a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Hai, 28 tháng 9, 2020

Sự thật giờ mới biết về bức phù điêu chợ Bến Thành.

 


1 Tháng Một, 2017

 Sau hơn 60 năm tồn tại, những bức phù điêu của chợ Bến Thành vẫn tươi màu trước vô vàn biến động thời cuộc cùng sự khắc nghiệt của thiên nhiên... 

Được khánh thành năm 1914, chợ Bến Thành là một ngôi chợ cổ nổi tiếng, được coi là biểu tượng của Sài Gòn.

Một nét đặc sắc trong kiến trúc của ngôi chợ là trên các cổng đều có những bức phù điêu gốm, mô tả các sản vật của miền Nam với hình con bò, con ngỗng, con cá đuối, nải chuối… Phía sau những tác phẩm này là câu chuyện thú vị mà không phải ai cũng biết.



Theo đó, 12 bức phù điêu bằng gốm được gắn lên 4 mặt của chợ Bến Thành từ năm 1952. Tác phẩm này là do họa sĩ Lê Văn Mậu sáng tác cùng các nghệ nhân gốm của xưởng mỹ nghệ Biên Hòa theo đơn đặt hàng của nhà thầu chợ Bến Thành.

Họa sĩ Lê Văn Mậu đã sáng tác trực tiếp lên đất, sau đó chỉnh sửa với sự góp ý của những nghệ nhân hàng đầu của dòng gốm Biên Hòa như Sáu Sảnh, Tư Ngô, Hai Sáng, chủ Thạch, anh Tóc…




Để tránh vênh méo ở những sản phẩm có độ nung cao như gốm Biên Hòa, những phù điêu đó được cắt ra theo từng miếng nhỏ riêng, để đem mang đi “nhúng” men, rồi nung.


Do lò đốt bằng củi thủ công thỉnh thoảng gây “hỏa biến” ở đồ gốm, nên ở những bức phù điêu chợ Bến Thành có những mảng màu men ngả vàng rất đẹp, tự nhiên.

Do những miếng nhỏ của những bức phù điêu được đặt ở nhiệt độ không đều nhau, tuy trong cùng một lò nung, nên khi ra lò, nó có miếng màu nhạt, màu đậm.

Sau khi các phù điêu hoàn thành ở xưởng, các nghệ nhân Phạm Văn Ngà (Ba Ngà), Nguyễn Trí Dạng (Tư Dạng) và Võ Ngọc Hảo được xưởng mỹ nghệ Biên Hòa cử lên Sài Gòn để gắn những lên cổng chợ Bến Thành.

Từng tấm phù điêu được gắn từ dưới lên cho đến khi hoàn thành một bức phù điêu. Sau đó các nghệ nhân kiểm tra lại xem chỗ nào còn hở thì trét hồ cho kín.


Sau hơn 60 năm tồn tại, những bức phù điêu của chợ Bến Thành vẫn tươi màu trước vô vàn biến động thời cuộc cùng sự khắc nghiệt của thiên nhiên…



Tư liệu
CÀ PHÁO, CÀ CHUA, CÀ RỐT VÀ CÀ PHÊ


Dịch hạch là căn bệnh khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người, có thời điểm làm giảm 2/3 dân số châu u và 1/3 dân số Trung Quốc. Chính bác sĩ Yersin là người đầu tiên tìm ra vi khuẩn này và các nhà khoa học về sau khống chế nó hoàn toàn. Yersin cũng là một câu chuyện thú vị khi cả cuộc đời trưởng thành của ông, đều gắn bó với 2 chữ Việt Nam.

Tốt nghiệp tiến sĩ y khoa với đề tài bệnh Lao, nhưng Yersin và thầy hướng dẫn của mình là giáo sư Roux nổi danh với phát minh ra vắc xin bạch hầu. Thành tựu của ông khiến thiên tài Louis Pasteur chú ý và được nhận vào làm ở viện Pasteur Paris danh giá. Nhưng máu thám hiểm trong người khiến ông nằng nặc xin nghỉ việc để đi làm thuỷ thủ tàu viễn dương "dù chưa có kinh nghiệm đi biển bao giờ". Ông nói "đời mà không đi, thì còn gì là đời".

Các lần đi thám hiểm và quay lại Pháp, ông đều được Louis Pasteur "mời ăn tối và nghe báo cáo", "thấy thú vị trước các thông tin mới mẻ do Yersin kể". Pasteur yêu cầu ông hãy làm gì thì làm cho trọn vẹn để "vang danh thiên hạ, giúp nhân loại". Vâng lời thầy, Yersin xách đồ đạc lên tàu vượt ngàn hải lý, mặc cho gió bão khôn lường. Hình ảnh học trò khăn gói xuống thuyền dọc ngang quả đất sau khi học xong là hình ảnh vô cùng đẹp của những người có LÝ TƯỞNG SỐNG.

Sang Việt Nam, ông làm bác sĩ trên tàu giữa Sài Gòn, Manila, Hải Phòng rồi sau đó định cư ở Nha Trang, sau một lần tàu cập bến và ông phải lòng với cảnh sắc nơi đây. Đầu thế kỷ 20, ông tham gia hội đồng sáng lập và là hiệu trưởng đầu tiên của ĐH Y Khoa Đông Dương (nay là Y Hà Nội), xây dựng toàn bộ giáo trình sơ khởi và nhận thức y đức cho các thế hệ bác sĩ, quy hoạch các bệnh viện ở các tỉnh thành khắp Việt Nam theo khoảng cách địa lý để "ai bị bệnh cũng có chỗ gần nhất mà đến trị kịp thời". Nhưng Hà Nội cũng chỉ có thể giữ chân ông được 2 năm. Ông quay trở lại Nha Trang, thực hiện chuỗi những ngày làm khoa học và thám hiểm khắp núi rừng Đông Dương. Ông là người đã tìm ra cao nguyên Lang Biang và quy hoạch Tp Đà Lạt, xây dựng viện Pasteur Đà Lạt và phát triển mạnh hơn cho viện Pasteur Sài Gòn, Hà Nội. Trại ngựa nuôi lấy huyết thanh sản xuất vắc xin của ông nằm ở suối Dầu là trại ngựa thuốc lớn nhất châu Á khi đó. Ông còn cho trồng cây ký ninh để trị bệnh sốt rét. Ông từng mong muốn Diên Khánh là thành phố dược phẩm, là nơi sản xuất thuốc men cho cả Đông Dương.

