngờ. Nhưng rất nhanh chóng, Messing đã tìm thấy châu báu trong bụng một con gấu bông và trong các đồ chơi như các khối thủy tinh màu khác nhau, các quả cầu thủy tinh và các mảnh thủy tinh.
Sau khi tìm kiếm châu báu thành công, Messing từ chối nhận thù lao của bá tước. Anh chỉ yêu cầu bá tước gây ảnh hưởng đến chính phủ Ba Lan để loại bỏ luật hạn chế quyền của người Do Thái. Hai tuần sau, chính phủ Ba Lan đã hủy bỏ luật này.
Wolf Messing có những khả năng kỳ lạ mà người bình thường không có. (Ảnh: ria.ru)
Thử nghiệm của Einstein và Freud
Năm 1916, bậc thầy vật lý Einstein cùng với bậc thầy tâm linh Freud đã thực hiện một thí nghiệm chấn động thế giới về Messing, người được biết đến là nhân vật thần kỳ số một thế giới. Địa điểm thử nghiệm là một khu nhà ở ngoại ô Vienna.
Một ngày nọ vào năm 1916, theo lời mời của Einstein, Messing đã đến nơi ở của Einstein.
Trước đó, Freud từ lâu đã để một cái nhíp nhỏ bằng đồng và một cái nhíp lớn bằng sắt lẫn vào các đồ đạc khác trong ngăn kéo. Tất cả họ đều không nói gì, và Freud đã dùng tư duy gửi chỉ lệnh đầu tiên của mình đến Messing: “Hãy lấy cái nhíp nhỏ bằng đồng từ ngăn kéo đầu tiên trên tủ nhỏ trong phòng tắm bên phải”.
Messing không do dự chút nào đi thẳng vào phòng tắm và lấy ra cái nhíp nhỏ bằng đồng.
Freud đã gửi một mệnh lệnh thứ hai cho Messing với suy nghĩ của mình: “Với cái nhíp trong tay, hãy nhổ ba sợi râu từ bộ râu của Einstein với tốc độ nhanh nhất”.
Messing làm từng cái một, nhổ từng sợi râu không sai một cái nào. Điều này khiến Freud và Einstein ngưỡng mộ và tán thán khôn nguôi.
Messing trốn sang Liên Xô
Sau năm 1939, các đường phố Warsaw bị Đức Quốc xã chiếm đóng có treo rất nhiều truyền đơn treo thưởng cho việc bắt giữ Messing. Một lần nọ, anh bị bắt ở một con phố đông đúc và bị đánh đập tàn bạo. Trong đồn cảnh sát, anh tập trung toàn bộ sức mạnh ý niệm của mình, đã làm cho tên lính canh đi vào phòng giam của anh, sau đó anh bước ra và nhốt tên lính canh trong tù. Anh trốn khỏi Warsaw qua các cống rãnh, sau đó trốn trong một chiếc xe đẩy lớn chứa đầy cỏ khô và lợi dụng đêm tối đến Liên Xô.
Do bị Đức Quốc xã truy bắt Messing đã phải trốn sang Liên Xô. (Ảnh: enigmatica.ro)
Danh tiếng của Messing càng ngày càng lớn, anh thậm chí còn dự đoán rằng một cuộc chiến sẽ nổ ra giữa Đức và Liên Xô, mặc dù hai nước đã ký một hiệp ước không xâm lược.
Anh cũng dự đoán được thời gian kết thúc chiến tranh, chính xác đến tháng, dự đoán được cái chết của nguyên thủ quốc gia Đức. Mọi người bắt đầu có cái nhìn nghiêm túc về lời tiên tri của Messing. Nhưng cũng vì điều này mà Hitler đã bỏ ra ra 200.000 mác để thưởng cho người lấy được đầu của Messing. Vị đại sư nổi tiếng về công năng đặc dị này đã buộc phải chạy trốn sang Liên Xô. Stalin rất quan tâm đến việc áp dụng các khả năng của Messing vào việc quân sự, nhưng ông ta cũng muốn kiểm tra Messing. Ông ta muốn đích thân thử khả năng của người đàn ông này.
Vượt qua những thử thách của Stalin
Vào cuối những năm 1940, khi Messing đang biểu diễn ở thành phố Kiev của Liên Xô, anh bất ngờ được một quan chức cấp cao đưa đến Moscow (Mát-xi-cơ-va). Thì ra, Stalin đã ra lệnh tìm một chiếc cặp với các tài liệu tuyệt mật bị mất tích.
