Khác với các bà mẹ phương Đông thường chăm chút từng ly từng tí cho con, các bà mẹ phương Tây lại có phần “làm ngơ” các con của mình. Tuy nhiên, trẻ em phương Tây lại được đánh giá là khá ngoan và tự lập rất tốt.Tôn trọng con trẻTuy các con còn nhỏ nhưng các bà mẹ phương Tây không vì thế mà bỏ đi sự tôn trọng “nhỏ nhoi” đối với con mình. Khi đến chơi nhà bạn và được mời thức ăn, các bé được toàn quyền nói Có hoặc Không đối với món ăn đó. Rất ít khi các mẹ Tây ngăn cản con không được ăn (do sĩ diện hoặc e ngại làm phiền) hay ép con chọn món ăn được mời (để lấy lòng gia chủ).Ngoài ra, khi con mắc lỗi, hầu như bố mẹ không bao giờ quát mắng con nơi công cộng mà thường có những buổi “nhỏ to tâm sự”. Trẻ nhỏ với tính bắt chước cao cũng học theo sự tôn trọng này một cách vô thức và lâu dần hình thành thói quen tôn trọng người khác. Do đó, những trẻ được bố mẹ tôn trọng tỏ ra rất hợp tác với bố mẹ, hữu hảo với bạn bè, và không có cảm giác mất tự nhiên khi nói chuyện với người lớn.Để con “Tự phục vụ”Tuỳ vào khả năng của bé theo độ tuổi mà phụ huynh Tây phương thường “khai thác tối đa” khả năng tự phục vụ của con. Chẳng hạn, khi bé đã có thể tự ngồi và cầm nắm đồ vật, các bé sẽ được làm quen ngay với “bạn muỗng” và “bạn thân của bạn muỗng” là chén bột. Trẻ có thể ăn chưa khéo và múc lung tung cả lên hoặc thậm chí vục mặt vào chén bột nhoe nhoét.Các mẹ Tây luôn quan sát để đảm bảo an toàn tính mạng cho con (không sặc bột hoặc nghẹt thở), còn lại thì luôn để con “tự xử” trong khả năng của con. Trẻ con vốn có bản năng sinh tồn, sẽ biết cách xoay sở để “chiến đấu” với khẩn phần ăn của mình. Tương tự, bé lớn hơn một chút đã phải tự thay quần áo, mang giày,… mà hiếm khi có sự trợ giúp từ bố mẹ.Để con tự giải quyết vấn đềĐây là phương pháp “Nếu con ngã, con sẽ phải tự đứng dậy”, “Nếu con biết cách tự khóc, con cũng phải tự biết ngừng khóc”.Các mẹ Tây ít khi dỗ dành con nín khóc như các mẹ Á Châu. Ngược lại khi con khóc, họ sẽ vẫn tiếp tục làm việc của mình cho đến khi trẻ ngừng khóc. Họ chỉ đến xem và kiểm tra bé có ổn không trong trường hợp bé khóc quá lâu hoặc đột ngột ngừng khóc. Đây là lý do các bé ít hờn dỗi và mè nheo như các bé Á Châu .Các bà mẹ Tây cũng thường để con tự giải quyết các vấn đề phát sinh với bạn bè hoặc anh chị em của bé. Nếu các trẻ tranh giành đồ chơi của nhau thì bé có thể tự chọn giải pháp hoặc chơi đồ chơi của mình một mình hoặc chấp nhận chia sẻ chung với bạn.Nhiều bé ban đầu cũng chọn giải pháp chơi một mình nhưng chúng nhanh chóng nhận ra sự buồn tẻ trong khi các bạn khác đang tíu tít chơi với nhau. Thế là chúng sẽ tự biết hoà mình vào niềm vui chung.Kiên nhẫn với conMột điểm dễ thấy khác ở trẻ con là chúng rất hay hỏi “Tại sao” và “Tại sao không”. Ngược lại với các mẹ Á Đông đôi khi chỉ trả lời qua loa hoặc ậm ừ qua chuyện, các mẹ Tây lại rất nhẫn nại trong việc giải thích cho con mình đến thoả mãn mới thôi.Khi con làm sai, họ luôn nhẹ nhàng nhưng không kém phần kiên định trong việc bảo cho biết “Không được” kèm lời giải thích cụ thể. Các mẹ Tây luôn kiên trì nói “Không được” cho đến khi đứa trẻ hiểu ra mới thôi.Hào phóng lời khenTrái với suy nghĩ khen con nhiều sẽ khiến chúng tự phụ, các mẹ Tây lại luôn cho con sống trong thế giới của những lời khen và động viên. Tuy nhiên, họ không bao giờ khen suông mà luôn hướng lời khen vào hành động cụ thể của con. Ví dụ, khi trẻ biết tự mặc quần áo, mẹ sẽ không bao giờ chỉ khen “Con mẹ giỏi quá” mà thay vào đó là, “Cô bé này biết tự mặc quần áo rồi đây. Cô ấy thật giỏi!”Mặc dù mỗi nơi đều có nền văn hoá riêng và phương pháp dạy con của các mẹ phương Tây chưa hẳn đã hoàn toàn phù hợp với quan niệm của người phương Đông, tuy nhiên các mẹ Á Đông vẫn có thể tham khảo để giáo dục con “nhàn” và hiệu quả hơn.