Ông cũng là người mang cây cao su, ca cao, cà phê (thậm chí ông cho thử nghiệm cây điều từ Brazil và tiêu đen từ Ấn Độ ở nông trại của mình), đến bây giờ chúng ta đã có hàng tỷ đô la xuất khẩu. Ông thử nghiệm nhiều giống cây ôn đới như cà rốt súp lơ su su lay-ơn cẩm tú cầu xà lách xông cà chua....(hầu như tất cả các loại rau củ mang tiếng Pháp đều là do ông và bạn bè đồng sự ông mang qua). Ông còn nuôi cừu trồng nho ở Phan Rang, nuôi đà điểu ở Ninh Hoà, thử nghiệm trồng quy mô lớn cây cà phê ở Lâm Đồng, Đăk Lăk và Pleiku. Ông cũng là 1 triệu phú nhờ trồng cao su xuất bán cho hãng lốp xe Michelin và là cổ đông chính của ngân hàng HSBC. Ông cho rằng "tôi phải kiếm tiền kiểu khác chứ không tài nào cầm được tiền của các bệnh nhân". Toàn bộ tiền lãi của ông đến nay vẫn còn và vẫn bí mật chuyển đều đặn về 1 quỹ từ thiện và quỹ nghiên cứu khoa học.

Ông sống 1 mình, giản dị ở Nha Trang đến cuối đời, 1 cuộc đầy ắp những chuyến đi thám hiểm và thành tựu. Nha Trang cũng là nơi tiếp cận điện ảnh đầu tiên của nước ta do ông mang về chiếu.

Có lần khi trẻ con vào nhà ông xem phim và nghịch phá những chậu hoa quý, gia nhân toan ra mắng nhưng ông bảo "đừng la trẻ nhỏ, nghe lớn tiếng chúng sẽ sợ". 1 lần ông lái xe hơi trên đường, 1 người dân bất cẩn lao vào xe ông và bị tai nạn. Dù lỗi của người đi bộ rành rành nhưng ông chạy xuống giúp họ băng bó, xin họ tha thứ và kiên quyết trả lại xe cho chính phủ, đi xe đạp, vì theo ông "dân chúng xứ này chưa quen luật lệ nên đi lại vô tư, mình đi xe đạp có va chạm thì cũng không gây thương vong cho họ". Có lần ông lên Tây Nguyên tìm thuốc, người dân tộc đã bắt ông, định hành quyết. Nhưng họ nhìn vào mắt ông, thấy một sự chân thành và thiện lương kỳ lạ, họ quyết định thả ông ra. Ông sau đó chữa trị bệnh cho cả buôn làng và gửi thuốc men lên cho họ đều đặn. Ngôi nhà của ông là trại tế bần khổng lồ cho người sa cơ lỡ vận, ốm đau, bệnh tật, đói kém....của khắp vùng, mở cửa suốt ngày suốt đêm. Ông không có vợ con vì dâng hiến phụng sự cả đời cho khoa học, nhưng người ta kính yêu ông như cha mẹ ruột.

Trong khi nhiều trí thức Việt Nam đi Pháp để hưởng thụ sự văn minh có sẵn của xứ người, ông như cá bơi ngược dòng. Dù quê hương ông là đất nước Thuỵ Sĩ giàu có và xinh đẹp, dù tốt nghiệp trường Y Paris và là một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất thế giới khi ấy, ông vẫn xuống tàu đi về phương Đông, một miền đất nghèo xa lạ. Ông đã chọn Việt Nam làm nơi sinh sống, làm việc và an nghỉ cuối đời. Ông luôn nói "tôi mãi mãi là một công dân Pháp, nhưng tôi yêu Việt Nam và tôi sẽ phụng sự cả tính mạng và cuộc đời tôi cho họ".

Đám tang ông là đám tang lớn nhất Việt Nam lúc đó. Giây phút cuối đời, ông nhờ người quản gia dìu ông ra phía cửa sổ, nhìn về phía biển, nơi ghi dấu 1 thời dọc ngang tuổi trẻ, rồi trút hơi thở cuối cùng. Nghe tin ông mất, người dân Nha Trang bỏ hết công ăn việc làm để lo hậu sự. Tàu bè ngoài biển vội vã cập bến xóm Cồn, ngưng mọi hoạt động đánh bắt trong nhiều ngày. Những phụ nữ tiểu thương bán cá đã bỏ hết cá mắm tiền bạc danh lợi mỗi ngày, bỏ cái nón lá quen thuộc để đeo khăn tang trắng xoá trên đầu, xuống đường đưa tiễn, khóc hết nước mắt. Người dân Hà Nội, Sài Gòn, Đà Lạt, các thành phố lớn khác châu Á yêu quý ông, nhất là người Hongkong, nơi ông đã thành công trong việc giúp hàng triệu người dân ở đây thoát khỏi nỗi kinh hoàng do dịch cúm. Úc từng mời ông sang thành lập viện Pasteur cho họ nhưng ông đã từ chối. Hongkong thì tìm mọi cách giữ ông lại, nhưng ông vẫn khăng khăng quay về dải đất hình chữ S mà ông trót yêu thương. Năm 1943, khi ông mất, trí thức toàn thế giới, đặc biệt giới Y khoa và giới thám hiểm đã bày tỏ sự thương tiếc vô hạn. Di chúc ông ghi giản dị "Tôi muốn được an táng ở Suối Dầu, mộ thật nhỏ và nằm úp xuống, đầu quay về phía biển. Ông Bùi Quang Phương (cộng sự lâu năm) đừng cho ai đem thi hài tôi đi nước khác. Mọi tài sản xin tặng hết cho Viện Pasteur và những người cộng sự lâu năm đã làm việc với tôi".

Nếu bạn đã từng 1 lần được tiêm chủng, chích ngừa hay thậm chí ăn cà rốt, uống cà phê, đắp mặt cà chua (trước đó thì người Việt chúng ta chỉ có cà pháo....để ăn với mắm tôm) thì hãy biết ơn Yersin. Công lao của ông với dân tộc này, với đất nước này là không bao giờ kể hết.

Các bạn có thể đọc thêm tư liệu về bác sĩ Yersin, có nhiều cuốn sách viết về ông. Đó là một người mà người Việt chúng ta phải mãi mãi nghiêng mình. Sách giáo khoa nên bổ sung nhiều bài học về ông để dạy ở các cấp học để thế hệ chúng ta mãi mãi biết ơn. Lòng biết ơn là thước đo của sự văn minh, ở mỗi cá nhân và cả dân tộc.