Messing được đưa đến văn phòng của một quan chức bị mất chiếc cặp. Anh nhìn vào những thứ trong phòng, đồng thời anh thi triển công năng dao thị của mình. Trong phạm vi thị giác của não anh hiện lên một con dốc ven sông, một nhà thờ nhỏ, một con sông, một cây cầu nhỏ trên sông, và có một vật màu đen trên cây cầu, đó là chiếc cặp mà họ đang tìm kiếm.
Messing nói với các chuyên gia quen thuộc địa hình địa phương và mô tả cẩn thận những cảnh anh đã “nhìn thấy”. Sau khi các chuyên gia nghiên cứu, có hai nơi gần Moscow tương ứng với những cảnh Messing mô tả. Hai chiếc xe tải chở cảnh sát vũ trang ngay lập tức xuất phát. Vài giờ sau, một chiếc cặp với các tài liệu tuyệt mật đã được đặt trước mặt các quan chức Liên Xô.
Đồng thời, Stalin giao cho Messing hai nhiệm vụ. Một là sử dụng công năng đặc dị để cướp một ngân hàng. Messing làm theo yêu cầu. Dưới sự giám sát của KGB, anh đã đến một ngân hàng và đưa một tờ giấy trắng cho nhân viên ngân hàng. Nhưng lúc này, anh đã gửi một ý niệm cho nhân viên ngân hàng, khiến anh ta nghĩ rằng anh ta đã nhận được tấm séc 100.000 rúp. Thế là nhân viên ngân hàng đã làm theo chỉ thị này và đưa số tiền tương ứng cho Messing. Trong toàn bộ quá trình này, Messing khá bình tĩnh ung dung, còn nhân viên ngân hàng cũng hoàn toàn không biết rằng anh ta đã bị người khác khống chế tư tưởng.
Messing có năng lực thay đổi suy nghĩ và nhận thức của người khác. (Ảnh: pressa.tv)
Sau đó, nhân viên ngân hàng phát hiện ra rằng anh ta chỉ có một tờ giấy trắng và lên cơn đau tim. Sau khi Messing biết điều này, anh rất hối lỗi, nhưng may mắn thay, nhân viên ngân hàng này đã sống lại.
Stalin sau đó sắp xếp một bài kiểm tra khác. Ông ta yêu cầu Messing cố gắng vượt qua những cảnh vệ được huấn luyện bài bản và đi thẳng đến biệt thự của Stalin để gặp ông ta mà không cần thông báo trước.
Không lâu sau khi Stalin sắp xếp nhiệm vụ này, Messing đi thẳng vào khu biệt thự của Stalin, anh không trình bất kỳ giấy tờ gì, cũng không nói bất kỳ lý do gì. Thậm chí người cận vệ thân tín của Stalin khi nhìn thấy anh còn cung kính nhường đường. Anh đi qua hành lang, không có ai trong đội ngũ nhân viên của Stalin ngăn cản anh. Rất nhanh chóng anh đã đi vào phòng bên trong phòng. Những người phục vụ ở đây đều là những cảnh sát bí mật kỳ cựu, nhưng vẫn không có ai ngăn chặn anh. Khi Stalin nhìn lên, ông ta thấy một người đàn ông đứng trước mặt mình, người đàn ông này chính là Wolf Messing.
Stalin hỏi anh làm thế nào mà vào được? Messing nói rằng anh đã phát ra một ý niệm cho tất cả bọn họ: “Tôi là Beria”. Beria chính là trùm cảnh sát mật khét tiếng. Không ai có thể nghĩ đến việc kiểm tra Beria, vì vậy anh đã vượt qua thử thách của Stalin.
Messing tin rằng khả năng ngoại cảm đặc biệt của mình là do có một “trường” đặc biệt. Anh tin rằng “trường” đặc biệt này có thể được phát hiện và nghiên cứu. Nếu có thể được phát hiện, nó sẽ cung cấp nhiều khả năng hơn cho con người, giống như việc phát hiện ra điện từ vậy.
***
Công năng đặc dị đối với người hiện đại dường như là một điều huyền bí khó hiểu, nhưng nó lại rất quen thuộc đối với người cổ đại. Khả năng đọc được suy nghĩ của người khác, biết chính xác người ta đang suy nghĩ gì chính là công năng “tha tâm thông”. 
Dùng ý niệm, suy nghĩ để khống chế, chỉ huy người khác là khả năng của những người có công lực mạnh mẽ, trường năng lượng mạnh mẽ khởi tác dụng.
