Hơn 55 năm chung sống dưới một mái nhà, ông bà Lê chưa có một ngày không cãi vã, to tiếng và giận hờn nhau. Cuộc khẩu chiến triền miên bất tận đó, chưa ai có lần toan tính mở cuộc hòa đàm. Cả hai ông bà đều là những người kiên trì hạng nhất trên thế giới nầy trong cuộc chiến tranh cục bộ gia đình. Thế mà hai ông bà có với nhau đến tám người con, ba trai và năm gái. Những người nầy nhân lên cho ông bà đến gần ba chục đứa cháu nội ngoại. Hai ông bà mở mắt ra là cãi nhau, gầm gừ nhau, nói nặng nói nhẹ, mai mỉa đủ điều. Rồi bà moi những tội lỗi cũ của ông từ thuở Hồng Bàng dựng nước ra mà hạch hỏi, dày vò, bêu rếu. Ông hậm hực, phản pháo lại những lời nặng nề thương tổn. Nhiều khi nghe lời nói đau lòng thốt ra từ miệng chồng, bà Lê ngồi thở dốc như con thú bị thương tích, mặt mày xanh mét. Thấy cái dáng điệu thê thảm của vợ, ông cụ Lê không xót thương mà hả dạ lắm. Bà cứ chờ dịp khi nhà có đông khách, lôi ông ra mà bêu rếu, mà kể tội, làm ông tím mặt, run lên vì giận.
Tám người con của ông bà đều thành đạt, có gia đình, làm ăn khá giả, nhà cửa rộng rãi. Người nào cũng muốn mời ông bà về ở chung cho vui cửa vui nhà, gia đình đoàn tụ ấm cúng. Nhưng những cuộc khẩu chiến triền miên dai dẳng bất tận của hai ông bà từ sáng tới chiều, làm mất yên bình, mất hạnh phúc gia đình của những người con, không ai chịu nổi. Hai ông bà di chuyển từ nhà người con nầy qua nhà người con kia, mỗi nơi ở năm bảy tháng. Vấn đề không phải chỉ làm mất hạnh phúc của con cái, mà còn làm gương xấu cho các cháu nhỏ, nên các người con ông bà đều không muốn ở chung nữa. Khi hai ông bà cãi vả hài tội nhau, thì các ông con rể như để ngoài tai chuyện xấu của hai ông bà, như không nghe, không nhớ, nhưng các bà con dâu thì nhạy cảm hơn nên ghi nhớ, và khi có chuyện bất bình với chồng, thì nêu ra mà làm chứng, mà dày vò bêu rếu. Biện pháp tốt đẹp nhất mà những người con ông dàn xếp là thuê nhà cho hai cụ ở riêng, các con thay phiên nhau đến thăm viếng, chở hai cụ đi chợ, đi chơi.
Mỗi lần ông con cả đến thăm bố mẹ, mà chưa nghe hai ông bà cằn nhằn cãi vã nhau, thì ông cười và trêu ghẹo: “ Sáng nay ba mẹ chưa cãi nhau sao? Coi chừng sắp có thiên tai lớn xảy ra dó.” Bà cụ Lê lại bắt đầu kể lể: “ Kiếp trước tao tàn sát cả gia đình bố mầy, mắc đại tội, nên kiếp nầy phải còng lưng trả nợ. Mấy chục năm nay bị dày vò đau đớn mỗi ngày, mỗi đêm.” . Ông cụ Lê tằng hắng mấy cái lấy giọng, rồi phản pháo: “ Chính tôi là người đau khổ nhục nhã mấy mươi năm nay, có ngày nào tôi không bị bà cho những vết chém qua tim đau nhói, bị mất mặt, nhục nhã với bà con, bạn bè, đôi khi còn không dám nhìn thẳng mặt ai.” Bà Lê bồi thêm; “ Con người xấu xa thì chỉ nên cúi gầm mặt xuống kẻo thiên hạ họ thấy mà ghê tởm.” Ông con trai cắt lời mẹ nói: “ Sao mẹ nói bố những lời nặng nề như vậy?” Bà cụ Lê thét lên: “ Nói nặng cho ba mầy chừa”. Ông con nhìn mẹ cười mà nói: “Mẹ hay chưa! Năm chục năm rồi mà có chừa đâu, mẹ nói thêm có được gì không?”
Hai ông bà Lê như ghiền cải vã và làm trái ý nhau. Dường như hai ông bà không chịu được cái không khí yên ổn hạnh phúc trong gia đình. Phải xào xáo gây gổ mới vui. Thế mà hai ông bà vẫn cặp kè, đi đâu cũng có nhau. Khi ra đường, nếu ông muốn đi về hướng bắc, thì bà cứ nằng nặc đòi đi về hướng nam, bà muốn đi chậm, thì ông muốn đi nhanh, ông muốn đi xe buýt, thì bà đòi đi taxi. Ông muốn đi ăn phở, thì bà đòi đi ăn mì, nhưng nếu ông đòi đi ăn mì trước, thì bà nhất định phải đi ăn phở cho bằng được. Họ không bao giờ muốn làm nhau vui lòng, chỉ muốn làm trái ý nhau, như để trả thù, cho đã tức, đã ghét. Cả hai ông bà đều là người tốt, rất lịch sự vớí bạn bè, với bà con, rất chiều lòng mọi người, ai cũng quý mến hai ông bà. Nhưng hai ông bà thiếu lịch sự với nhau, thiếu nhường nhịn nhau, tranh hơn thua với nhau từng li, từng tí như hai đứa trẻ con hư hỏng. Sáu trong tám người con của ông bà Lê, thấy gương xấu của cha mẹ, nên tránh được những cãi vã, hục hặc không đáng có trong gia đình, và đời sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Hai trong số những người con đó, biết những khuyết điểm của cha mẹ, nhưng gương xấu như đi vào tiềm thức, rồi họ cũng hành động y như cha mẹ. Cứ tranh hơn thua, cãi vã với người hôn phối, nói những lời đau độc, và gây bất hòa trong gia đình, mà chính họ cũng không thấy.
Mọi người đều bảo rằng, đáng ra hai ông bà phải hạnh phúc sung sướng vô cùng trong tuổi già, vì con cháu đều sung túc, học hành giỏi giang, hai ông bà lại có sức khỏe, ít đau yếu bệnh hoạn, không phải lo cơm áo hàng ngày. Sướng mà không biết sướng, gây đau khổ cho mình, cho người bạn đời mình. Làm hư hỏng cả ngày tháng trời cho, khi tuổi trẻ cũng như trong tuổi già. Đời sống hai cụ có còn được bao lâu nữa, mà tranh hơn thua nhau, hơn cũng không được gì, mà thua cũng chẳng mất gì, thế mà cứ làm cuộc trường kỳ kháng chiến. Mỗi ngày khẩu pháo vào mặt nhau những lời khó nghe, gây đau đớn, bực mình cho nhau. Những người con cụ, cũng tiếc trong tuổi thơ đã mất đi không khí ấm cúng hòa thuận của cha mẹ, và mất đi cả tuổi thơ quý báu. Riêng hai cụ, thì không ai khuyên được, và tự xem như cái nghiệp phải trả. Một đứa cháu lớn, cho rằng, không có cái ‘nghiệp’ nào cả, chỉ có mối sân si trong lòng hai ông bà quá lớn, và nói cho đúng hơn, hai ông bà tuy trọng tuổi, nhưng thiếu hiểu biết về phương sách xây dựng hạnh phúc gia đình.
Tuy thế, hai ông bà vẫn thường lấy lời khôn khéo dạy cách sống cho vợ chồng ông Thu, một người cháu kêu ông bằng chú. Ông Thu nhờ mở được cơ sở thương mại làm ăn khấm khá, tiền bạc dồi dào, ba đứa con đều học giỏi, được vào những lớp học sinh đặc biệt xuất sắc. Tiền bạc thì nhiều, nhưng gia đình không có hạnh phúc, vì bà Thu hay ghen tuông vô lý. Bà luôn hăm he li dị, và kể lể những tội lỗi mà ông Thu không hề có. Ông Thu thường nói với vợ: “ Em xem, anh bận làm ăn đến thế đó, mỗi ngày không đủ thì giờ giải quyết công chuyện, đêm về không có thì giờ giúp con học hành, lấy đâu ra thì giờ khác để nghĩ đến những chuyện cô nầy với bà kia. Vã lại, lấy nhau bao nhiêu năm nay, em đã thấy anh có khi nào có không chung thủy chưa?” Nhưng bà Thu vẫn cứ ghen, vẫn cứ nghi ngờ, và dằn vặt ông, làm cho gia đình thêm khó khăn rắc rối. Bà Thu ghen với cả anh em họ hàng nhà ông Thu. Thấy ông Thu nói chuyện thân mật vui vẻ với các ông anh ruột, bà Thu cũng không chịu nổi, và tìm cách phân li họ. Bà còn tìm cách làm cho bà con bên ông Thu xa lánh ông. Nhưng ông Thu lại là người mang nặng tình gia đình, tha thiết với anh em bà con. Vì chị ông Thu đã thay mẹ nuôi nấng chăm sóc ông từ tuổi nhỏ. Những lần có cúng giỗ bên gia đình ông Thu, thì bà Thu cố trì hoãn, cố làm khó khăn, hoặc đến thật trẻ, và khi chưa ăn uống xong đã đòi ra về. Thái độ của bà Thu làm anh em bên chồng càng bực bội và ghét ra mặt. Nhiều khi bà Thu giả bệnh để ngăn cản không cho ông Thu đi thăm bà con của ông. Bà thường nói: “ Tôi bệnh, đau đớn, cần có anh bên cạnh, mà anh bỏ tôi đi thăm người khác, anh có thương vợ con đâu.” Thế là ông Thu phải bỏ chương trình đi thăm anh em ruột thịt. Có thời bà Thu cấm những đứa con liên lạc với bà con bên nội, không cho chúng gặp nhau, không cho nói chuyện qua điện thoại. Những đứa con bà dần dà thấy xa cách, lạt lẽo với bà con họ hàng bên nội. Bà Thu chìm đắm trong những cơn ghen tuông vô lý. Có người khuyên ông Thu đem bà đến các bác sĩ tâm lý để trị liệu. Ban đầu bà không chịu đi, vì bà không có bệnh hoạn, và không có vấn đề chi cả, nhưng về sau ông áp lực và hăm dọa, bà Thu đi gặp bác sĩ tâm lý. Khi gặp bác sĩ, bà thao thao bất tuyệt về tâm lý, về phương cách làm sao để giữ hạnh phúc gia đình, làm sao cho được chồng thương, dạy con, xử thế. Bà nói đến nỗi ông bác sĩ tâm lý phải cắt ngang lời bà: “ Bà sành về môn tâm lý quá rồi, tôi không còn điều gì để có thể nói với bà cả. Tôi chỉ có thể cho bà một toa thuốc uống mỗi ngày, để làm cho bớt chất kích thích tố tạo ra cái ghen, làm khổ riêng cho bà, và làm khổ cho ông nhà”. Bà Thu cười ha hả trả lời: “ Nầy ông bác sĩ, chính ông mới cần uống thuốc đó hơn tôi, người ta đồn rằng ông ghen mà đánh vợ, bị cảnh sát còng tay, có không?”. Ông bác sĩ chịu thua.