Và mỗi cá nhân, nếu tình cờ đọc được những dòng chữ trên thì hãy bắt chước ông ở tinh thần PHỤNG SỰ, CỐNG HIẾN. Không nhỏ hẹp, vun vén cá nhân, cái xe - cái nhà - miếng đất - bằng cấp - chức vụ - công danh, tiền tài mang về cho vợ cho con tầm thường nữa. Mạnh dạn vẫy vùng biển rộng trời cao, dấn thân vì MỘT LÝ TƯỞNG SỐNG của riêng mình. Cùng nhau MAKE VIETNAM BETTER.

Phàm làm người, ai càng sớm tìm được lý tưởng sống, thì càng có một cuộc đời ý nghĩa, trọn vẹn, không hối tiếc.


Nguồn: Tony buổi sáng
Ảnh mượn: Đà Lạt một khoảng khắc hiếm gặp



Nói về bậc Đại học ở Sài Gòn thì ngày xưa có Viện Đại học Sài Gòn với 8 phân khoa cho 8 trường Đại học khác nhau trong đó có Đại học Y khoa hay còn được gọi là Y khoa đại học đường.

Sau 1975 thì trường bị đổi tên thành Đại học Y Dược Tp HCM. Một cái tên rất dễ nhầm lẫn vì nếu có 1 người học Y Dược lại phải hỏi họ học bên Y hay bên Dược hay bên Nha, xét về góc độ khoa học thì đây là 3 mảng riêng.

Vời thời điểm mới thành lập năm 1957, Viện Đại học Sài Gòn có 8 phân khoa là:

·        Văn khoa

·        Luật khoa

·        Y khoa

·        Dược khoa

·        Nha khoa

·        Khoa học

·        Sư phạm

·        Cao đẳng kiến trúc.

Và bậc Đại học hồi đó còn có thêm Học viện kỹ thuật quốc gia, sau đó là Đại học Kỹ thuật, sau 1975 đổi tên thành Đại học Bách Khoa Tp HCM.

Trường Văn khoa và trường Khoa học sau 1975 bị sáp nhập lại thành Đại học Tổng Hợp, sau đó lại tách ra, Văn khoa đổi tên thành ĐH Khoa học xã hội nhân văn, Khoa học đổi tên thành ĐH Khoa học Tự nhiên.



Nhân câu chuyện lùm xùm về bà bộ trưởng muốn đổi tên Đại học Y Dược thành Đại học Sức Khỏe, xin nói qua về các tên gọi của bậc Đại học, Cao đẳng ở miền Nam khi xưa.

Miền Nam Việt Nam có 3 Viện Đại Học công lập. Ngoài Viện Đại Học Sài Gòn như đã nơi ở trên thì còn có Viện Đại Học Huế và Viện Đại Học Cần Thơ. Đến năm 1973 có thêm Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức (tiền thân của 3 trường Đại học Bách Khoa, Đại học Sư phạm kỹ thuật, Đại học Nông Lâm sau năm 75).



Ngoài các viện đại học công, miền Nam còn có các viện đại học tư gồm Viện Đại Học Đà Lạt, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Viện Đại Học Hòa Hảo và Viện Đại Học Minh Đức. Ngoài ra, Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt cũng là nơi đào tạo các sĩ quan ưu tú với trình độ học vấn tương đương với văn bằng Cử Nhân. Trong niên khóa cuối cùng 1974-1975 trước khi Miền Nam Việt Nam mất, toàn thể miền Nam có 150.000 sinh viên đại học gồm 120.000 sinh viên đại học công lập và 30.000 sinh viên đại học tư, trong số đó 10.000 sinh viên học ở Miền Trung, 140.000 sinh viên theo học ở trong Nam.

Điều kiện để thi vào các công lập đều áp dụng cho mọi thí sinh. Hệ thống trung học cũng như đại học công lập hoàn toàn miễn phí. Dưới đây là hệ thống đại học công lập miền Nam trước 1975.

Viện Đại Học Sài Gòn

Sau Hiệp Định Genève, Đại Học Đông Dương di chuyển từ Hà Nội vào Sài Gòn năm 1954. Từ 1955 các trường Cao Đẳng và Đại Học Sài Gòn được cải tổ sâu rộng với danh xưng mới là Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam, đến niên khóa 1956-1957 đổi thành Viện Đại Học Sài Gòn. Cho đến tháng 4, 1975, Viện Đại Học Sài Gòn có 8 Phân Khoa Đại Học như sau:

1. Trường Đại Học Sư Phạm

Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn nguyên là Trường Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương (École Supérieure de Pédagogie) thành lập tại Hà Nội do nghị định ngày 15/10/1917 của Toàn Quyền Albert Sarraut. Năm 1950 trường trở thành một Khoa thuộc Viện Đại Học Hà Nội. Sau 1954 trường di chuyển vào Sài Gòn. Đến 1958, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ký nghị định đổi thành Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn trực thuộc Viện Đại Học Sài Gòn. Lúc đầu trường có nhiệm vụ đào tạo giáo sư Trung Học Đệ Nhất Cấp, sau nhằm đào tạo giáo sư Trung Học Đệ Nhị Cấp. Học trình thời gian đầu là 3 năm, đến 1961 đổi thành 4 năm.