Nhìn vật từ cự ly rất xa, tìm được những vật thất lạc ở nơi xa chính là công năng “dao thị”.
Tất cả những công năng đặc dị đó đều là những bản năng tiên thiên của con người. Thời cổ đại, con người thuần thiện, chất phác, sống hòa hợp với thiên nhiên, thuận theo tự nhiên nên những khả năng này bộc lộ khá nhiều. Còn con người hiện đại sống phụ thuộc vào các tiện nghi và công nghệ hiện đại nên những bản năng tiên thiên đó đã bị mất đi, trừ một số trường hợp là những người có căn cơ đặc biệt. Tuy nhiên, những người này nếu dùng công năng đặc dị để làm việc xấu, hay để tìm kiếm danh vọng và lợi ích cá nhân thì sau một thời gian, khả năng này sẽ bị mất đi.
Vậy có cách nào nghiên cứu, phát hiện và phát triển những khả năng này không? Các pháp môn tu luyện chân chính từ xưa đến nay đều có tiêu chuẩn về tâm tính rất cao, mục đích là giúp người tu luyện “phản bổn quy chân”, quay trở lại với bản tính tiên thiên của mình. Đó cũng chính là nguyên nhân tại sao các cao tăng, đạo sỹ thường sở hữu những khả năng đặc biệt, huyền bí.
Nam PhươngTheo Vision Times

Ảo thuật cổ đại xuất quỷ nhập Thần khiến người xem kinh ngạc, khoa học hiện đại không thể giải thích


Ảo thuật cổ đại xuất quỷ nhập Thần khiến người xem kinh ngạc, người hiện đại có thể làm được không?

Nếu ảo thuật là tiểu xảo, thì vì sao rất ít người có thể làm được? Bởi vì trong ảo thuật ngoài kỹ năng tiểu xảo thì còn có công năng và các loại pháp thuật… Thế nên, nếu chỉ đứng tại góc độ của khoa học hiện đại thì rất khó lý giải.
Đại đa số các nhà ảo thuật hiện nay dùng kỹ xảo để đánh lừa thị giác người xem. Nhưng khi có người chỉ ra các bước thực hiện để ai ai cũng có thể bắt chước làm theo, thì những màn ảo thuật này cũng trở nên kém hấp dẫn, bị cho là “chỉ lừa được con trẻ”.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những màn trình diễn của các nhà ảo thuật đại tài mà người đời không thể lý giải được, ví dụ như làm biến mất đoàn tàu, biến mất tháp Eiffel, bước xuyên qua Vạn Lý Trường Thành… Cho đến nay những màn trình diễn ấy vẫn là bí ẩn mà khoa học chưa thể giải thích. Có người cho rằng đó là phép bịt mắt, cũng có người cho rằng đó là thần thông.
Nhưng nếu so sánh với ảo thuật thời cổ đại thì sẽ thấy tài năng của người xưa còn huyền ảo và kỳ diệu hơn rất nhiều. Dưới đây là bài viết của tác giả Huệ Minh kể về thần thông kỳ diệu của người xưa, được đăng tải trên trên trang mạng Sound Of Hope:
Chiếc bình chứa mãi không đầy
Trong “Hà Đông Tập” ghi chép rằng, vào những năm Trinh Nguyên đời Đường, trên phố Dương Châu xuất hiện một nữ nghệ nhân biểu diễn ảo thuật kiếm sống. Không ai biết cô từ nơi nào đến, chỉ biết rằng cô gái ấy họ Hồ, tên Mị Nhi. Những màn biểu diễn ảo thuật của Mị Nhi vô cùng quái dị, người đến xem càng ngày càng đông, ai ai cũng bội phục trước cô gái đại tài này.
Vào một buổi sáng, Mị Nhi lấy ra một chiếc bình thủy tinh trong suốt, bên trong trống rỗng không có gì. Cô đặt chiếc bình lên rồi nói với người qua đường: “Nếu các vị hảo tâm có thể bố thí cho đầy cái bình này, thì tôi xin ghi lòng tạc dạ”.
Chiếc bình nhỏ thế, miệng chỉ rộng bằng thân cây sậy, làm đầy bình thì có gì khó đâu? Có người lấy ra một trăm đồng bỏ vào bình, “keng” một cái, tiền đã lọt vào trong bình rồi. Nhưng kỳ lạ là từng đồng từng đồng chỉ nhỏ li ti như hạt gạo. Khán giả vây quanh đều tỏ ra kinh ngạc. Có người bỏ vào bình một ngàn đồng, rồi lại có người cho thêm một vạn đồng, nhưng kết quả vẫn giống như lúc trước, mãi chẳng thể đầy bình cho được. 