Chị bà Thu thường nói với bà rằng: “Người khác trong hoàn cảnh của em, thì gia đình hạnh phúc, đời sống sung sướng tuyệt vời, em đã phụ lòng trời đất, tự phá hủy cái phước hạnh trời ban cho em. Em cứ đem so sánh với gia đình của chị, chị thua em đủ thứ, ông chồng không giỏi, không hiền bằng chồng em, lại còn ưa nhậu nhẹt bạn bè, con cái chị cũng không học hành xuất sắc như con em, tiền bạc của chị cũng vất vả, thế mà gia đình chị vui sướng, hạnh phúc tràn đầy, chồng vợ vui vẻ, sống trong êm ấm thuận hòa. Em có tất cả mà em không thấy, không hoan hỉ đón nhận. Tất cả khổ đau, là chính do em gây ra. May mà chồng em là người có tình nghĩa, chứ người khác, thì họ đã li dị cho đời bớt khổ, rồi tất cả thiệt thòi em gánh chứ ai.” Bà Thu nghe người chị nói rất có lý, có tình, bà cũng rất muốn thực hành theo lời chị khuyên, nhưng không thể nào dẹp được cơn ghen nó âm ỉ ngày đêm đốt cháy trong lòng. Bà tiếp tục gây khó khăn rắc rối cho ông chồng. Rồi một hôm, đang ngồi xem truyền hình, ông Thu duỗi dài trên ghế bành, mắt nhắm như ngủ. Đến khuya, con ông tắt truyền hình, đánh thức ông dậy để vào giường ngủ, thì ông đã chết từ lúc nào không ai biết. Ông Thu bị dồn máu cơ tim mà chết. Bà Thu đau đớn, và chợt biết mình đã mất tất cả. Trong tang lễ, bà chị ông Thu cay đắng chỉ mặt bà Thu khóc mà xỉ vả: “ Cô giết em tôi, giết nó chết từ mấy chục năm nay rồi, không phải bây giờ cậu ấy mới chết. Không chừng chết đi, cậu còn sung sướng hơn là sống mà bị cô dằn vặt hành hạ.” Bà Thu biết, tất cả đã muộn màng rồi, đáng ra bà đem phải lại cho chồng niềm an ủi dịu dàng, hơi ấm của gia đình, nhưng bà chỉ biết dày vò, cẳn nhẳn, khóc lóc và làm khổ ông một đời. Bây giờ, thiếu ông, bà mới chợt thấy khủng khiếp khi nhìn vào bao khó khăn của tương lai đang chờ đón.
Bà Thu chơi thân với bà Sa, bà Sa thường ao ước chồng của bà có được một phần nhỏ dịu dàng, rộng lượng nhân từ như ông Thu. Hai bà thường tâm sự về chuyện gia đình, vì cả hai đều cảm thấy bất hạnh, dù mỗi người mỗi hoàn cảnh, không ai giống ai. Bà Sa trong quá khứ đã phạm phải một lầm lỗi, ông chồng không khoan thứ. Nhưng hai người vì thương con, vì tương lai của đàn con, nên không quyết định xa nhau. Sống với nhau trong một căn nhà, ăn chung nhau cùng mâm cơm, mà hai người không bao giờ nói với nhau một câu nào tư mười mấy năm qua. Khi có chuyện cần nói lại với nhau, hai vợ chồng bà Sa phải nhắn qua mấy đứa con. Bà biết bà có lỗi, bà biết ông không khoan thứ được cho bà, vì ngày xưa tình nghĩa hai người quá vun đầy. Bà cũng không dám mong ông tha thứ và quên cái lầm lỗi tày trời của bà. Ông thì tấm lòng cứng như núi đá, không ai lay chuyển được. Trong một căn nhà mà tình cảm băng giá lạnh lùng. Hai cô con gái lớn đều có nhan sắc, nhiều bạn trai muốn làm quen, muốn lui tới, nhưng chính hai cô thấy khiếp sợ, và hãi hùng vì cho rằng đời sống gia đình là bất hạnh, là khủng khiếp, không dám bước chân vào. Gia đình bà Sa khuyên bà nên chấm dứt đời sống lạnh lùng khủng khiếp đó, thà sống một mình, mà thấy có tự do, có thong thả, và dễ chịu hơn. Bà Sa cũng thấy được điều đó, nhưng không đủ can đảm để đi đến quyết định dứt khoát. Anh em của chồng bà Sa, cũng khuyên ông rằng, chuyện gì cũng tha thứ được, con người ai cũng có lúc yếu đuối sa ngã. Ai cũng có lúc thiếu sáng suốt, nhưng nếu sau đó, biết tìm đường sáng mà đi, thì phải mở đường cho người ta tới. Nếu không tha thứ được, thì phải dứt khoát bỏ nhau, dây dưa với nhau làm chi, cho khổ đời nhau, cho ngày tháng thêm phí phạm. Hai vợ chồng bà Sa như quanh năm chìm trong mùa đông bắc cực. Trong nhà không có tiếng cười chung ròn rã. Những nụ cười xô lệch, gượng gạo và che dấu nhau. Trong nhà lúc nào cũng thầm lặng như có tang. Những tia nhìn của ông bà không chiếu thẳng vào nhau. Hai người sống gượng gạo với nhau, và nghĩ là vì hạnh phúc của đàn con. Nhưng đàn con cũng không tìm thấy được hạnh phúc nào dưới mái gia đình đông giá đó.
Bên cạnh nhà bà Sa, là gia đình ông Nam. Ông bà Nam là hai người linh hoạt, vui vẻ, bà con láng giềng đều thương mến. Hai người rộng rãi, tốt, khi nào cũng sẵn lòng giúp đỡ người quen biết trong xóm. Một hôm, bà Nam báo cho bà Sa biết là sẽ bỏ gia đình, qua Pháp sống. Bà Sa tưởng bà Nam bỏ chồng đi theo tiếng gọi của tình yêu, vội vã can dán, bảo rằng; “Người nào cũng đã lớn tuổi rồi, mà phải làm lại cuộc đời từ đầu, cũng là vô cùng khó khăn và mệt nhọc. Chắc chi cuộc tình duyên mới êm đềm và hạnh phúc bằng đời sống hiện tại. Ngay cả khi đang còn son trẻ, mà phải làm lại từ đầu, cũng đã mệt lắm. Những quyết định lấy từ sự rung động của con tim thường hay sai lạc rất xa với sư thực.” Bà Sa khuyên bà Nam hãy nghĩ thật kỹ, rồi hãy hành động. Bà Nam thì nói rằng, vì chồng không thương bà nữa, thì bà đi, bà không thể chịu được nhục nhã, hạ mình xuống để xin ai tình thương. Ông Nam thì không hiểu tại sao vợ nói như vậy, vì trong lòng ông khi nào cũng như khi nào, và công cũng chưa làm điều gì trái với đạo vợ chồng. Ông dỗ dành, năn nỉ bà, nhưng bà cứ khăng khăng nhất quyết đòi bỏ ông mà ra đi. Ông không nghĩ bà bỏ ông để theo ai, vì có lẽ chẳng ai còn muốn thấy một vẻ đẹp của một thân thể lắm thịt nhiều chất mỡ, chất béo của bà. Cái vòng bụng lấn lướt hẳn cái vòng ngực, và cái vòng mông thì nổi loạn bành trướng rất vô trật tự. Đôi má chảy xệ, hằn lên những nếp nhăn như vùng địa chấn, thì cũng không là nét đẹp mà người đời ưa chuộng. Ông Nam cũng không tin rằng, bà bỏ ông đi vì khả năng sinh dục của ông càng ngày càng suy đồi, không còn được như xưa, và vì chính bà cũng không còn nồng nàn trong việc chăm gối nữa. Đó là chuyện bình thường của người lớn tuổi. Ông yêu cầu bà chứng minh, và nói cho ông biết những sai sót nào của ông làm cho bà có những ý nghĩ đó. Bà chỉ nói mơ hồ, không căn cứ, và nhất quyết bỏ qua Pháp sống với người cháu. Bà giao hết nhà cửa, tài sản cho ông, ra đi hai tay không, chỉ yêu cầu ông phải gởi cho bà mỗi tháng một ngàn đồng để sinh sống. Ông Nam nhờ bạn bè khuyên bảo, và tìm hiểu, nhưng không ai lay chuyển quyết định muốn ra đi của bà. Các con bà khóc lóc, van nài và có đứa giận bà. Cuối cùng ông Nam bằng lòng cho bà ra đi, xem như bà đi thay đổi không khí một thời gian, ông dặn bà khi nào chán ngán thì trở về, cửa nhà luôn luôn mở rộng. Bà qua Pháp ở với người cháu ba tháng, thì chán ngán quay về lại Mỹ. Về Mỹ, bà thuê nhà ở riêng, gần khu nhà ông và các con. Thỉnh thoảng ông cũng đến thăm viếng, và buồn không biết vì sao bà vợ trở chứng, chướng kỳ. Rồi bà Nam tính chuyện về lại Việt Nam sống trong tuổi già, tuy không còn nhiều bà con, nhưng bà tin là sẽ tìm được nguồn an ủi và ấm áp của quê hương. Bà lấy hai mươi lăm ngàn tiền tiết kiệm, về mua một căn nhà ở Biên Hòa, sống ở đó. Về quê hương, bà không đi chơi, không thăm thú ai cả, ai đến thăm thì bà tiếp. Chỉ hơn một năm sau, bà trở về lại Mỹ. Lý do là bà con xa gần tưởng bà giàu có bạc triệu, đến xin tiền mãi. Người thì xin vài trăm đô vì con đau cần trả tiền bệnh viện, người thì để sửa lại căn nhà bị dột nát, người khác nữa thì để kiếm chút vốn làm ăn, không cho thì không được, chẳng yên lòng, mà cho mãi thì không có tiền. Bị vòi vĩnh nhiều quá, bà không chịu nổi, phải thuê người canh giữ căn nhà, dọn về lại Mỹ ở. Ông Nam lại phải thuê nhà riêng cho bà, và hàng tháng đưa tiền cho bà chi tiêu sinh sống. Ông Nam khổ tâm lắm, nhưng không lẽ đem ra tòa ly dị, cho con cái buồn, mà cũng không giải quyết được việc gì cả.
Có rất nhiều người tự làm khổ mình, khổ gia đình, mà không vì một lý do chính đáng nào cả. Họ đã tự hủy hoại thời gian sống mà trời dành cho họ, phung phí cái tài sản quý báu, thiêng liêng trời cho. Ông trời rất công bằng, cho mỗi người trên dưới trăm năm để sống, mục đích chính yếu của cuộc đời là đi tìm hạnh phúc riêng cho mình, cho gia đình. Làm ra tiền, cũng chỉ để mưu cầu hạnh phúc. Danh vọng lớn cũng không ngoài tâm ý hướng về hạnh phúc. Nhưng nếu đời sống thiếu hạnh phúc, thì tiền tài bạc tỷ, danh vọng ngút trời cũng không là ý nghĩa gì cả. Hạnh phúc khó mua được bằng tiền bạc. Hạnh phúc có thể tìm ra dễ dàng khi lòng mình biết đủ, biết chấp nhận cái tương đối của cuộc đời, biết đếm cái đang có, không đếm cái chưa có, và không đứng núi nầy nhìn cái lóng lánh màu sắc của núi bên kia.
Tràm Cà Mau
Thương Chùm Hoa Khế.