2. Trường Đại Học Y Khoa

Trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn là hậu thân của Trường Y Khoa Đông Dương (École de Médecine de l’Indochine) được thành lập ngày 08/01/1902. Trường này được đổi thành Trường Y Dược Đông Dương (École de Médecine et de Pharmacie de l’Indochine) ngày 29/12/1913. Từ 1948 trường có 2 Trung Tâm: một tại Hà Nội và một ở Sài Gòn. Sau 1954, Trung Tâm Hà Nội di chuyển vào Nam và sát nhập vào Trung Tâm Sài Gòn trở thành Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa gồm 3 trường: Y Khoa Đại Học Đường, Dược Khoa Đại Học Đường và Nha Khoa Đại Học Đường thuộc Viện Đại Học Sài Gòn. Từ 1948 đến1961 muốn nhập học phải có chứng chỉ PCB (Lý, Hóa, Sinh Hóa) của trường Đại Học Khoa Học và qua kỳ thi tuyển. Sau 1961 chỉ cần có bằng Tú Tài 2 ban A hoặc B và đậu kỳ thi tuyển vào năm Dự Bị Y Khoa cùng với 6 năm học nữa (học trình 7 năm). Trước 1966, Đại Học Y Khoa Sài Gòn giảng dạy bằng tiếng Pháp, nhưng sau năm này các giáo sư có thể giảng bằng một trong ba thứ tiếng: Việt, Anh, Pháp. Cuối năm thứ 5, sinh viên thi tốt nghiệp và sau đó phải soạn và trình luận án viết bằng Pháp hoặc Anh Văn. Từ sau 1967 sinh viên mới được chọn thêm tiếng Việt. Cứ cuối mỗi năm phải thi lên lớp, nếu vắng mặt 3 buổi học, kể cả thực tập, sẽ bị cấm thi. Riêng năm thứ nhất vắng mặt 2 buổi là đã bị cấm thi. Cuối năm thứ 6 sinh viên được coi như y sĩ, nhưng phải soạn và đệ trình luận án mới được chính thức công nhận là Tiến Sĩ Y Khoa (quen gọi là Bác Sĩ). Sau khi tốt nghiệp, các Bác Sĩ phải làm tại các bệnh viện công 2 năm mới có quyền hành nghề tư.

3. Đại Học Dược Khoa

Trường Đại Học Dược Khoa là một Ban của Trường Y Dược Đông Dương (École de Médecine et de Pharmacie de l’Indochine) được thành lập bằng nghị định ngày 29/12/1913 (cải tổ Trường Y Khoa Đông Dương thành Trường Y Dược Đông Dương). Năm 1954 sau khi dời từ Hà Nội vào Sài Gòn và sát nhập vào Trung Tâm Sài Gòn, Ban Dược trở thành Trường Đại Học Dược Khoa Sài Gòn từ 1962. Muốn nhập học phải có bằng Tú Tài 2 ban A hoặc B, học trình 5 năm. Mỗi cuối năm nếu đủ giờ lý thuyết và thực tập sẽ được thi lên lớp. Cuối năm thứ 5 thi tốt nghiệp, trúng tuyển được cấp bằng Dược Sĩ Quốc Gia (Diplôme de Pharmacien d’État).

4. Trường Đại Học Nha Khoa

Trường Đại Học Nha Khoa nguyên là một ban của Trường Y Dược Đông Dương (École de Médecine et de Pharmacie de l’Indochine), sau 1954 dời vào Nam. Đến 1963 ban này được chính thức nâng lên thành một phân khoa và trở thành Trường Đại Học Nha Khoa thuộc Viện Đại Học Sài Gòn. Muốn nhập học phải có chứng chỉ SPCN (Lý, Hóa, Vạn Vật) hoặc PCB (Lý, Hóa, Sinh Hóa) của trường Đại Học Khoa Học và học thêm 4 năm trường Nha. Sau 1966 thí sinh có Tú Tài 2 trực tiếp thi vào thì học trình là 5 năm. Sinh viên vừa học lý thuyết vừa thực tập tại phòng thí nghiệm ở trường và tại các phòng giải phẫu của bệnh viện, tốt nghiệp qua kỳ thi cuối năm thứ 5 được cấp bằng Nha Sĩ Quốc Gia.

5. Trường Đại Học Kiến Trúc

Trường Đại Học Kiến Trúc nguyên là một ngành của Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (École des Beaux Arts de l’Indochine) thành lập tại Hà Nội do nghị định của Toàn Quyền Merlin ngày 27/10/1924. Đến niên khóa 1926-1927 mới có ngành Kiến Trúc. Từ 1928 trường dời vào Đà Lạt. Niên khóa 1948-1949 trường trở thành một phân khoa của Viện Đại Học Hà Nội. Sau 1954 trường dời về Sài Gòn trực thuộc Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam. Kể từ niên khóa 1957-1958 trường thuộc Viện Đại Học Sài Gòn. Trường Đại Học Kiến Trúc đao tạo Kiến Trúc Sư, chuyên viên ngành thiết kế đô thị và Cán Sự Kiến Trúc phục vụ công tác xây dựng nhà cửa, cao ốc. Trước 1950 trường thuộc hệ Cao Đẳng, từ 1958 được nâng lên hệ Đại Học, học trình 6 năm, có 3 ban: Kiến Trúc, Thiết Kế Đô Thị và Cán Sự Kiến Trúc. Muốn nhập học phải có bằng Tú Tài 2 ban B (Toán) và qua kỳ thi tuyển về Toán và vẽ. Mỗi năm phải thi lên lớp và hội đủ một số giờ thực tập về thiết kế và họa đồ. Năm cuối cùng nếu đầy đủ giờ thực tập và đồ án xây dựng sẽ được phép thi tốt nghiệp, trúng tuyển được cấp văn bằng Kiến Trúc Sư.

6. Trường Đại Học Khoa Học

Trường Đại Học Khoa Học nguyên là Trường Cao Đẳng Khoa Học Đông Dương (École Supérieure des Sciences). Trường này được thành lập ở Hà Nội năm 1941 và có một chi nhánh ở Sài Gòn. Năm 1949 Trường được cải danh là Khoa Học Đại Học Đường thuộc Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam. Sau 1954, Trung Tâm Hà Nội dọn vào Sài Gòn và sát nhập thành Trường Đại Học Khoa Học thuộc Viện Đại Học Sài Gòn. Trường có nhiều ban, mỗi ban có nhiều chứng chỉ. gồm Toán, Vật Lý (điện, điện tử), Hóa Học, Sinh Vật Học, Địa Chất. Muốn nhập học chỉ cần có bằng Tú Tài 2 ban A hoặc B, không phải thi tuyển. Học ban nào khi tốt nghiệp được cấp phát văn bằng Cử Nhân ban đó như: Cử Nhân Toán, Cử Nhân Vật Lý, Cử Nhân Hóa Học. Năm đầu sinh viên có thể chọn một trong 4 chứng chỉ dự bị sau:

1. MGP (Mathématiques Générales et Physiques) Toán Đại Cương và Vật Lý để học Cử Nhân Toán.
2. MPC (Mathématiques, Physique et Chimie) Toán, Lý, Hóa để học Cử Nhân Vật Lý hoặc Cử Nhân Hóa Học.
3. SPCN (Sciences Physique, Chimie et Naturelles) Lý, Hóa, Vạn Vật để học Cử Nhân Vạn Vật.
4. PCB (Physique, Chimie, Biologie) Lý, Hóa, Sinh Hóa để học Cử Nhân Sinh Vật hoặc Cử Nhân Địa Chất.