Một lát sau có vài người hiếu sự đến xem, kẻ thì lấy ra mười vạn đồng, kẻ lại bỏ ra hai mươi vạn đồng. Kết quả vẫn như cũ. Còn có người cưỡi lừa và ngựa chui vào trong bình, tất cả đều thu nhỏ lại như hạt đậu, cả người và ngựa ấy vẫn tiếp tục phi nước đại như bay.
Một lúc sau có hai vị quan từ Dương Tử Viện dẫn theo mười xe chở hàng hóa đi ngang qua đó, tất cả đều dừng lại để xem. Đoàn người tỏ ra hứng thú muốn thử vào trong bình, xem xem có thể mang tất cả xe cộ hàng hóa mà nhảy vào hay không.
Họ nói với Hồ Mị Nhi rằng: “Cô có thể làm cho những chiếc xe này chui vào trong bình không?”.
Hồ Mị Nhi đáp lại: “Chỉ cần được các ngài cho phép là có thể làm được”.
Vị quan dẫn đầu nói: “Được, cô có thể thử nghiệm một chút”. 
Hồ Mị Nhi nghiêng chiếc bình và hét lớn một tiếng, những cỗ xe kia liền nối đuôi nhau tiến về phía trước, lần lượt tiến vào trong bình giống như một đàn kiến, một lát rồi biến mất. 
Lúc này Hồ Mị Nhi cũng nhún người nhảy vào trong bình. Vị quan kinh hãi liền vội vàng đập bể cái bình, nhưng không thể tìm được thứ gì trong đó.
Hơn một tháng sau, ở phía bắc huyện Thanh Hà có người nhìn thấy Hồ Mị Nhi dẫn đầu đoàn xe kia nhắm hướng huyện Đông Bình mà tiến. Câu chuyện này cũng trở thành huyền thoại và được lưu truyền trong dân gian.
(Ảnh minh họa: sohu.com)
Pháp thuật của Cát Huyền
Cát Huyền, tự Hiếu Tiên, là đạo sĩ nổi tiếng của nước Tôn Ngô thời Tam Quốc. Ông từng theo Tả Từ học “Cửu Đan Kim Dịch Tiên Kinh”. Một hôm, ông cùng ăn trưa với một vị khách, vị khách nói: “Đợi cơm nước xong xuôi, tiên sinh làm một chút biến hóa để mọi người thưởng thức nhé”.
Cát Huyền nói: “Vì sao không phải là ngay bây giờ?”. 
Nói rồi ông liền biến những hạt cơm trong miệng thành đàn ong bắp cày, tổng cộng có đến mấy trăm con, đồng loạt bay ra bám lên thân vị khách, nhưng không hề đốt ông ta.
Một lúc sau, Cát Huyền há miệng, đàn ong bắp cày lại bay vào trong và trở lại thành hạt cơm như cũ. Cát Huyền lại chỉ huy bầy chim sẻ và chim én tới nhảy múa, chúng cũng biết nhảy theo tiết tấu giống hệt như con người vậy.
Mùa đông, Cát Huyền biến ra các loại trái cây để mời khách thưởng thức. Mùa hè ông biến ra băng tuyết dâng lên cho khách dùng. Ông lại đưa mấy chục đồng tiền xu cho mọi người tùy ý ném vào trong giếng. Sau đó ông đứng trên giếng gọi một tiếng, những đồng tiền ấy lại lần lượt từ trong giếng bay lên.
Khi Cát Huyền bày tiệc rượu, những chiếc chén tự động bay đến trước mặt khách. Nếu khách uống chưa xong, những chiếc chén cũng sẽ ở lại đó không rời đi.
Có một lần, Cát Huyền và Tôn Quyền ngồi trên lầu, trông thấy mọi người đang làm tượng đất để cầu mưa. Tôn Quyền nói: “Dân chúng mong ngóng trời mưa, nhưng làm vài tượng đất này lẽ nào có thể có mưa được?”. 
Cát Huyền nói: “Muốn có mưa thì cũng dễ làm thôi”. Dứt lời ông liền viết lá bùa đặt vào miếu Thổ Địa. Trong chốc lát, trời đất tối sầm, mưa xối xả trút xuống, nước chảy lênh láng. Tôn Quyền nói: “Trong nước có cá không?”. 
Cát Huyền lại viết bùa ném vào trong nước, chỉ một lát sau mấy trăm con cá lớn bơi lội tung tăng. Tôn Quyền lại sai người bắt cá về làm tiệc chiêu đãi.