Ông cụ Hồi mở cửa tiễn khách. Cũng là bạn hàng xóm thôi, nhưng gần nhà mà xa cửa ngõ. Hai khu vườn đâu lưng, cửa ngõ thì nằm ở hai con đường khác, đi bộ cũng mất mười lăm phút.
"Bác về nghe. Rảnh sang chơi."
"Lóng rày hai cái chưn yếu lắm rồi bác. Muốn nhờ con cháu nó đưa đi thì sợ phiền bác ơi. Mình qua đây nó khác bển nhiều lắm."
"Biết."
Ông cụ Hồi cười buồn. Điều này thì ông hiểu sâu đậm lắm rồi. Mà đâu phải bây giờ, cách đây mười năm trước, khi còn bà, cả hai đều khoẻ, họ cùng đi tập thể dục ở một câu lạc bộ của người Mỹ nhưng có rất đông người Việt Nam.
Hồi đó ông còn lái xe được, chớ bây giờ, hai chưn của ông có khá gì hơn ông bạn. Hồi đó, ở chỗ tập, bạn già hay tâm sự với nhau:
"Tui hồi mới qua, làm việc như trâu để mua cái nhà cho lớn, nhiều phòng cho các con ở. Vậy mà thoáng cái, chúng nó đi hết trơn, hai vợ chồng tui thu dọn chết luôn."
"Sao không bán đi, kiếm cái nho nhỏ mà ở."
"Nhiều lúc cũng nghĩ vậy. Nhưng hổng có chỗ thì tụi nó không về. Lâu lâu tụi nó về thăm, dẫn thêm cháu vui nhà vui cửa lắm. Tụi nó đi đâu, đem sấp nhỏ về gửi, mình được coi cháu."
Lại khoe con, khoe cháu:
"Mấy đứa nhỏ qua Mỹ mà không nhiễm Mỹ chút nào hết trơn. Ôi thôi, đi lấy chồng lấy vợ, tuần nào cũng về, mua sắm đổ đi hổng hết. Tôi cứ phải ngăn, chửi tụi nó hoài."
Chắc không? Chưa nhiễm chớ đâu phải là không nhiễm. Ông cụ Hồ nghĩ trong lòng vậy.
"Con cháu ngoại của tui mới hết xẩy. Nói tiếng Mỹ như gió. Dễ thương lắm kìa, nói chuyện với ông ngoại thì nói tiếng Việt, quay sang ba nó thì nói tiếng Mỹ ào ào. Giỏi quá."
Bà muốn khoe bà có rể ngoại quốc.
Cũng ông bà già đó, chừng ba năm sau gặp lại thấy khác hẳn. Hôm xưa ông mập mạp, mặt đỏ như quan công, râu dài và mướt như Lưu Bị, bây giờ choắt lại, xanh xao. Còn bà, già nhanh không tưởng được. Nhớ tuổi thì chưa tới bảy mươi mà tiều tuỵ, còm cõi như bà cụ trên chín mươi sắp xuống lổ.
Nụ cười tươi tắn hãnh diện về con cháu đâu mất rồi.
Hỏi thăm. Nhà sang tên cho thằng con để nó trả phụ tiền nhà. Con vợ lộng quá, em út văng ra hết. Rồi đứa dọn ra, tách rời. Ông bà nhớ con nhớ cháu, lặn lội đi thăm. Lũ cháu lớn lên không dễ thương như khi còn nhỏ. Bà sụt sùi:
"Mình nói gì nó cũng hổng hiểu. Nó nói gì mình cũng hổng hiểu. Miết rồi còn hơn người dưng xa lạ."
"Bác ơi, tụi nó bận chết bỏ. Mình tới, nó đón về rồi mạnh chồng chồng đi, mạnh vợ vợ đi, trẻ con thì đi học. Bác biết hôn, tụi nhỏ hễ về tới chẳng chào hỏi ai, rút vô phòng, mở nhạc, điếc tai nhức óc..."
Ông cụ nuốt nước miếng. Già, miệng mau khô lắm, làm như phải nuốt nuốt liên tục:
"Vậy là chóc ngóc hai ông bà già ở nhà, riết rồi lo cơm nước cho chúng mà..."
Bà cụ nói hớt:
"Mà cũng hổng yên với chúng bác ơi. Mấy đứa cháu chê nấu nướng kiểu Việt Nam hôi nhà hôi cửa, nhăn nhăn nhó nhó làm mình tủi lắm kìa."
"Vậy chúng có ăn hôn?"
"Ăn chớ sao không ăn, nhưng cằn nhằn chê thì cứ chê. Buồn trong bụng lắm, bác."
Ông cụ thở ra một hơi dài mà làm như nỗi ấm ức còn nhiều lắm, nặng lắm, hổng ra hết.
"Hai vợ chồng tui giờ thuê một phòng gần phố Bolsa ở, ngay góc chợ, bà già đi bộ ra mua đồ ăn về, hai ông bà già hẩm hiu với nhau, còn đỡ. Bà chủ nhà goá chồng, còn trẻ, nhưng thông cảm lắm, cho mượn bếp nấu nướng. Mai mốt tui đi trước hay bả đi trước, còn lại một đứa già mới là khổ hết biết, bác."
Bà cụ lau nước mắt. Đàn bà dễ khóc mà.
"Bởi, mình bỏ quê, bỏ nhà bỏ cửa qua đây là hy sinh nhiều lắm, cũng vì nghĩ tới sấp nhỏ mà thôi..."
Ông cụ gạt phăng:
"Bà nữa. Mình xong bổn phận làm cha làm mẹ rồi, nước mắt chảy xuống có bao giờ chảy trở ngược chưa? Thấy con đứa nào cũng nên thân là mình yên tâm nhắm mắt mắt được.
Bà à nhe, bà muốn gì nữa, lúc nào bà cũng có tui một bên..."
Lâu rồi, cụ Hồi không còn gặp ông bà già này nữa. Họ còn không? Chết? Có lẻ đôi? Ra sao rồi. Ông vẫn hay thắc mắc.
Ông già hàng xóm đã đi được một chặng đường. Ông già cũng lẻ bạn, như ông cụ Hồi, lẻ bạn. Tội nghiệp, đi thui thủi một mình. Kìa, sao lại băng ngang đường. Muốn tới cái công viên ngồi nữa sao? Dư thì giờ vậy, không ở lại chơi thêm, thiếu gì chuyện để nói. Hồi nãy cũng có cầm chưn:
"Còn sớm mà bác, ở chơi một lúc."
"Bữa khác bác. Bữa nay..."
À, thì ra bữa nay tới công viên nữa. Ở đó, có vài ông già ngồi, có vài đứa con nít chơi. Ông bạn già này thèm nhìn con nít. Ổng đâu có thiếu cháu nội cháu ngoại chớ, nhưng ông lại ở với thằng con trai có vợ không sanh con, hai vợ chồng nuôi đến bốn con chó đủ giống trong nhà. Ông cụ nói:
"Ôi thôi, hai đứa nó cưng bốn con chó, chắc con đẻ cũng cưng tới vậy thôi bác ơi. Tui nhớ lũ cháu mà chịu, tụi ở xa quá. Gọi điện thoại có khi nào được nói chuyện với tụi cháu đâu, làm như tụi nó hổng biết mình là ai."
"Thì tại bác hổng đi thăm tụi nó. Thời này, mua một cái vé máy bay, chỗ nào hổng tới được."
"Tui, hổng tới được thiệt đó bác. Tiền già lãnh, tháng nào cũng chia cho hai đứa con còn ở Việt Nam. Tụi nó khổ lắm. Nè bác, bển tui cũng có cháu nội, cháu ngoại. Tụi nó năm nào cũng gửi hình qua, coi ngộ lắm."
Ông cụ mở cái ví luôn luôn sau túi quần, lôi ra mấy tấm ảnh con nít.
"Bác thấy hôn. Tụi nó có tình nghĩa lắm kìa. Đứa nào cũng đề sau ảnh, chắc con mẹ hay thằng cha nó cầm tay cho viết, nè, bác coi..."
Sau mấy tấm ảnh, tấm thì đề cháu nhớ ông ngoại lắm, tấm thì ông nội ơi, cháu thương ông nội nhất đời. Trong khi ông cụ Hồi lấy kính, lau cho sạch để đọc thì ông bạn già rơm rớm nước mắt.
"Nhớ sao hổng mua vé về. Lóng rày người ta về hà rầm, sợ thằng tây đen nào chớ."
"Tui cũng hổng về được. Bác nghĩ coi, có mấy trăm bạc, nhớ con nhớ cháu cứ gọi về Việt Nam, phải chia cái biu điện thoại để khỏi nghe con dâu cằn nhằn, nựng chó mà chửi mình. Còn lại, gửi cho hai đứa, nuôi mấy đứa cháu ở bển ăn học."
Ông cụ Hồi lắc đầu, nghĩ trong lòng mà không nói ra miệng. Hèn chi. Ông bạn già đời rồi mà vẫn còn ngây thơ, bị phỉnh như thường. Cũng còn đỡ, con cháu nó phỉnh chớ ai vô đó.
Ông cụ Hồi trở vô. Căn nhà vắng như chùa bà Đanh. Chùa bà Đanh vắng như thế nào, ông cụ chỉ nghe câu nói trong nhân gian đó thôi, chớ cái nhà của cụ đang ở vắng thì buồn khủng khiếp lắm. Có bà bạn già, ở goá hồi còn trẻ kìa, có bữa gặp trong đám ma một người trong họ, mừng lắm:
"Mèn ơi, lâu ơi là lâu, hổng thấy bác đâu..."
Sao thấy được. May đám bà con trong họ, thằng con mới lấy ngày nghỉ, đưa đi. Mà cũng bỏ ông ở đây rồi dọt lẹ, hẹn giờ tới đón. Chuyện qua chuyện về, người sống sắp hết đời rồi thì còn chi vui nữa. Bà bạn:
"Tui nghĩ cho cùng mình cũng hổng nên trách ai mà trách mình là một gánh nặng cho con cái. Cũng may mình biết phòng thân bác ơi. Giờ còn chút tiền gửi nhà băng, lấy ra xài dần.
Tui vô chùa ở với mấy bà bạn già, làm công quả, sớm tối kinh kệ, ngày qua mau lắm."
"Thấy chị thong thả, phẻ phắn quá, tui ham."
"Ý cha, già rồi mà ăn nói vô ý vô tứ quá vậy. Còn ham kí gì nữa mà ham chớ. Ông cười gượng gạo.
"Xin lỗi, già rồi, lẩm cẩm phải hôn. Tui muốn nói thấy chị... tiếng Phật nói là gì đó, à từ bi tự tại, thấy chị hổng lý chuyện đời nên mặt ít nhăn, còn tui, giống trái cau khô không chị."
Bà già cười. Ông bạn chồng này, thủa xa xưa cũng một thời, nghe đâu có nhiều hồng nhan tri kỷ, cũng làm khổ đờn bà không ít.
"Bác cũng nên đi chùa mà rửa nghiệp rồi mới đi thong thả."
"Được như chị thì phúc rồi. Tui hoàn cảnh khác, chị ơi."
"Biết. Lúc đầu tui cũng đeo con đeo cháu mà không nghĩ ra là đến một lúc nào đó, con cháu nó hết cần mình nên khổ hoài. Mèn ơi, cả ngày ở trong căn nhà rộng, đi ra đi vô, tủi thân khóc ơi là khóc. Cũng may tui "ngộ" sớm... Bữa nào rảnh, bác tới chùa chơi, hổng phải chỉ có người già không đâu, mà mấy cô tre trẻ cũng tới tu, thương nhau và giúp đỡ nhau, như một gia đình."