Nếu theo đúng 6 chứng chỉ chuyên khoa bắt buộc sẽ được cấp phát văn bằng Cử Nhân Giáo Khoa về ban đã học. Nếu chọn 6 chứng chỉ không bắt buộc thì được cấp phát văn bằng Cử Nhân Tự Do. Có bằng Cử Nhân được ghi danh Cao Học hoặc Chứng Chỉ Khoa Học Đệ Tam Cấp. Nếu đỗ chứng chỉ Thâm Cứu, sinh viên phải tìm một giáo sư bảo trợ để soạn luận án Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp. Nếu Hội Đồng Giám Khảo thông qua luận án, sinh viên được cấp văn bằng này. Với bằng Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp sinh viên có thể nghiên cứu, soạn và trình luận án Tiến Sĩ Quốc Gia. Học trình Tiến Sĩ Quốc Gia dài từ 5 đến 7 năm. Trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn tổ chức các kỳ thi Tiến Sĩ Quốc Gia bằng cách trình luận án ở Pháp.

7. Trường Đại Học Luật Khoa

Trường Đại Học Luật Khoa Sài Gòn là hậu thân của Trường Pháp Chính Đông Dương (École de Droit et d’Administration). Trường này được thành lập tai Hà Nội ngày 15/10/1917. Do sắc lệnh của Tổng Thống Pháp ngày 11/09/1931 Trường đổi tên là Trường Cao Đẳng Luật Khoa Đông Dương (École Supérieure de Droit de l’Indochine), đến 1941 đổi thành Trường Đại Học Luật Khoa (Faculté de Droit). Năm 1954 Trường chuyển vào Sài Gòn và thuộc Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam, sau 1957 thuộc Viện Đại Học Sài Gòn. Trường cấp học vị từ Cử Nhân đến Tiến Sĩ, nhằm đào tạo các chuyên viên luật cho ngành Tư Pháp, Kinh Tế, Ngân Hàng. Muốn nhập học chỉ cần có bằng Tú Tài 2 không kể ban, không phải qua kỳ thi tuyển. Học trình có 3 cấp:

1. Cử Nhân: học trình lúc đầu là 3 năm, đến giữa thập niên 60 đổi thành 4 năm. Từ khi tăng lên 4 năm, 2 năm đầu giảng dạy các vấn đề tổng quát luật học, 2 năm sau đi vào chuyên khoa của từng bộ môn gồm kinh tế, công pháp, tư pháp. Cuối mỗi năm sinh viên phải qua một kỳ thi lên lớp. Với học trình 3 năm, khi tốt nghiệp đươc cấp văn bằng Cử Nhân Luật Khoa. Kể từ khi học trình tăng lên 4 năm, khi tốt nghiệp được cấp bằng Cử Nhân theo các bộ môn Kinh Tế, Tư Pháp, Công Pháp.
2. Cao Học: Cao Học có 3 ban giống như Cử Nhân, học trình 2 năm. Nếu đỗ năm thứ nhất được cấp chứng chỉ Cao Học Đệ Nhất Cấp, đỗ năm thứ 2 được cấp chứng chỉ Cao Học Đệ Nhị Cấp.
3. Tiến Sĩ: nếu có 2 chứng chỉ Cao Học được theo học chương trình Tiến Sĩ nhưng cần có giáo sư thực thụ bảo trợ để soạn luận án. Nếu luận án được Hội Đồng Giám Khảo thông qua được cấp học vị Tiến Sĩ Luật Khoa có ghi rõ từng ban.

8. Trường Đại Học Văn Khoa

Trường Đại Học Văn Khoa lúc đầu chỉ là lớp Dự Bị Văn Chương Pháp, thuộc Viện Đại Học Hà Nội có từ trước 1945. Niên khóa 1948-1949 trường mở cửa lại, có 2 trung tâm Hà Nội và Sài Gòn. Sau 1954 trung tâm Hà Nội sát nhập với trung tâm Sài Gòn và đươc nâng lên thành một phân khoa Đại Học (Faculté). Muốn nhập học chỉ cần có bằng Tú Tài 2 không kể ban. Trường có các ban cho các bằng Cử Nhân tương ứng: Việt Văn, Việt Hán, Pháp Văn, Anh Văn, Sử Học, Địa Lý, Triết Học, Nhân Văn. Sinh viên theo học ban nào thì phải học một môn chính bắt buộc, một môn phụ bắt buộc. Thí dụ: ban Pháp Văn, môn chính bắt buộc là Pháp Văn, môn phụ bắt buộc là Việt Văn, các môn khác là Anh Văn, Triết và Sử, Địa.



Cuối năm thứ nhất sinh viên thi lấy chứng chỉ Dự Bị Văn Khoa, nếu đỗ, được theo học các chứng chỉ thuộc ban đã chọn từ đầu. Chứng chỉ Dự Bị là cửa ngõ duy nhất, nhưng khi tốt nghiệp Cử Nhân chứng chỉ này không được ghi vào văn bằng. Nếu sinh viên đỗ 4 chứng chỉ trong đó có một chứng chỉ Văn Chương thuộc ngành đã chọn thì được cấp phát văn bằng Cử Nhân Tự Do (Licence Libre). Muốn lấy văn bằng Cử Nhân Giáo Khoa (Licence d’Enseignement) sinh viên phải đỗ đủ 4 chứng chỉ bắt buộc.

Thí dụ 1: Cử Nhân Giáo Khoa Việt Văn phải có các chứng chỉ Văn Chương Việt Nam, Văn Chuơng Việt Hán, Ngữ Học và một trong các chứng chỉ Văn Hóa Pháp, Pháp Văn Thực Hành, Văn Hóa Anh Mỹ, Anh Văn Thực Hành.

Thí dụ 2: Cử Nhân Giáo Khoa Pháp Văn phải có các chứng chỉ Văn Chương Pháp, Ngữ Học Pháp, Văn Hóa Pháp và một trong 2 chứng chỉ Văn Chương Quốc Âm, Văn Chương Việt Hán.