Nước sông chảy ngang
Ngô Mãnh là người huyện Bộc Dương, làm quan ở nước Ngô, từng đảm nhiệm chức huyện lệnh Tây An. Ông vô cùng hiếu thuận, từng có cơ hội được Thánh nhân Đinh Nghĩa truyền dạy Đạo Tiên. Thêm vào đó Ngô Mãnh còn có bí quyết bùa Thần, vì vậy pháp thuật của ông vô cùng lợi hại.
(Ảnh minh họa: lovepik.com)
Một lần gặp phải trận gió lớn, Ngô Mãnh viết lá bùa ném lên nóc nhà. Ngay sau đó có một con chim xanh ba chân ngậm lấy lá bùa và bay đi, gió lớn cũng lập tức dừng lại.
Có người hỏi nguyên nhân vì sao, ông nói: “Ở Nam Hồ có một chiếc thuyền bị gió lớn tấn công, trận gió lớn vừa qua là đạo sĩ trên thuyền đang cầu cứu đó”. 
Mọi người đi kiểm tra thì quả đúng là như vậy.
Một vị quan ở Tây An là Can Khánh đã qua đời được ba ngày, Ngô Mãnh nói: “Vận số của ông ấy còn chưa tới, nhất định phải khiếu nại với Trời”. 
Nói rồi Ngô Mãnh bèn nằm xuống bên cạnh thi thể, vài ngày sau, cả ông và Can Khánh cùng nhau ngồi dậy.
Sau này Ngô Mãnh dẫn đồ đệ quay về quận Dự Chương, thấy nước sông Trường Giang chảy xiết nên không thể qua sông được. Ngô Mãnh liền cầm chiếc quạt lông trắng trong tay hướng về phía mặt sông vạch một nét, lập tức nước sông liền chảy ngang, đồng thời xuất hiện một con đường. Nhóm người đi theo con đường ấy mà qua sông Trường Giang, xong xuôi đâu đấy nước sông lại trở lại như cũ, những người chứng kiến đều vô cùng kinh ngạc.
***
Nếu như các màn ảo thuật hiện đại là dùng kỹ xảo đánh lừa thị giác, thì cũng có một bộ phận ảo thuật là có thần thông trong đó. Nhưng vì người bình thường không lý giải được nên mới cho rằng đó là giả.
Lý giải theo giới tu luyện thì chiếc bình thần kỳ của cô Hồ Mị Nhi thực ra không có gì thần kỳ cả, chẳng qua là vì cô dùng công năng ban vận để dịch chuyển đồ vật từ không gian này sang không gian khác, gọi là “ban vận công”. Còn phép biến hóa của Cát Huyền thì chính là thuật “không trung sinh hữu”, biến ra vật hữu hình từ những thứ vô hình, hoặc từ vật này biến thành vật khác. Đây chính là công năng đặc dị, hoàn toàn khác với ảo thuật vốn dùng kỹ xảo để che giấu vật thể, đánh lừa thị giác khán giả. Còn chuyện rẽ sông thành đường cũng là một loại công năng. Trong Kinh Thánhcũng ghi chép một chuyện tương tự, kể rằng Moses từng rẽ nước đưa người Do Thái băng qua Biển Đỏ thoát nạn.
Người hiện đại không tin vào Thần tích, họ nói rằng chỉ khi Thần hiện ra làm các phép thần thông biến hoá, có nhìn thấy thì họ mới tin. Nhưng Thần Phật đâu phải là con người thế gian mà truy cầu danh tiếng, tranh thắng phân thua, thể hiện tài năng? Họ đâu vì câu nói của người phàm trần mà thi triển khả năng. 
Cũng có người nói, tại sao xưa có nhiều thần tích xuất hiện mà nay không có? Phải chăng là do cổ nhân hư cấu? Người xưa vô cùng coi trọng chữ Tín, lời nói ra ắt phải là chân thật, huống hồ là viết sử sách. Cổ nhân kính Trời lễ Phật, làm theo lời dạy của Thần, không ngừng tu dưỡng đạo đức, tiếp cận gần với cảnh giới Thần Phật thì Thần Phật mới triển hiện thần tích. Hiện nay thần tích không phải không còn mà là chỉ triển hiện cho những người tín Thần, nhất là người tu luyện ở núi sâu rừng già. Khi con người nâng cao đạo đức, nâng cao cảnh giới tinh thần thì thần tích mới lại triển hiện cho con người thế gian.
Nam Phương