Ông có hứa. Nhưng không đến thăm bà bạn già được. Bữa đó, bà bạn già, cũng còn giữ được tính nghịch ngợm thời trẻ, nhắc tới một hai hồng nhan tri kỷ trước đây của ông. Còn đẹp còn xấu gì nữa, tất cả đã già. Ông cũng không hề nghĩ là tìm dịp gặp lại, kể cả nếu nghe tin đám ma, chắc cũng hổng nên tới thắp nhang. Đến tro cốt của bà vợ để trên chùa, thằng con nghĩ tới đưa đi thăm thì ông tới thắp nhang, còn không thì thôi, đâu dám nhắc, sợ làm phiền.
Nếu căn nhà trống vắng này mà có chút tro cốt của bà, hay cái bàn thờ để ông hương khói cũng còn ấm áp chút đỉnh.
"Sấp nhỏ chúng nó không chịu được mùi nhang, với lại nhà có cái phòng khách nhỏ xíu, bày bàn thờ trông kỳ cục lắm. Thôi đem má lên chùa, con sẽ chở ba đi thăm, má ở chùa nghe kinh mới sớm siêu thoát. Để ở nhà, ba nhớ, sanh bệnh, khổ."
Ứa lệ mà chùi lén. Ông có một phòng nhỏ, ngăn bớt ở garage ba xe. Chỉ kê được cái giường, cái bàn nhỏ xíu còn chừa cho lối đi. Ông để cái ảnh nhỏ của bà lên bàn. Lúc đầu ông có cái bát nhang. Nhưng thằng con lại nói:
"Ba cứ đốt nhang khói um sùm. Phòng ba gần máy ga, máy nước nóng. Ba hay quên, dễ cháy nhà lắm. Để con mua cây nhang điện về cho ba, cháy đỏ ngày đêm như ngọn đèn, ha ba. Ba thấy hợp lý không ba?"
Nói thì vậy, nhưng mấy năm rồi, thằng con chưa mua. Ông cũng không nhắc. Bà chết rồi, thôi ông cứ khấn nguyện trong lòng cũng được.
Ông cụ nhà đâu vườn mà có phúc hơn mình. Còn hai ba đứa con ở quê nhà mà lo. Còn lũ cháu chưa biết mặt, phỉnh cho mà khoái. Chớ ông, đã đem hết các con qua đây, bây giờ chúng nó đã dọn mỗi đứa một nơi. Lúc còn khoẻ, ông cũng đã tới ở với từng đứa. Cũng được tiếp đón, nhưng đó là lúc ban đầu.
Sau cùng, ông thấy không phải con ông tệ, mà ông không còn là một người cha nhanh nhẹn, tháo vát nuôi các con mà chỉ là một gánh nặng. Mà hai vợ chồng thằng con này thì muốn giữ ông, cũng vì lớn nhất, còn vướng chữ hiếu khó rũ bỏ.
Ông cụ Hồi đi ra đi vô. Vườn tược ông đã chăm xong. Bởi ông ít ngủ, dậy từ sáng sớm là ra vườn. Ông còn phải chăm hay cây mà bà vợ, lúc còn sống nưng niu nhứt. Đó là một cây khế và một cây nhãn Việt Nam. Bà nói:
"Thấy người ta trồng thì ham, tui cũng muốn trồng. Nhưng tui biết, tui hổng đợi được thấy nó lớn, có trái đâu. Lâu lắm."
Phải. Bây giờ cây nào cũng có hoa có trái, còn bà, xương cũng không còn, chỉ còn nhúm tro.
Cũng không phải nhà vắng rồi cứ đi ra đi vô hoài đâu. Sáng sớm, hai đứa cháu ăn sáng xong, vội vã đi học. Còn đống chén đĩa ở bếp, ông phải thu dọn dùm chúng. Gì nữa, à nhớ ra, sáng đứa con dâu dặn:
"Ba, con giặt quần áo mà không sấy kịp. Ở nhà, ba bỏ qua máy sấy dùm con chút, được không?"
"Ườm."
"Chết cha. Thùng rác chưa lôi ra... Trễ giờ rồi, con phải đi... Ba đem ra giùm, được không?"
Lúc nào cũng hỏi câu được không làm gì chớ. Bắt buộc là phải được. Việc kéo thùng rác nặng nhọc, cứ đến ngày, ông cụ còn ì à ì ạch kéo ra đường, tối lấy thùng vô. Thằng con trai có thấy, nhưng lơ đi. Ông cụ còn làm được để cho ông làm, giãn gân cốt, đỡ bệnh tật.
Đứa con dâu, lúc vắng mặt chồng quăng thúng đụng nia:
"Mệt ơi là mệt, đi làm cả ngày như trâu như chó, sao có những người sướng chỉ ăn không ngồi rồi."
Nói trống lổng thôi, đâu chỉ ai. Ông cụ Hồi đắng cả họng.
Làm xong thì tới trưa trợt. Lại thêm một chuyện tệ hại. Đã dặn sáng ra lấy cục thịt đông lạnh trong tủ đá ra ngoài để trưa kho rim mặn ăn với cháo. Đã nói già, lẩm cẩm, quên. Ông đành làm một tô mì gói. Ăn xong, ông vô phòng. Ngồi trên cái giường nhỏ, ông nhìn ảnh bà vợ. Tấm ảnh chụp lúc bà lớn tuổi rồi, mới nhìn tưởng con mắt nheo nheo ngó nhưng kỳ thực không phải, đuôi mắt bà xếp nếp nhiều quá nên tưởng vậy. Thì cũng là nét duyên của người già.
"Bà à, cây khế mùa nào cũng có hoa. Hoa khế đẹp lắm, tui biết bà rất thích, mai mốt..."
Phải rồi, mai mốt tới xuân, có hoa khế. Ông phải nhớ ngắt một chùm để trên cái dĩa, trước tấm ảnh của bà. Bữa nay ra vườn, thấy cây khế trơ trụi lá mà đã có những chồi non muốn nhú lên. Khi đông tàn, loại cây này nó vậy.
Nhớ mùa xuân ở quê nhà, trong dĩ vãng xa, nụ cười của bà bên cây khế sau vườn nhà đâu có vậy, đẹp lắm kìa. Hồi đó, ông còn là một chàng trai trẻ, thường nhìn trộm qua vườn bên cạnh... Vậy mà mấy chục năm qua cái vèo. Chuyện gì cũng đã quên tuốt luốt hết, chỉ có một chuyện nhớ.
Nhớ hoài, là bữa hẹn tân niên. Mùa Xuân. Buổi trưa yên ắng. Dưới gốc khế sau vườn nhà nàng. Cũng chỉ vì đôi môi chúm chím, còn ngậm chùm hoa khế làm duyên. Cầm lòng chẳng đậu. Vậy mà lỡ cho lỡ luôn. Nào dè, chưa kịp hoàn hồn, bỗng thấy tiếng chân đi nặng nề. Rồi ông già nàng cầm cái rựa xông tới. Lạ thật, lúc đó trời sập cũng hổng biết chớ đừng nói, vậy mà nàng thấy kịp, vùng đẩy ông bật dậy.
Thế là tá hoả, cũng không biết lúc đó làm sao chàng thanh niên có thể nhảy bay qua hàng rào mà về vườn nhà mình. Chuyện đâu dừng ở đó, cái bụng nàng chình ình ra, rồi đám cưới. Đứa con đúc có một lần dính liền là thằng con lớn bây giờ. Bà vợ từ trẻ tới già, vẫn lãng mạn kiểu vườn, ở đâu cũng muốn trồng một cây khế.
Đời người đàn ông kể cũng lạ. Biết bao người yêu qua đời, nhưng cuối cùng chỉ có một người đàn bà già nua, xấu xí nhứt thì vẫn mặn nồng bên cạnh. Đâu có ai hiểu lòng ông, dù bà còn nắm tro, ông vẫn thương, thương hoài thương huỷ.
* * *
Mấy bữa sau hai ông cụ bắt ghế nói chuyện với nhau qua bức tường ngăn vườn. Hai ông đứng ở khoảng tường thấp nhất, còn có bục xi măng chặn luống hoa, nên nhìn thấy mặt nhau.
"Mấy ngày rồi, tụi có bụng ngóng, hổng thấy bác ra vườn."
"Tui. Bị bận quá bác ơi, đi lo mấy thứ giấy tờ, rồi còn chích đủ thứ."
"Phải. Mùa này cúm dữ lắm. Tui cũng chưa đi chích vì thấy tụi nó hổng rảnh, mà cũng... sợ phiền."
Vậy đó, hồi còn nhỏ nhít, đang ăn chúng nó cũng phẹt phẹt ra, phải bỏ đũa dọn. Đang ngủ, chúng ọc sữa, đái dầm, phải thức giấc lo, khi mọc răng nóng đầu, khóc cả đêm không ai ngủ được, có làm phiền hôn chớ. Nhưng nói ra ngặt lắm, ai nuôi con mà kể công.
Ông cụ Hồi cũng vậy, nhắc bạn chớ ông cũng đã chích ngừa đâu. Năm ngoái có thằng cháu tới chở đi chích. Năm nay thằng cháu vô trường mới, ở xa, điện thoại hỏi thăm ông ngoại cũng thưa dần, rồi bặt. Hồi đó, ông hay khen có thằng cháu ngoại hiếu để biết thương ông, nay mới mắc cái quai sặc họng.
"Tui mà đi trước, ông khổ lắm ông biết hôn?"
Lúc còn sống, bà lo vậy, mà chắc lo cho tới khi nhắm mắt rồi có còn lo không đây. Bữa đám ma bà xong, cả tháng ông không ngủ, ngồi mở mắt trừng trừng. Đâu biết cái bà già ngắt, lẩm cẩm, suốt đời như cái gánh nặng đeo bên hông mà lại quan trọng đối với ông đến vậy.
"Bác thấy hôn, lật bật mà hết năm tới nơi rồi. Tui bữa nay ra coi lại hệ thống tưới tự động cho tụi nó rồi thôi, tui đi."
Giật mình. Lời nói như trối trăng. Ở tuổi này còn đi đâu chớ, nếu không phải về dưới? Nhưng ông bạn già nói tiếp:
"Tui về bển, bác."
"Bển."
"Phải. Đứa con gái đầu của tui bịnh nặng mà tụi nó giấu tui. Nghe nói không xong rồi mới báo cho biết. Thằng cháu ngoại gọi điện thoại qua, nghe giọng ông ngoại, khóc quá là khóc."
"Tội hôn."
Ông cụ Hồi hơi ân hận trong lòng, thì ra lâu nay, ông hiểu lầm nhiều quá.
Vẫn ông bạn:
"Mua vé lâu rồi, đang lo không ai giúp thì bữa có ông bạn già gọi điện thoại tới khoe um sùm là sắp về bển ăn Tết. Tui mới hỏi thăm, dò đường í mà. Thì ra, bây giờ dễ lắm, cứ lật tờ nhật trình ra là có số điện thoại để mình gọi, người ta đem xe đến tận nơi đưa mình đi. Vậy mà tui đi chích cúm, rồi đi chích các thứ thuốc ngừa. Bữa đi họ cũng đưa mình ra phi trường..."