Nếu đỗ Cử Nhân Giáo Khoa trong đó có 2 chứng chỉ hạng Bình Thứ trở lên và được một giáo sư bảo trợ sẽ đủ điều kiện ghi danh Cao học (Diplôme d’Études Supérieure). Sinh viên phải soạn tiểu luận tối thiểu 100 trang đánh máy. Nếu tiểu luận được Hội Đồng Giám Khảo, gồm 1 chủ tịch, 2 giám khảo (một vị là giáo sư bảo trợ), sau khi Hội Đồng đánh giá và thảo luận chấp thuận thì được cấp văn bằng Cao Học Văn Chương của từng ban. Từ niên khóa 1971-1972 bắt đầu có chương trình Tiến Sĩ Chuyên Khoa.

Ngoài ra, ở thành đô Sài Gòn còn có các trường cao đẳng, học viện, trung tâm khác như sau:

Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ

Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ được thành lập do Sắc Lệnh năm 1957 của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trực thuộc Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Trung Tâm gồm các Trường Cao Đẳng Chuyên Nghiệp. Muốn nhập học phải có Tú Tài 2 ban A hoặc B, thời gian học cho Kỹ Sư từ 4 đến 5 năm tùy theo ngành, ban Cán Sự 2 năm. Trung Tâm gồm 3 trường:

1. Trường Cao Đẳng Công Chánh: đào tạo Kỹ Sư Cầu Cống, Cán Sự Công Chánh, Địa Chánh.
2. Trường Cao Đẳng Điện Học: đào tạo Kỹ Sư Điện, Cán Sự Điện, Điện Tử.
Trường Kỹ Sư Công Nghệ: đào tạo Kỹ Sư Công Nghiệp.
3. Trường Cao Đẳng Hóa Học: đào tạo Kỹ Sư Hóa Học, Cán Sự Hóa Học.
Trường Việt Nam Hàng Hải: đào tạo Thuyền Trưởng Viễn Duyên, Sĩ Quan Cơ Khí Hàng Hải.

Trường Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật

Trường Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật thành lập do Nghị Định số 1082/GD ngày 05/10/1962 của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Trụ sở ở Thủ Đức, Trường đào tạo các giáo chức dạy các môn kỹ thuật cho các trường Sư Phạm Kỹ Thuật Trung Cấp. Trường có các ngành về Khoa Học Ứng Dụng, Khoa Học Chuyên Nghiệp, Kỹ Nghệ Họa, Thương Mại, Tiểu Công Nghệ. Đến niên khóa 1973-1974 trường được kết hợp với một số trường Cao Đẳng và Khoa của Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ để trở thành Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức dưới sự điều khiển trực tiếp của Bộ Văn Hóa Giáo Dục.

Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp

Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp là hậu thân của Trường Chuyên Nghiệp Nông Lâm Đông Dương (École Spécial d’Agriculture et de Sylviculture) tại Hà Nội do nghị định ngày 15/08/1938 của Toàn Quyền Đông Dương. Sau 1954 trường dời vào Nam. Năm 1959 trường được tái lập tại Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, trực thuộc Bộ Canh Nông, nhằm đào tạo kỹ sư Nông Lâm Súc. Sau vì mất an ninh trường dời về Sài Gòn. Năm 1963 trường đổi tên thành Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp trực thuộc Bộ Văn Hóa Giáo Dục và trở thành viên của Viện Đại Học Sài Gòn.

Học Viện Quốc Gia Hành Chánh

Tiền thân của Học Viện Quốc Gia Hành Chánh là Trường Pháp Chính Đông Dương (École de Droit et d’Administration) thành lập ở Hà Nội ngày 15/10/1917, sau đổi thành Trường Đại Học Luật Khoa Hà Nội (Faculté de Droit) vào năm 1941. Ngày 01/01/1953 một bộ phận của Trường Đại Học Luật Khoa Hà Nội được thành lập ở Đà Lạt mang tên Trường Quốc Gia Hành Chánh Đà Lạt, trực thuộc Bộ Quốc Gia Giáo Dục, nhằm đào tạo các viên chức hành chánh cao cấp. Đến 1954 trường được cải tổ sâu rộng và đặt trực thuộc Phủ Thủ Tướng. Năm 1955 Trường dời về Sài Gòn và đổi thành Học Viện Quốc Gia Hành Chánh.

Nguồn: fb Nam Kỳ Lục Tỉnh

 



ĐI TÌM EM CÁNH GIÓ.




 

Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2020

TRÒ CHƠI TUỔI THƠ

VÀI TRÒ CHƠI NỮ SINH TIỂU HỌC QUÊ NHÀ NGÀY XƯA

 Cùng gợi lại cho nhau nghe những trò chơi thuở trước lúc còn ngồi trên băng ghế trường Nữ Tiểu học quê nhà. Thùng ! Thùng ! Thùng ! Tiếng trống vừa điểm vang, được lệnh thầy cô, như đàn ong vỡ tổ bay ra khỏi lớp, những lúc nghỉ nầy quả là một lối mở nút chai, giải tỏa sinh lực bị dồn ép trong giờ học vừa qua.

Với óc tưởng tượng phong phú, qua kinh nghiệm của thế hệ trước, bao trò chơi được bày ra nhiều cách, dụng cụ khác nhau, cá nhân tập thể và nhất là tùy theo thời tiết, trong hành lang trước lớp hoặc ngoài sân.Nước ta vốn nông nghiệp, tất nhiên trò chơi nhầm thích ứng với tập tục thói quen, vì từ công tác đồng áng chăn nuôi đến nội trợ, phụ nữ Việt luôn đều góp phần không nhỏ nên việc giải trí cho phái nữ cũng được phân định quan tâm. Trò chơi nào cũng có quy luật riêng và thường khởi đầu bằng cuộc thi xếp hạng. Khán giả không được « xía » vào, cổ vũ phê bình.

Trước hết, trò chơi thuần túy nữ sinh, luôn luôn ngồi chồm hỗm nầy là đánh búng tương đương lối chơi bắn đạn bắn kè của nam sinh thay vì hòn bi viên đạn cục kè, thường dùng toàn hột me khô.

 

Bắn kè-Bắn bi

 Đây cũng là lối tập bắn, luyện nhắm chính xác, khéo tay. Có hai lối chơi « búng chỉ », hột me đầu tiên do đối thủ chỉ định, và « búng gạch », dùng ngón tay trõ gạch giữa từng cặp hai hột me cấm không được chạm vào hột nào hết.