Trần Phong
Tướng mạo không bằng phẩm đức, phẩm đức không bằng độ lượng.
Tích đức hành thiện có thể thay đổi số mệnh? Trong cuốn “Thái Bình Quảng Ký” thời nhà Tống có ghi chép câu chuyện về Lưu Hoằng Kính nhờ tích đại âm đức mà đắc phúc báo.
Lưu Hoằng Kính là người Bành Thành thời nhà Đường, tự là Nguyên Phổ. Gia đình ông sống nhiều thế hệ ở khu vực sông Hoài, Phì Thủy, có tài sản hàng trăm vạn lạng. Ông thường tu âm đức mà không khoe khoang, nên mọi người đều không hay biết về những việc làm tốt của ông. Mặc dù giàu có nhưng ông không làm tổn thương người khác, thường dùng tiền để giúp người, bố thí mà không mong được hồi đáp.
Những năm đầu Trường Khánh thời Đường Mục Tông, có một thuật sĩ giỏi xem tướng trên đường đến Thọ Xuân trông thấy Lưu Nguyên Phổ, ông nói: “Xin quân tử hãy dừng bước, tôi có lời muốn nói”. Lưu Nguyên Phổ liền mời ông vào quán xá và hỏi chuyện.
Thuật sĩ nói: “Ngài có rất nhiều của cải nhưng chỉ 2, 3 năm nữa thôi đại nạn sẽ đến, làm thế nào đây?” Lưu Nguyên Phổ rơi lệ: “Tuổi thọ của con người là thiên mệnh, tiên sinh có thể giúp gì được cho tôi?”.
Thuật sĩ trả lời: “Tướng mạo không bằng phẩm đức, phẩm đức không bằng độ lượng. Mặc dù thọ mệnh của ngài không cao nhưng đức lại dày; ngài cũng là người rất độ lượng, phóng khoáng… Trong vòng 2 năm tới ngài phải nỗ lực tu mỹ đức, hy vọng có thể kéo dài thọ mệnh. Một việc đức có thể tiêu trăm điều họa, còn được hưởng chức tước, bổng lộc, huống hồ là trường thọ. Cứ nỗ lực như vậy, ba năm nữa tôi sẽ lại đến gặp ngài”. Nói rồi bèn cáo từ, Lưu Nguyên Phổ rơi lệ tiễn biệt.
Từ đó ông bắt đầu chuẩn bị hậu sự. Ông có một cô con gái sắp kết hôn, muốn xin mấy cô hầu gái đi cùng. Lưu Nguyên Phổ dùng 80 vạn quan tiền mua 4 cô hầu gái, trong đó một cô tên là Phương Lan Tôn rất xinh đẹp, phong thái đoan trang, không giống người sinh ra trong gia đình nghèo khó.
Lưu Nguyên Phổ hỏi han sự tình, cô trầm ngâm rồi mới trả lời rất lâu rồi mới trả lời. Gia đình cô nhiều đời là danh tộc. Cha làm quan ở Hoài Tây, không may gặp giặc Ngô phản loạn hung bạo. Cha cô bị nghi ngờ là người thân của bọn phản tặc, do vậy ông bị triều đình giết, tịch thu tài sản cả gia đình. Từ đó cô rơi vào cảnh hèn mạt không có nơi để kêu oan. Sau khi giặc Ngô bị dẹp, những người thân khác trong gia đình bị bắt làm tù binh, không biết lưu lạc ở đâu. Bản thân cô đã bị đổi hai chủ, giờ mới vào đây.
Lưu Nguyên Phổ cảm thán trước nỗi oan khuất của cô gái trẻ, ông nói: “Hôm nay nếu ta không thể rửa được oan cho cô thì sẽ bị Thần trừng phạt”.
Ông bèn đốt văn tự bán mình của Phương Lan Tôn, nhận cô làm cháu ngoại. Sau khi gả con gái, ông tìm mối tốt gả Phương Lan Tôn.