Ông cụ Hồi buồn tênh. Sáng nào cũng có tờ báo Mỹ liệng trước sân, chính tay ông nhặt tờ báo vô nhà, nhưng chỉ nhìn được mấy tấm hình.
"Bữa mua vé nhờ thằng con, nhưng cứ nhờ hoài sợ phiền. Bây giờ biết rồi, phẻ quá bác ơi. Để bữa tui đi về, tui với bác biểu xe tới đón tụi mình ra Phước Lộc Thọ chơi, ở đó có mấy lão tướng, đấu với nhau suốt ngày, coi vui lắm."
"Ừm."
Cụ Hồi bần thần trong người, vụt miệng nói:
"Tui mà biết, tui cũng đi với bác. Sao bác hổng nói sớm?"
"Bác còn ai ở bển mà về chớ. Về bển, hỏi bạn cũ, muốn thăm đều phải ra nghĩa địa, họ nằm hết ở ngoải rồi. Còn đi đường thì sợ xanh mặt, xe cộ hồi đó đã ghê rồi, bi giờ còn ghê hơn, ổng hổng dám ra đường..."
"Bác về bển cũng cẩn thận."
Ông cụ Hồi nói cho có chuyện. Ông bạn già gật đầu:
"Tui cũng biết. Tui đâu có ở thành phố, bác. Về đến là tụi nó rước xuống Cần Thơ, ở dưới với con cháu, cũng hổng muốn đi đâu. Chơi? Có gì mà vui, mà chơi, bác."
Rồi kể:
"Nghe lóng này đường phố, xe cộ chạy như mắc cưởi mà người nào người đó đeo khẩu trang, nghĩa là khăn bịt mặt nên đi ra đường là như thấy toàn quân ăn cướp, ghê rợn lắm kìa."
"Thiệt sao?"
Ông cụ Hồi không tưởng tượng ra được. Ông bỗng hắt xì liên tục một hơi, nước mắt nước mũi ràn rụa.
"Thôi chết rồi, bác sắp cúm đó nha. Mặc thật ấm vào. Nhớ đi chích thuốc cúm, nhớ đó nha. Quên là nó vật mình toi củ tỏi luôn."
Ông cụ Hồi cảm thấy một luồng ớn lạnh chạy khắp thân, rồi dồn ở ngực, bắt muốn ho. Ông ho khục khặc.
"Vô nhà đi bác ơi. Vô đi. Tui cũng kiếu bác, bác ở lợi ăn Tết vui nhe. Tui còn lo đi một vài việc để về bển."
"Bác cho tui gửi lời hỏi thăm... hỏi thăm... ắt xì, ắt xì..."
Ông bạn già còn ráng đứng trên ghế chờ. Ông cụ Hồi hắt hơi xong thì mới chưng hửng. Đâu biết gửi lời thăm ai chớ. Ông lắc đầu:
"Thôi bác, chúc bác về bển gặp con cháu... vui."
"Chào. Ráng uống thuốc mau lành, bữa về gặp lợi."
Ông bạn già sẽ vắng mặt một tháng. Nhưng còn gặp lại nhau không, đó là chuyện của ngày mai, ai biết!
* * *
Lúc đầu chỉ vài cái hắt hơi, rồi ho. Ông cụ Hồi mỗi lần ho là gập người xuống, vì vậy, cái lưng càng còng hơn, càng gần mặt đất hơn.
"Đã nói nhắc con đưa đi chích cúm, hổng chịu nhắc. Bịnh vậy đâu có đi chích được. Chờ qua khỏi, con đưa ba đi chích. Nghe nói năm nay cúm độc lắm."
Ông cụ Hồi ầm ừ. Bữa sau, chắc con vợ tỉ tê sao đó, thằng con trước khi đi làm dặn:
"Ba à, ba đang cúm, đừng ở nhà trên nhiều, rồi lây hết cả nhà khổ lắm."
"Hổng phải tụi bây chích ngừa hết rồi sao?"
"Chích thì chích, cả trăm thứ cảm cúm, ngừa mấy thứ dữ thôi ba. Còn mấy đứa nhỏ đâu chịu chích, dễ lây lắm ba."
Đứa con nói đâu có gì sai. Nhưng cứ ru rú ở dưới garage, nằm hoài cũng thấy nhức đầu lắm. Thằng con có mua thuốc đầy đủ, còn dặn:
"Có cam vợ con mua để sẵn, ba vắt uống nhiều nhiều cho mau khoẻ. Ba nhớ uống thuốc."
Đứa con dâu, sáng, trước khi đi làm cũng ráng bắc một nồi cháo trắng. Cũng có một nồi thịt kho tiêu. Có sự săn sóc chớ đâu phải không, nhưng tình cảm thì thiếu nhiều lắm, nó nhạt nhẽo làm sao!
Qua chiều ngày thứ ba thì ông cụ Hồi sốt. Ăn cơm chiều xong, đứa con trai xuống thăm, thấy ông trùm mền kín mít thì hoảng:
"Ba sao vậy."
Đứa con lật chăn lên, sờ trán thấy trán cha nóng hổi.
"Ba có uống thuốc đều không đó. Chắc lúc nhớ lúc quên mới mau nặng vậy. Để sáng mai con đưa ba đi bác sĩ."
Con dâu và cháu không dám đến gần, sợ lây bệnh. Đứa con sợ cha buồn, bệnh nặng thêm, nên gượng gạo bảo con:
"Ông nội đau không đứa nào hỏi thăm một tiếng sao? Xuống thăm ông nội ngay."
Hai đứa cháu mặt mày cau có, đứng lấp ló ở cửa hỏi vọng vô, tiếng Việt bập bẹ:
"Ông nội, ông nội có khỏe khôn. Chào ông nội."
Vậy là biến. Ông cụ Hồi trong cơn sốt gần như mê sảng cũng nghe giọng hai đứa cháu, mừng đến ứa nước mắt.
Tối đó, hai vợ chồng gây gỗ nhau.
"Anh một vừa hai phải thôi nhe. Ba bịnh nặng như vậy mà bắt tụi nhỏ xuống thăm. Mai mốt ba lành, muốn thăm nhiêu không được. Cả nhà thi nhau bịnh nằm một đống, khi đó ai thăm hỏi ai cho biết."
Thằng con thấy vợ nói cũng phải, nhưng trong bụng đang tức. Công việc lu bu gì không đưa cha đi chích thuốc ngừa, lỡ có gì thì ân hận đến chết. Đời sống ở Mỹ này, đứng lại là thụt lùi, là thua kém, là nguy...
"Em cũng quá lắm, anh thì bận, em chẳng để ý gì đến ba."
"Nói vậy mà nghe được. Tui cũng đi làm như anh chứ ở nhà đi ra đi vô sao? Còn nữa, chợ búa, cơm nước, làm con sen ở nhà này là ai."
Thương ông già thì nổi cơn vậy, nhưng vợ lớn tiếng thì cũng phải nhịn. Đến đó thôi. Vừa đủ. Làm tới, nổ lớn.
"Nói nhỏ tiếng chút được hôn, thôi mình, bỏ qua."
Anh sợ sấp nhỏ nghe. Hai đứa con đứng về phe mẹ.
Chiều hôm sau, đứa con dâu đi làm về, chính tay nấu món cháo thịt bò bằm, chính tay bưng xuống cho bố chồng ăn. Chị hỏi thăm, có cười, nhưng nụ cười như mỗi lần phải xã giao, gượng gạo. Ông cụ Hồi đã có vẻ khá hơn, thấy không cần phải đưa đi bác sĩ khám. Anh tự hào với bạn bè là bố anh khoẻ mạnh, tuổi già mà ít làm phiền con cháu. Anh vui vẻ hứa:
"Vài bữa ba khoẻ con đưa ba đi chích cúm."
Ông cụ gật đầu, lòng vui, thấy cha con đã gần gũi quá. Nó đâu có gì chớ, có phải lâu nay ông đã hiểu lầm con?
Tối, ông cụ Hồi uống thuốc xong thì nằm nghỉ. Ông trôi vào giấc ngủ mau lắm, rồi thì có nhiều giấc mơ.
Giấc mơ đầu tiên, ông theo ông bạn già về Việt Nam. Thình lình thấy đứng trên đường phố có một mình, rồi ông thấy không biết bao nhiêu xe cộ ào ào nhắm ông mà phóng tới, người nào người nấy đều đeo khẩu trang màu đen. Ông la lên: "Cướp, cướp." Đám cướp nhảy xuống xe vây lấy ông, kê súng vào tai ông sẵn sàng bóp cò. Sợ quá, ông van lạy, nhưng xung quanh ông, tiếng cười man rợ cất lên. Ông hoảng hốt tỉnh dậy, mồ hôi toát ra và sự hoảng hốt kéo dài cho tới lúc ông chìm vào giấc ngủ khác...
Nhiều giấc mơ vụn vặt, nối tiếp không đầu không đuôi, cho tới gần sáng, giấc mơ sau cùng... Giấc mơ kéo ông về thời niên thiếu, cậu học sinh vườn yêu cô gái quê. Ông được sống lại cảm giác ân ái vụng trộm với cô gái vườn bên, cả cái cảm giác hãi hùng, muốn trốn thoát lúc nhảy qua hàng rào ngăn hai nhà lúc bị lộ chuyện. Khi không lại nhớ một chi tiết kỳ cục nhứt lúc đó mà chỉ có hai ông bà già biết, về già còn nhắc nhở... Ông cười nấc lên.
"Gì mà cười dữ vậy ông"
Chuyện hồi trai trẻ biến mất. Bà đã đứng bên cạnh. Ông nắm tay bà, vẫn nắm được. Vậy bà đâu đã chết.
"Tui cười vì nhớ lại cái chiện hồi đó, bữa dưới gốc cây khế."
"Khỉ. Già mà còn khỉ. Kỳ quá hà."
Bà vẫn còn bẽn lẽn, đỏ mặt. Khi bà đỏ mặt, những vết nhăn trên má hóp như có mờ bớt đi nên vẫn còn thấy duyên.
"Cây khế, cây khế có bông chưa. Tui nhớ nó lắm."
Ông cười:
"Trùi lũi hà. Làm gì có."
Tay bà giựt giựt trong tay ông, vẫn còn cái hơi ấm thuở nào.
"Ông nhớ đó nha, khi nào hoa khế nở, ông hái một chùm đem về dưới cho tui."
Bà cười. Hàm răng giả của bà đâu rồi mà cái miệng móm mém, trơ lợi, trông hết duyên nhưng hóm hỉnh, ngộ quá.
Chớp một cái, không thấy bà đâu nữa. Ông ra khỏi giấc mơ.
Mở mắt, trời mới mờ sáng, nhưng ông không thể ngủ tiếp được. Đầu óc cứ chờn vờn, lảng vảng bao nhiêu chuyện cũ, bao nhiêu kỷ niệm những ngày ở quê hương, từ lúc còn là cậu thiếu niên miệt vườn, cho tới lúc đưa vợ con lên tỉnh thành lập nghiệp. Một đời đủ chuyện, lúc lặng lúc sóng dồn biển dập, long đong cũng không ít.
Hai vợ chồng chống chỏi qua bao nhiêu cơn tưởng sạt nghiệp, hoặc tan vỡ gia đình. Lỗi cũng ở ông nhiều, cái số đào hoa, ra đường, người ta gặp, người ta thương, biết sao. Bà ghen tuông cũng dữ, tưởng mấy lần đứt gánh. Tội nghiệp, người thua thiệt, chịu đựng, nhịn nhục vẫn là bà, bởi thương con.