Đánh búng bằng hột me

 Cuộc thi mở màn là mỗi « lực sĩ » vận động viên để tất cả hột me vào lòng bàn tay, với « chưởng lực » vừa hất lên vừa lật úp bàn tay cho tất cả hột me rơi trên mu bàn tay, rồi lại hất lên cho hạt rơi trở lại vào lòng bàn tay. Nếu không hột nào rơi ra ngoài xuống đất gọi là « trụm », việc xếp hạng trước sau là do hạt rơi ra nhiều ít.Cách búng thường phải dùng hai ngón tay cái và trỏ chụm vào nhau, ngón cái búng ngang, ngó trỏ búng dọc. Khi búng, cổ tay bắt buộc phải sát đất, nếu di chuyển gọi là « búng hất » phạt, nhường phiên cho người khác.

 

 


Đánh búng

 Thật không dễ đâu vì luôn luôn phải ngồi chồm hỗm, dạng chân, xoay qua trở lại, nhắm thật trúng đích, phát pháo đúng mục tiêu mới thắng.Trò chơi nầy thường chơi trong hành lang hơn ngoài sân và có thể chỉ có hai hoặc nhiều người. Thú vị nhất là cuối năm, bạn bè hùn nhau hột me nhờ mẹ nấu chè hột me với nếp nước dừa thơm béo ngọt làm sao !Có dịp nhìn vào cập của nữ sinh dầy cộm, bạn khám phá không phải chỉ có sách vở bên trong mà còn có cả kho tàng giải trí nào giây, banh, hột, đũa, gia tài đầu tiên của tuổi học trò. Môn tiếp đây sử dụng cả toàn thân lúc ngồi khi đứng, đánh đũa hay đánh tên  với mười chiếc đũa tre và một trái banh.Thi xếp hạng là quay dưới đất ba chiếc đũa thành hình tam giác đủ to để có thể đặt đầu chiếc đũa vào trong. 

 

                                       

Đánh tên    

Đặc điểm là trước khi thực hành mỗi giai đoạn bắt buộc phải « chuyền » tức là vừa tung banh lên cao rồi vừa dùng hai tay xoay vòng bó đũa, tùy theo giao ước ban đầu, một hay nhiều vòng, cuối cùng tay nầy nắm bó đũa tay kia hứng bắt trái banh. Bước nào cũng do sự kết hợp giữa tung hứng banh và xoay vòng bó tên một cách nhịp nhàng chính xác.

Phần mở màn khởi đầu tuần tự lựa từng chiếc một, rồi hai cho đến mười. Kế đó là « nụm », một tay nắm giữa bó đũa, tay kia chạm luân phiên vào hai đầu bao nhiêu lần theo qui định. Rồi đến « nẻ », dùng một đầu bó đũa đập xuống đất, rồi quay sang đầu kia gây tiếng vang.

 

 

Đánh tên với trái banh,bó đũa
Trò chơi nầy đòi hỏi mắt phải tinh để theo dõi banh, ước lượng cao thấp, độ lệch. Còn phải tùy theo hướng gió, đất ẩm hay khô để tung banh theo ý. Tay không được ướt ảnh hưởng đến banh tên. Cử động nhịp nhàng, dễ dàng, dẻo dai xoay trở, linh động đứng lên ngồi xuống, chăm chú không phút lãng xao. Đây cũng thể hiện được nét chính các động tác đồng áng như bó mạ, đập lúa, sàng sải gạo, cấy trồng, truyền thống của dân mình 
« Nhảy giây » là trò chơi ngoài trời mà hầu hết nữ sinh thích dự. Có lẽ đây là trò chơi phổ biến nhất, nước nào cũng biết tuy căn bản vẫn giống nhau nhưng kỹ thuật nhảy thật thiên biến vạn hóa, lối luyện toàn thân càng ngày càng đòi hỏi nhiều sức lực hơn.

 

Nhảy giây

 

 


Dụng cụ căn bản chỉ cần một sợi giây sử dụng cho cá nhân hay phe nhóm tập thể, bằng nhiều thế xuôi, ngược, tréo trước sau. Hai tay nắm hai đầu giây, quay giây qua đầu, nhảy lên cho giây luồn dưới chân, nếu đạp lên dây là thua. Khởi sự quay vòng trước mặt là xuôi, sau lưng là ngược. Hai tay tréo lại gấp dây thành vòng nhảy qua cũng đòi hỏi lắm công phu. 

 Vận tốc cũng đáng kể, càng nhanh càng nhiều vòng nhiều điểm. Có thể dùng một sợi dây cho nhiều người tham dự, chia phe tiếp sức, tinh thần đồng đội được nâng cao.Dây do hai người phe khác quay. Cơ bản như trên và tùy thuộc vào người tham dự đồng ý hay sửa đổi tùy thích.


Đánh nhà - Nhảy lò cò

  Nhảy giây đúng là môn chơi biến chuyển nhất, muôn phương nghìn cách thay dạng đổi hình. Có dịp nhìn các cuộc biểu diễn hay thi đua quốc tế, nhảy dây quả thật không còn là một môn thể thao giải trí thông thường mà xứng danh là một nghệ thuật, kỷ thuật toàn diện, một thế võ tuyệt luân.

 «  Mình ơi tôi gọi là nhà,

 Nhà ơi tôi gọi mình là nhà tôi. » 

 Chữ ‘ nhà tôi ‘ được dân ta thường thường dùng trong việc vợ chồng lịch sự gọi nhau lúc giao tiếp với khách, nhập thể chủ với nhà đủ chứng tỏ hoài bão của người Việt « sống có nhà, chết có mồ ». Do đó cũng ảnh hưởng đến việc giáo dục con em. Các bạn đừng nghĩ xứ mình nghèo chỉ có nhà tranh vách đất, trò chơi « đánh nhà » thể hiện rõ nhất nét cao sang. Từ mới học lớp a b c khoanh đã tập tành học đòi xem đất cất nhà tối tân đủ loại.

Trước hết, vẽ hình nhà xuống đất theo mẫu sơ đồ kiến trúc đã được chuẩn y : nhà trệt với ba ô, nhà lầu bảy ô, nhà nóc bằng nhiều tầng cao, building tám ô, nhà nóc chùa vẽ hình xoắn ốc, nhiều ô tùy hứng.

 Cách chơi mỗi người đều có một « đồng mạng » bằng gạch hoặc đồng tiền để ném vào ô qui định. Nhảy một chân gọi là « cò », đặt một lượt hai chân vào hai ô qui định là « chập », « hất » là vừa cò vừa dùng bàn chân tạt ngang đồng mạng sang ô khác, « xủi » là đẩy thẳng lên ô trên. Chân chạm trên đường vẽ tức là Cán mức là ra, thay phiên người khác. Khi nào thực hiện đúng các bước đi, sẽ được cất nhà lần lượt một đến nhiều nhà, trái lại nếu không cẩn thận đề phòng đi sai nước, nhà bị cháy tiêu.