Một ngày mùa xuân tháng ba năm Tân Mão năm thứ hai Trường Khánh, Phương Lan Tôn đã xuất giá, Lưu Nguyên Phổ nằm mơ thấy một người mặc áo màu xanh, tay cầm thẻ ngà, hướng xuống trần mà bái lạy.
Khi Lưu Nguyên Phổ lại gần, ông ấy đột nhiên rơi nước mắt nói: “Tôi chính là phụ thân của Phương Lan Tôn, ân đức của ngài, tôi nhất định sẽ báo đáp! Tôi nghe nói âm đức có thể cảm động đến trời xanh. Đến nay thọ mệnh của ngài đã hết, tôi vừa báo cáo lên Thiên đế để cầu xin cho ngài”. Nói rồi đi mất.
Ba ngày sau, Lưu Nguyên Phổ lại nằm mơ thấy phụ thân của Phương Lan Tôn đứng trước tiền đình, mặc áo bào màu tím, thị vệ đứng uy nghiêm xung quanh, ông cảm tạ Lưu Nguyên Phổ, nói: “Kẻ bất tài như tôi may mắn được thỉnh Thiên đế, Thiên đế đã đồng ý kéo dài thọ mệnh cho ngài thêm 25 năm nữa, phúc hưởng ba đời, con cháu không gặp tai ương. Những người đã tàn sát gia đình tôi đều bị xét xử, hiện giờ tai họa khắp thân. Người đã chết thì con cháu phải chịu họa. Thiên đế còn thương xót cho oan tình của tôi, cho khôi phục chức vụ, cai quản vùng sông núi Hoài Hải”. Rồi ông nghẹn ngào bái biệt.
Trời sáng, Lưu Nguyên Phổ vẫn nhớ rõ cảnh tượng giấc mơ những vẫn không tin. Ba năm sau, vị thuật sĩ xem tướng quả nhiên lại đến, vừa gặp đã chúc mừng Lưu Nguyên Phổ: “Thọ mệnh của ngài đã được kéo dài rồi. Để tôi xem khoảng cách giữa lông mày và tóc của ngài nào”.
Lưu Nguyên Phổ bỏ mũ lộ ra vầng trán, thuật sĩ nói: “Ôi, đây đúng là bằng chứng nhờ âm đức mà cảm động đến Thiên đế. Từ nay về sau 25 năm nữa, phúc hưởng ba đời”. Lúc này, Lưu Nguyên Phổ mới kể cho ông ấy nghe chuyện về phụ thân của Phương Lan Tôn.
Lưu Hoằng Kính không tiếc tiền tài, lại không ham luyến sắc đẹp của Phương Lan Tôn, thương cảm giúp đỡ cho cô gái mồ côi. Nhờ tích được âm đức lớn nên không chỉ thay đổi được thọ mệnh của mình, mà con cháu ba đời còn được hưởng phúc, không phải chịu tai họa, đây chẳng phải là đại hảo sự hay sao? Ông trời sẽ không vô tình làm rơi bánh, phúc phận đều là nhờ tích đức hành thiện mà có được.
Thế nào là tích âm đức?
Con người khi hành thiện đều là đang tích đức. Làm việc tốt để người khác biết là dương đức. Dương đức phúc báo nhãn tiền, được người đời ca tụng, khen ngợi hay được hưởng lợi ích về vật chất, dương đức đã báo rồi sẽ hết.
Còn âm đức là làm việc thiện một cách âm thầm, lặng lẽ không để người khác biết, không cầu báo đáp, dù không được ai biểu dương nhưng phúc báo càng sâu dày, càng lớn hơn. Cũng có người nói: Âm đức là những việc tốt đã làm ở dương gian, lại được ghi công tại âm gian.
Âm đức giống như hạt giống, chỉ cần kiên trì gieo trồng, thì không lo tương lai không có cơ hội thu hoạch quả trái.
Từ việc lớn như cứu người gặp nạn, đến việc nhỏ như tiện tay nhặt rác trên đường giúp người không trượt ngã cũng là âm đức. Âm đức có thể thể hiện trong cử chỉ tưởng chừng như đơn giản như: Luôn mỉm cười với mọi người, chuyên tâm với công việc, kính trên nhường dưới.
Cổ nhân dạy: “Lập công danh chẳng bằng tích âm đức”. Dựng lập danh tiếng, theo đuổi địa vị cao sang chẳng bằng tích đức hành thiện. Cho nên muốn thay đổi vận mệnh cần xem bạn tích âm đức thế nào.
Ngọc Mai (biên tập)