Biết bao đêm, ông bỏ nhà đi hoang, một mình bà lủi thủi với đàn con dại, ôm con mà nước mắt ướt mặt mũi. Gái thương chồng đang đông buổi chợ, trai thương vợ nắng quái chiều hôm. Mà nắng đã quái, đã xế đâu còn bao nhiêu, vậy mà bà lại bỏ đi trước.
Đến giờ đi làm, người con đứng ở cửa, hỏi:
"Ba sao rồi, thấy đỡ nhiều không?"
"Đỡ."
"Có gì ba gọi điện thoại sở con. Số điện thoại con ghi để sẵn bên máy."
Người con đi sau cùng. Nhà vắng ngắt. Ông thấy đến giờ uống thuốc, nhưng phải ăn chút gì, uống thuốc mà bụng đói nó cào chịu hổng thấu. Nhưng lạ, khi ông đứng dậy thì thấy choáng váng. Ông đưa tay ôm ngực, hai lồng ngực như đang bị xiết lại, trì nặng và nhịp tim đập tới tấp, loạn xạ.
Ông ngồi xuống giường, định thần lại. Nhưng thần trí ông bỗng lơ mơ. Điều ông muốn nghĩ thì nghĩ không ra, mà những ý nghĩ kỳ cục đâu đâu lại ào ào kéo tới. Cái đầu có vẻ chịu không thấu. Đâu chỉ đầu, cả cái ngực nữa. Có bàn tay ai đang bóp hai lá phổi của ông, kéo luôn mấy sợi gân đang co giật trong chân, trong tay. Phải chặn cái bàn tay quá đáng ấy lại. Ông muốn mà không còn sức làm.
Một phút nào đó, ông nghĩ tới điện thoại, muốn gọi cho đứa con, nhưng rồi ông quên ngay. Có cái gì đó đang nhẹ nhàng đung đưa, ngay trước mắt ông. Ông nhận ra nó rồi. Chùm hoa khế. Chùm hoa khế, bông nhỏ li ti, điểm nhuỵ vàng. Chùm hoa ấy đang vẫy gọi ông. Có cơn gió xuân làm chùm hoa đung đưa. Có cả tiếng cười khúc khích nữa. Chùm hoa khế. Hoa khế. Đừng giỡn mặt nhe. Ở đó đi. Ông tới.
Không hiểu sao bằng cách nào ông mở được cửa phòng, mở được cửa sau. Ông nhìn thấy vườn cây xanh mát. Ông đi qua cây nhãn, không dừng lại. Ông đi tới cây khế. Hoa khế nở rồi? Ông nhìn lên. Kìa, núp sau một tàn lá, có chùm hoa cánh tím nhuỵ vàng đang đung đưa. Nó muốn lẩn trốn ông. Cả cái hàng rào cao thế kia, ông còn thừa sức phi thân qua. Làm sao chùm hoa này trốn nổi. Ông vươn người, với tay, mỗi lúc một cao.
"Tui hái cho bà. Tui hái cho bà."
Chùm hoa khế đã ở trong tay ông. Lạ thay, cùng lúc đó, ông bỗng thấy mặt ông đang dụi vào mặt đất. Đất. Phải, đó là chỗ của ông. Ông nghe tiếng bà dặn: "Khi nào hoa khế nở, ông nhớ hái một chùm đem về dưới cho tui."
Bàn tay vẫn thận trọng nắm chặt chùm hoa, ông tiếp tục thì thầm: "Tui hái cho bà. Tui hái cho bà."
Chùm hoa tím ngát... nhoà dần trong mắt ông.
* * *
Buổi trưa, người con trai cụ Hồi không biết có linh tính gì, đang giờ ăn trưa, bỏ về nhà. Anh ta canh cánh trong lòng, hình như buổi sáng đi chưa tắt máy hít. Đến tối mịt cả nhà mới về, ông già bịnh, đôi khi không biết để tắt, hao điện lắm.
Về tới, máy hít đã tắt rồi, không biết do anh hay bà vợ trước khi đi làm. Anh tính khoá cửa đi, nhưng nghĩ giờ đi ăn, tới sở sẽ trễ, anh xuống bếp. Bếp ngắt lạnh tanh, nồi cháo vẫn y nguyên, chứng tỏ ông già chưa đụng tới. Anh đi xuống garage định hỏi ông già có ăn không để cùng ăn. Đây cũng là dịp anh bày tỏ nỗi lòng để cha con gần nhau trở lại. Không biết từ bao giờ, anh nghĩ lại, thương cha, hay chính mới đây, lúc sờ lên đầu cha sốt, trong hơi bốc nóng, lẫn một cái mùi già, ngái ngái như mùi lá vàng sắp rụng.
Anh không thấy ông già trong phòng. Anh đi tìm một vòng, cũng không thấy. Kỳ lạ chưa? Liệu có... Không đâu, ông cụ đã qua cơn sốt, có nhiều phần khoẻ lại, lẽ nào...
Nhìn cửa ra vườn thấy mở toang hoang. Anh vội vã ra tìm. Vườn mùa đông, cây lá trơ trụi. Tới gốc khế, anh thấy cha anh nằm sóng soài, mắt mở trừng, một tay nắm cái gì thật chặt.
Người con quỳ bên xác cha. Anh khóc. Rồi anh gọi 911. Lát sau xe cứu thương tới, có bác sĩ khám nghiệm, xác nhận ông già đã tắt thở mấy tiếng đồng hồ rồi, vì đứt mạch máu não, xuất huyết trong đầu. Khi mở bàn tay nắm chặt của ông ra coi, thì chỉ là một cành cây khô khốc, khẳng khiu, không ai hiểu tại sao!
Sau đám tang cụ Hồi, cái garage được sửa lại đủ cho ba xe đậu. Từ nay, chiếc xe của thằng cháu nội có mái nhà, không phải đậu ngoài lề đường để chim nó iả dơ hầy nữa.
Tháng sau ông bạn già hàng xóm đi Việt Nam về, nhìn sang vườn bên. Không thấy ông bạn hớn hở bắt cái ghế lên để nhìn mặt nhau. Ông hỏi thăm, biết ông cụ Hồi đã chết, khi chết nằm dưới gốc cây khế.
Ông cụ thở dài, nhớ bạn. Nhớ ông cụ Hồi có lần chỉ cây khế: "Bởi, đi đâu bả cũng trồng cây khế, bả mê hoa khế lắm kìa. Mê như mê tui." Đó là lần ông được ông cụ Hồi vui miệng, khoe thành tích chuyện tình thời trai trẻ miệt vườn.
Năm đó, cây khế ra hoa chi chít, từng chùm bông khế tím sậm, lấn cả lá. Có điều, hoa thì nhiều mà không đậu trái nào. Ông bạn già hàng xóm còn lại cũng hẩm hiu lắm, đôi khi ông tự hỏi, lẽ nào ông cụ Hồi đã hái hết chừng đó hoa khế mang xuống dưới cho bà.
Nhã Ca.
Tà Áo Bay Bên Trời Quê Đất Khách
Hoàng
Huy Giang
Nơi tôi sống trời đang vào tháng tư.
Tháng của những ngày thu vương vấn nhuộm chút bâng quơ để cho những con đường
chong chanh trong bộ áo vàng hoe của lá chẳng mấy chốc chuyển sang một màu đỏ
tía, thẫm lịm lối đi. Màu đỏ của lá chợt hừng lên dưới trời chiều hanh hanh
chút nắng, vội vàng ẩn mình khi hoàng hôn xuống vội. Và cơn gió sang mùa không
ngần ngại cuốn nhanh những chiếc lá vàng đỏ xào xạc cuống quít bước chân.
Tôi thả bộ
dọc theo con đường ra bãi đậu xe. Tiếng gió rì rào ve vãn bên tai như niềm vui
đang hiện hữu nơi tôi. Tôi đưa một bàn tay lùa nhẹ mái tóc còn bàn tay kia níu
vội tà áo chực tung bay theo gió về một khoảng không vô định. Áo dài và tôi. Áo
dài và gió. Sự dằng co giữa tôi và gió tạo thành một niềm vui bưng bít trong
lòng.
Xa quê
hương người ta thường nhớ đủ thứ. Nhớ những người thân yêu. Nhớ nhà cửa, nhớ
con đường xưa đã bao lần đi qua, nhớ bạn bè của thời đánh đinh, đánh đáo. Và
trong tôi cũng vậy. Một khi cơn nhớ cuộn lên như sóng lớp thủy triều thì ôi
thôi bao nhiêu là nỗi nhớ ồ ạt trở về. Từ những ngày ấu thơ đến những ngày mới
lớn. Từ những hàng phượng đầu mùa đầy ắp nụ non đến những con đường hiu hắt ánh
đèn đêm. Biết bao hình ảnh lần lượt lướt qua ký ức. Thật vậy! Bất cứ cái gì của
Sài Gòn, của những ngày xa xưa tôi đều nhớ cả. Càng nhớ bao nhiêu, tôi lại càng
yêu Sài Gòn bấy nhiêu. Mà yêu Sài Gòn bao nhiêu thì tôi lại càng trân quý chiếc
áo dài bấy nhiêu. Thế là tôi trở về tìm kiếm trong tôi hình ảnh cố hữu của chiếc
áo mà xa quê hương rồi tôi mới thấy quý nó thật sự.
Mỗi quốc
gia trên thế giới, kể cả những bộ lạc ở những nơi thâm sơn cùng cốc đều có sắc
phục riêng của họ. Đối với phụ nữ Việt Nam, chiếc áo dài là một trang phục và
cũng là một sắc phục thật độc đáo vì nó mang đủ các tính chất: kín đáo, sang trọng,
trữ tình, lãng mạn, thanh nhã, thướt tha, dịu dàng mà chị em phụ nữ Việt hẳn phải
hãnh diện mỗi khi mặc. Chiếc áo dài mà ngày nay mỗi lần được dịp mặc là mỗi lần
tôi thấy cả một khoảng trời xanh của thời con gái, của lứa tuổi đôi mươi, của
quãng đời xuân sắc được dịp sống lại trong tôi.
Tôi nhớ
lúc còn nhỏ, lúc ấy chắc tôi chỉ chừng sáu hoặc bảy tuổi, mỗi lần thấy người chị
họ của tôi ghé chơi sau buổi chiều tan học, tha thướt dáng nét yêu kiều trên
chiếc xe Velo Solex là tôi cũng lục đục bày trò chơi mặc áo dài và lái xe sắt.
Tôi lấy hai chiếc ghế lùn, bằng sắt, cao khoảng ba tấc, đặt nối đuôi nhau và
gác một chiếc ghế con bằng gỗ mà mẹ tôi vẫn ngồi nhặt rau, vào giữa hai chiếc
ghế sắt làm yên xe. Rồi tôi lấy hai chiếc khăn tắm, một quàng vào trước ngực và
một quàng vào sau lưng để làm áo dài. Thế là tôi có được chiếc áo dài làm bằng
khăn lông với hai tà áo lết phết dưới đất. Tuy hơi dài quá khổ nhưng tôi cũng
có được chiếc áo dài như ai. Sau vườn nhà tôi có một cây chuỗi ngọc, quanh năm
lá luôn xanh và hoa nhỏ màu tím thẫm từng chùm bốn mùa nở rộ. Mùi hoa thơm
thoang thoảng như mùi bánh khảo luôn mời gọi những chú ong bướm say tình bay lượn.