                                                      

Đánh nhà xoắn ốc

Đây là lối luyện thăng bằng, trầm tĩnh, bền chí hữu hiệu nhất dù không đòi hỏi nhiều sức hay căng thẳng như nhảy giây. Các bạn gái quen chơi thì tất biết, trò chơi nào cũng lắm công phu.  Ngay cả « con cò bay lả bay la », khi đậu trên một chân thì vững chứ chỉ có cò què mới ‘cò rò’ một chân thôi.

                                

 Đánh nhà     

Khi cò, một chân làm trục, chân kia gập lại, có mỏi nhờ tay vịn dùm cũng chẳng dám vịn dùm. Hai cánh tay không dùng làm cánh quạt, chỉ làm « gạt đờ co » hỗ trợ thân mình thoát hẳn sức hút của địa cầu trong chốc lát tung lên giáng xuống. Phải dùng cả nội lực thâm hậu dồn xuống bàn chân làm chuẩn, giữ trọng tâm cho vững không khéo ngả nghiêng luýnh quýnh chân co chạm đất, uổng toi công. Thất bại của mình còn có thể là đòn bẩy gây thắng cuộc cho đối phương.

Tuy nhiên đề cập đến học trò là liên tưởng ngay đến hoa phượng, miền Nam xưa kia còn gọi là cây điệp Tây. Hoa phượng đẹp đỏ như xác pháo, chỉ nở vào mùa hè báo hiệu múa thi, nghỉ hè cuối năm học. Còn đối với nữ sinh thật có nhiều công dụng tạo trò chơi. 

                         

Hoa phượng

 Tai hoa dáng dấp chiếc thuyền con dược vò nhẹ thành bong bóng nhỏ, rình bạn nào không để ý đập bóng lên trán, nổ tét gây tiếng vang. Bạn giật mình, hết hồn la hoảng, thủ phạm thích thú cười rũ rượi. Rồi một màn rượt nhau, la chí chóe đùa nhau đập bóng phượng « trả thù » vui nhộn hả hê !

                                    

 


Cánh hoa ăn dòn dòn chua chua ngòn ngọt, khá mỏng manh trùm lên một bàn tay khoanh tròn hổng trên kín dưới như chiếc trống chầu nhằm kề tai bạn, tay kia đập nổ bốp. Cánh hoa vỡ tung như xác pháo vu qui. Không nổ bể là pháo lép, ắt là bị « chọc quê » trở lại.

                                         

 

Nhụy hoa hình nốt nhạc, cọng đỏ nhụy vàng. Trò chơi « đá gà »  phổ biến nhất vào mùa hoa phượng nở rộ, dùng hai nhụy hoa tượng trưng hai con gà, khều móc nhau, bên nào đứt đầu thua cuộc. Thấy thế mà không dễ đâu, đối thủ phải biết chọn cách ngồi thích hợp, ngồi bệt hay hồm chỗm, ước lượng tình trạng gà địch, lập thế lừa giật, chọn nhụy hoa tươi như cựa bén của gà nòi. Rồi như trong mọi chiến cuộc, xáp lá cà, mất mát không thể tránh, thắng bại định ngôi phân thứ nhất thời thôi. Trong phút giây nháy mắt, mọi bất ngờ xảy ra thật bất lường đoán trước phòng ngừa !

 

Đá gà
Đặc biệt nhất là trò chơi đánh u, chia hai phe, đường ngăn đôi chiến tuyến gọi là lụn. Có hai cách chơi, một là u thường, xử dụng làn hơi, hai là u ấp, im lặng, thở đều. Tại sao gọi là « u » ? Có thể nhại tiếng kêu ù ù của máy bay chăng ? Bạn cứ hình dung hai loại phi cơ, một thứ săn giặc, thứ khác thám thính, bây giờ phi cơ không người lái đãy. Một tên phe nầy sang đất địch, vừa dùng hơi thở hô « u » không được ngưng vừa tấn công, chạm được đối thủ nào, tên ấy bị bắt làm tù binh. Nếu thấy hụt hơi phải tháo lui ngay, như phi cơ trục trặc hay địch phản công quá mạnh, quay về đất mình. Chẳng may bị địch bắt mà không vùng vẫy chạy thoát qua khõi ranh giới lụn là trở thành tù binh địch vậy. Cán lụn là được thắng.Với u ấp, chỉ rồ máy tức là hô « ấp », rồi lặng lẽ sang đất địch. Nguyên tắc chơi giống nhau.Củng có thể cứu tù binh bị bắt cầm tù bên đối phương bằng cách tìm cách chạm vào người đồng đội. Trò chơi đánh u nầy đòi hỏi nhiều sức, tính toán nhanh nhẹn và dài hơi.
Tóm lại, đây là vài trò chơi mà nữ sinh ngày xưa thường bày ra chơi nhất. Không thuộc môn học thể thao bắt buộc mà đúng là phương cách dọ dẫm, hướng dẫn, phát huy khả năng tiềm lực cá tính có khuynh hướng giáo dục theo truyền thống nước nhà. Đó cũng là lối giải tỏa, xả hơi thỏa mãn tính hiếu động của tuổi trẻ, xả « xu báp » (soupape) sau giờ học căng thẳng bất ly cục kịch, ít nhúc nhích, kỷ luật khắt khe của nền giáo dục Việt nam nhất là thời Pháp thuộc.

 Nhưng rồi, sĩ số càng gia tăng, giờ học tùy hoàn cảnh đất nước bị rút ngắn, trường sở không còn sân chơi thích hợp, trò chơi biến dạng dần dần.

Tất nhiên môn chơi nào vẫn cần phải thích nghi với hoàn cảnh hiện tại của xã hội, chuyển tiếp, hội nhập vào trào lưu tiến hóa văn minh. Và trò chơi ngày xưa dù « vang bóng một thời » vẫn là kích thích tố khai nguyên, phát huy mầm hoạt động, năng lực tiềm tàng, khơi nguồn tài năng, phản ảnh khía cạnh bản tính tâm tư của từng thế hệ, kỷ niệm gây mơ xây mộng đẹp nhất của tuổi học trò vô tư trong trắng hồn nhiên.                                                                                                                    

Cô Trần Thành Mỹ