Về phía con gái, tôi là nhỏ nhất nhà nên ba tôi thương tôi lắm. Cứ mỗi lần chơi
mặc áo dài là ba tôi lại hái một cụm hoa chuỗi ngọc cài lên tóc tôi. Thế là tôi
được mặc áo dài, được cài hoa trên tóc và lái xe yểu điệu giống người chị họ
tôi.
Có phải
tôi và chiếc áo dài có duyên có nợ nên chiếc áo dài luôn quấn quít bên tôi? Và
có phải tôi và màu tím hoa chuỗi ngọc có nợ có duyên? Nên nền tím thẫm luôn sống
mãi nơi tôi trên tà áo dài qua bao tháng năm trôi giạt dòng đời.
Nơi tôi định
cư không có phép nghỉ lễ Tết Nguyên Đán hằng năm như ở quê nhà. Và những ngày Tết
đến thường xảy ra trong tuần nên năm nào cũng vậy, nếu đi làm trong ngày mùng Một
Tết tôi đều mặc áo dài. Đây là dịp mà những người bạn đồng nghiệp của tôi được
dịp ngắm nghía và trầm trồ chiếc áo dài tôi đang mặc.
Nhớ một lần
tôi phải đi tham dự một buổi họp lớn tổ chức tại hội trường của một khách sạn lớn
nằm ven bờ biển Glenelg tại Adelaide, thành phố nơi tôi đang sống. Buổi sáng
hôm ấy, thấy trời đẹp thế là tôi nẩy ý mặc áo dài. Tôi chọn chiếc áo màu tím thẫm.
Khi đến nơi tôi định đậu trong nhà đậu xe của khách sạn. Nhưng nhìn thấy trời đẹp,
nắng nhè nhẹ nên tôi đậu xe bên đường để được dịp đi bộ.
Vâng! Hôm ấy
trời ban mai nắng dịu. Cái nắng của một ngày cuối hạ. Nắng thoi thóp không gay
gắt như những tháng về trước lại có một chút gì hanh hanh của những ngày chớm thu.
Từng sợi nắng đổ ngập lối đi, đổ dài trên tôi, tóc và áo. Gió ban mai gợn mùi
nước biển thoảng nhẹ thổi về đẩy đưa hai tà áo nhẹ bay bay, để lộ chiếc quần sa
tanh lụa trắng muốt. Tôi thanh thản bước đi trong nắng. Còn nắng quấn quít bên
tôi theo từng bước chân ngập ngừng trên con đường đá dăm rệu rạo. Và đằng sau cặp
kính râm, tôi chừng thấy được những đôi mắt tò mò, những gương mặt nhìn theo,
những nụ cười cảm nhận. Khi tôi sắp đến nơi, một người đàn bà 'tóc vàng' đi ngược
chiều dừng lại hỏi tôi với một cung cách nhã nhặn, lịch sự, bằng tiếng Anh,:
- Cô đi đám cưới phải không? . . . . Chiếc áo cô đang mặc đẹp quá. Rất lịch sự
và rất đẹp.
Rồi bà đưa tay vuốt lớp vải mềm mịn trên cánh tay tôi. Tôi mỉm cười nhìn xuống
chiếc áo tôi đang mặc. Chiếc áo dài màu tím than, đơn giản không trang hoàng sặc
sỡ. Tôi lắc đầu trả lời:
- Tôi đi tham dự buổi khánh thành đổi tên của cơ quan Uniting Care.
Bà lập lại:
- Cái áo đẹp quá. Rất là lịch sự.
Rồi bà hỏi tiếp:
- Cô đến từ nước nào ?
Sau khi
nghe tôi trả lời, người đàn bà lạ bên đường còn nấn ná hỏi thêm về văn hóa Việt,
điều mà tôi rất hãnh diện để nói, để ca tụng mỗi khi có ai hỏi đến. Thấy không
còn đủ thì giờ để lan man câu chuyện tôi chỉ nói sơ và xin lỗi khiếu từ bà
khách lạ rồi vội vã bước đi. Khi đến cổng khách sạn tôi quay đầu nhìn lại. Người
đàn bà 'tóc vàng' lạ mặt vẫn còn trông theo. Tôi cảm động và thấy vui trong
lòng làm sao. Khi bước vào hội trường, rất nhiều cặp mắt hướng về phía tôi. Tôi
đoán là họ đang ngưỡng mộ chiếc áo tôi đang mặc, chiếc áo mang tính chất truyền
thống của dân tộc Việt. Điều đó làm tôi cảm thấy thật hãnh diện và thích thú.
Thật vậy,
chiếc áo với phần trên ôm sát tấm thân thon thả của phụ nữ để hai tà bay lửng
lơ cuốn quít theo làn gió trông thật thơ mộng, thật trữ tình đã là nguồn cảm hứng
cho biết bao tâm hồn nghệ sĩ, phong phú hóa kho tàng thơ, văn, nhạc, họa, nhiếp
ảnh trong nền văn học nghệ thuật Việt Nam như cố thi sĩ Nguyên Sa đã ngất ngây
gửi hồn trong hai tà áo người tình:
Có phải em
mang trên áo bay
hai phần gió thổi một phần mây
hay là em gói mây trong áo
rồi thở cho làn áo trắng bay ?
Nguyên Sa
('Tương Tư')
Còn Nguyễn
Tất Nhiên đã hãnh diện đề cao nét trang nhã, đài các của tà áo dài Việt Nam
đáng là đại diện cho sắc phục phương đông.
Tháng
giêng em áo dài trang nhã
Tỉnh lỵ còn nguyên nét Việt Nam
Đài các chân ngà ai bước khẽ
Quyện theo tà lụa cả phương đông
Nguyễn Tất Nhiên
('Tháng Giêng, Chim')
Khoảng trời
xanh với những mộng mơ lãng mạn ươm kín sách vở học trò cùng tà áo dài trắng
trinh nguyên đã được biết bao tâm hồn thi nhân chở chuyên tâm sự như nhà thơ
Luân Hoán đã một thời vướng mắc suy tư, để rồi dù dòng đời trôi chảy ông vẫn
không quên những gì đã xảy ra nơi sân trường mắt biếc:
em có nhớ
trong sân trường bữa ấy
giờ ra chơi em phơi nắng chiều đông
gió bấc khô làm đôi má se hồng
cùng chúng bạn em ngồi quanh gốc phượng
tà áo trắng xoè như đôi cánh lượn
trải dịu dàng trên cỏ mượt mà xanh
Luân Hoán
('Trong Sân Trường Bữa Ấy)
Và Bảo Cường
cũng cùng một hoài niệm như Luân Hoán đã chắt chiu trong lòng bao kỷ niệm xa
xưa của thời áo trắng:
Ngày
xưa áo lụa tung bay
Tóc em theo gió vờn mây cuối trời
Trường Tiền áo trắng tinh khôi
Em nghiêng nón... giấu nụ cười làm duyên
Bảo Cường
('Áo trắng ngày xưa)
Trong khi
Thanh Trắc Nguyễn Văn đã nhẹ nhàng trách hờn người yêu bé nhỏ của quãng đời học
trò đã vội quên tháng ngày xưa cũ, quên con đường dẫn lối đến trường, tìm vui
nơi bờ bến lạ.
Con đường
xưa đi học
Hai đứa giờ hai nơi
Em theo người xứ la.
Anh lưu lạc phương trời.
Em quên thời áo trắng
Rơi nỗi buồn đâu đây
Con đường anh trở lại
Thăm thẳm một màu mây.
Thanh Trắc Nguyễn Văn
('Con đường xưa đi học')
Thường khi
nói đến tà áo trắng rất nhiều người nghĩ đến mái trường thân yêu, đến phấn bảng
học trò, đến tiếng ve gọi hè sang, đến hàng phượng vĩ với những bông hoa trĩu nặng
thắm đỏ sân trường. Và màu đồng phục cho nhiều trường trung học nữ ở Việt Nam
thường là màu trắng. Nhưng cũng có một số ít trường chọn màu xanh. Và màu tím
cũng được chiếu cố. Điển hình là trường Gia Long đã một thời mang tên là 'Trường
Nữ Sinh Áo Tím' từ ngày thành lập vào năm 1915 cho đến 1952. Đến năm 1953, đồng
phục áo dài tím được thay thế bằng chiếc áo trắng với phù hiệu của trường - đóa
mai vàng - khâu lên trên áo.
Dù những
tà áo dài trắng được ca ngợi nhiều trong thi văn thật sâu đậm nhưng điều này đã
không làm xóa mờ nét dáng thanh dịu của tà áo dài xanh biêng biếc mà bao thi
nhân, nhạc sĩ cũng đã hoà tiếng lòng của mình trong từng cõi thi tứ diệu vợi
như nhà thơ Mường Mán đã thố lộ tâm tình khi nhớ về những ngày xưa cũ.
Mùa cốm xa
rồi hương còn đây
Sâm cầm về đâu cánh nghiêng trời
Biếc xanh tà áo em qua ngõ
Gói cả sông hồ thương nhớ ai.
Mường Mán
('Với Xuân Hà Nộí)
Thử vòng quanh thế giới âm nhạc, qua những nhạc phẩm Áo Lụa Hà Đông (Ngô Thụy
Miên), Ngàn Thu Áo Tím (Hoàng Trọng), Tà Áo Cưới (Hoàng Thi Thơ), Tà Áo Tím
(Hoàng Nguyên), Tà Áo Trắng (Trần Ngọc Lân), Tà Áo Đêm Noel (Tuấn Lê), Tà Áo Em
Bay (Nguyễn Dũng) v.v. chúng ta hẳn sẽ thấy một số nhạc sĩ đã chuyên chở lòng
mình qua hình ảnh tà áo dài trong dòng nhạc của họ. Đặc biệt nhạc sĩ Đoàn Chuẫn
đã đưa hình ảnh 'tà áo xanh' vào cung phím rất nhiều. Đối với nhạc sĩ, màu xanh
biểu tượng cho những ước mơ, cho những đợi chờ, cho từng gợi nhớ chấp chới
trong từng tiết điệu âm giai.
Anh mong
chờ mùa Thu
Tà áo xanh nào về với giấc mơ
Mầu áo xanh là mầu Anh trót yêu
Người mơ không đến bao giờ
Đoàn Chuẩn- Từ Linh
('Thu Quyến Rũ')
Với bao tà
áo xanh, đây mùa thu,
Hoa lá tàn, hàng cây đứng hững hờ,
Lá vàng, từng cánh, rơi từng cánh,
Rơi xuống âm thầm trên đất xưa..
Đoàn Chuẩn-Từ Linh
( 'Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay')
Em còn nhớ,
anh nói rằng:
Khi nào em đến với anh,
Xin đừng quên chiếc áo xanh ...
Đoàn Chuẩn- Từ Linh
('Tà Áo Xanh')
Thật
vậy, kể từ khi trôi giạt xứ người tôi mới thấy trân quý và lưu tâm đến giá trị
của chiếc áo dài Việt Nam. Chiếc áo tiềm ẩn sắc thái quê hương mà những ngày
còn lê lết ở mái trường Trung học tôi nào để ý đến. Ngày ấy, đã rất nhiều lần
vì ham nhảy dây tôi đã cột vạt trước, vạt sau thành nắm tay để không bị vướng mắc
lúc chơi nên bị cha Tổng Giám Thị quở phạt khi thấy tà áo của tôi nhăn nhúm
trông thật thảm thương lúc đứng chào cờ.
Đi tìm cội
nguồn của chiếc áo dài Việt Nam thật khó mà khẳng định được là chiếc áo dài
thân thương của chúng ta có từ bao giờ. Nhưng dựa vào sự mô tả của chiếc áo dài
đầu tiên với dáng hình tương tự như chúng ta thấy ngày nay, có người cho rằng
áo dài có từ thập niên 30 của thế kỷ thứ XX do họa sĩ Cát Tường tạo kiểu.
Theo tài
liệu thì trong quyển "Relation de la Nouvelle Mission des Péres de la
Compagnie de Jesus au Royaume de la Cochinchine", xuất bản tại Lille năm
1631, giáo sĩ Cristoforo Borri đã mô tả cách trang phục của người Việt vào đầu
thế kỷ thứ XVII qua chiếc áo dài rằng, mặc dù sống trong vùng nhiệt đới những
người Việt ăn mặc rất kín đáo. Họ mặc năm, sáu cái áo dài, áo nọ phủ lên áo
kia, mỗi cái một màu. Cái thứ nhất dài đến mắt cá chân, còn những cái khác từng
lớp và từng lớp khoác ở ngoài, ngắn dần và ngắn dần. Đó chính là chiếc áo mớ
ba, mớ bảy của phụ nữ Việt còn thấy ở các làng quê Việt Nam như ở Quan Họ / Bắc
Ninh. Đàn ông cũng mặc năm, sáu lớp áo dài lụa. Phần dưới thắt lưng của mấy lớp
áo ngoài được cắt thành những dải dài gọi là các dải cánh sen. Lúc đi lại, các
dải áo quyện vào nhau khi gió thổi bay tung lên trông thật đẹp mắt.
Ngún ngỡn
như anh thuyền chài
Áo ngắn mặc ngoài áo dài mặc trong.(*)
Có giả
thuyết cho rằng áo dài Việt Nam xuất phát từ phương Bắc khi chúa Nguyễn Phúc
Khoát ở Đàng Trong xưng là Vũ Vương vào năm 1744 đã bắt quan, dân phải mặc lễ
phục lấy mẫu từ "Tam Tài Đồ Hội" của nhà Minh, Trung Hoa. Tuy nhiên,
áo dài không phải là lễ phục mà chỉ là một loại thường phục trang trọng có thể
mặc để tiếp khách hay đi chơi.
Áo dài chớ
tưởng là sang
Bởi không áo ngắn phải mang áo dài (*)
Trong quyển
"Chín Chúa - Mười Ba Vua Triều Nguyễn" xuất bản năm 1997 ông Tôn Thất
Bình cũng viết là chiếc áo dài được hình thành từ đời chúa Nguyễn Phúc Khoát.
Nguyên chúa Nguyễn Phúc Khoát nghe người Nghệ-An truyền câu sấm: "Bát đại
thời hoàn trung nguyên" (tám đời trở về trung nguyên), thấy từ Đoan Quốc
Công đến nay vừa đúng tám đời bèn xưng hiệu lấy thể chế áo mũ trong Tam Tài Đồ
Hội làm kiểu mà tạo ra chiếc áo dài. Thế là do tinh thần độc lập, muốn dân
chúng trong địa phận mình cai trị mang y phục riêng để phân biệt với miền Bắc.
Sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên cũng có chép sự kiện chúa Vũ Vương ở phương Nam
bắt dân gian cải cách y phục vào khoảng năm 1744.
Giả
thuyết vừa nêu trên trái ngược với một bằng chứng cho thấy là chiếc áo dài đã
có trước khi chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng Vương. Đó là bức tượng Ngọc Nữ tạc từ
thế kỷ XVII ở chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh. Qua bức tượng này chúng ta có thể
thấy là chiếc áo dài phụ nữ mặc thời đó cùng với các dải cánh sen, giống mấy lớp
áo bên ngoài bị cắt thành các dải dài bên dưới thắt lưng như giáo sĩ Borri đã
mô tả. Tuy nhiên, nếu dựa theo truyền thuyết thì tiền thân của chiếc áo dài
ngày nay đã có từ thời Hai Bà Trưng. Năm 39 sau Công nguyên, Hai Bà khởi quân
đánh đuổi quan Thái thú Tô Định và quân nhà Hán. Khi cưỡi voi lâm trận Hai Bà
Trưng đã mặc áo dài hai tà giáp vàng, che lọng vàng và trang sức thật lộng lẫy.
Chiếc áo
dài đã trải qua nhiều gian truân theo cùng mệnh nước. Vấn nạn thứ nhất là bao
nhiêu mưu toan đồng hóa dân ta của bọn ngoại xâm phương Bắc qua một nghìn năm bị
Trung Hoa cai trị. Thứ đến là ảnh hưởng của thực dân Pháp trong ngót một thế kỷ
bị đô hộ.
Và gần đây
nhất, chiếc áo dài thân thương của chúng ta đã chịu sự dập vùi cùng chung với
thân phận con người theo hoàn cảnh chính trị và xã hội trên phần đất quê hương
Việt Nam. Vì áo dài không thích hợp với công việc lao động cho nên sau năm
1954, chiếc áo dài đã biến mất trên nửa phần đất tổ quốc nơi miền Bắc trong khi
tại miền Nam Việt Nam hai tà áo dài vẫn tiếp tục tung bay nơi công sở, trong học
đường hay ngoài đường phố. Khi cuộc chiến chấm dứt trên quê hương vào cuối
tháng Tư năm 1975 thì chiếc áo dài cũng cùng chịu chung phận số với người dân
miền Nam và chỉ được phục hồi từ dạo cuối thập niên 80 sau khi đất nước được cởi
mở dần.
Mặc dù đã
nổi trôi theo dòng lịch sử nhưng chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam ta không những
vẫn trường tồn mà còn được hoàn mỹ thêm ra. Điều đó chứng tỏ là tinh thần bất
khuất của dân tộc Việt đã được thể hiện qua chiếc áo dài.
Nói đến
trang phục phụ nữ đặc thù của những quốc gia Á châu, chúng ta có thể kể đến chiếc
Kimono của người Nhật hoặc chiếc áo Sường Xám của người Trung Hoa. Về thẩm mỹ,
chiếc Kimono quá kín đáo, quá gò bó thân hình người phụ nữ, còn chiếc áo Sường
Xám mặc dù có phần khêu gợi nhưng thiếu phần thanh tao, dịu dàng của phụ nữ.
Trong khi đó, chiếc áo dài của ta vừa kín đáo, vừa gợi cảm lại vừa thướt tha, vừa
uyển chuyển. Thân áo bó sát lấy thân hình, tôn vinh những đường cong mềm mại của
vóc dáng người phụ nữ Việt Nam. Thêm vào đó, thân áo xẻ hơi cao, để lộ một chút
thân mình phía trên cạp quần. Hai tà áo dài xuống ngang nửa ống chân, quấn quít
từng bước đi theo làn gió thoảng. Nói chung, áo dài của ta vượt trội hơn những
trang phục Á châu khác, bằng chứng là tại hội chợ quốc tế Osaka, năm 1970 tại
Nhật Bản, chiếc áo dài phụ nữ Việt Nam với các vạt áo bay lượn trong gió đã được
quan khách quốc tế trầm trồ khen ngợi và đem lại vinh dự cho phái đoàn Việt Nam
Cộng Hòa và chiếc áo dài của Trương Quỳnh Mai được chọn là trang phục dân tộc đẹp
nhất tại Tokyo vào năm 1995.
Có phải em
mang trên áo bay
hai phần gió thổi một phần mây
hay là em gói mây trong áo
rồi thở cho làn áo trắng bay ?
Nguyên Sa
('TươngTư')
Về hình dạng,
chiếc áo dài đã thay đổi rất nhiều qua bao thế kỷ để có được dáng nét mỹ miều
như ngày nay. Sau đây ta thử nhìn qua những dạng chính theo thứ tự thời gian.
Trước
hết, ngoại trừ truyền thuyết về Hai Bà Trưng mặc áo hai tà, theo một số nhà
nghiên cứu chiếc áo dài đầu tiên là áo Giao Lãnh. Áo gồm bốn thân, mặc phủ
ngoài yếm lót; nhưng khi mặc, hai thân trước để giao nhau chứ không buộc lại, với
thêm một thắt lưng mầu buông thả. Vì chiếc áo này tương tự áo tứ thân về dáng
hình cho nên có người cho rằng hai loại áo này là một. Vậy ta hãy xét kỹ về chiếc
áo tứ thân xem sao, vì đây là chiếc áo đã tồn tại cả mấy nghìn năm, mặc cho bao
thăng trầm của lịch sử.
Ngày xưa,
vì kỹ thuật còn thô sơ nên vải được dệt thành khổ hẹp. Muốn may thành một cái
áo, phải ráp bốn mảnh lại với nhau. Do đó mới có cái tên 'áo tứ thân'. Áo gồm
hai mảnh đằng sau khâu lại giữa sống lưng làm thành sống áo, với mép nối của
hai thân áo được dấu vào phía trong. Hai thân trước được buộc lại với nhau và để
thõng xuống thành hai tà áo ở giữa, nên không cần cài khuy khi mặc. Bình thường,
gấu áo được vén lên, chỉ khi có đại tang, như tang chồng hay tang cha mẹ, mới
thả xuống và mép vải để lộ ra ngoài thay vì dấu vào trong. Áo tứ thân thường được
mặc với áo yếm, với một dải vải thắt ngang lưng, đầu vấn khăn và đội nón quai
thao.
Tùy theo mục
đích, chiếc áo tứ thân mang màu sắc khác nhau. Ngoài đồng ruộng hay trong những
phiên chợ, chiếc áo tứ thân có màu nâu non, nâu già hoặc đen, mặc với váy vải
thô nhuộm bùn. Nhưng trong những dịp hội hè đình đám, cưới hỏi, áo được may bằng
hàng the, nhiễu, thao, lụa, khoác bên ngoài chiếc yếm đỏ thắm hay hồng đào và
phủ lên chiếc váy lĩnh hoa chanh hoặc váy sồi có thắt lưng màu lá mạ hay màu
cánh chả bay lượn trong gió. Còn về yếm, ngoài những màu vừa kể còn có màu nâu
để mặc đi làm thường ngày ở nông thôn và yếm trắng mặc thường ngày ở thành thị.
Về ý
nghĩa, ta có thể tìm thấy trong các bài tham khảo những lời giải thích là bốn
thân của chiếc áo tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu của hai vợ chồng, và buộc hai
tà trước lại với nhau tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng âu yếm, quấn quít bên
nhau.
Đêm hè gió
mát trăng thanh
Em ngồi canh cửi còn anh vá chài
Nhất thương là cái hoa lài
Nhì thương ai đó áo dài tấm thân
Gặp người sao có một lần
Để em thương nhớ tần ngần suốt năm (*)
Áo tứ thân
vẫn còn tồn tại ở một số địa phương, nhất là ở thôn quê, cho đến ngày hôm nay.
Đến đời
vua Gia Long, vào đầu thế kỷ XIX, kiểu áo ngũ thân bắt đầu phổ biến trong giới
phụ nữ quyền quý. Kiểu này giống như áo tứ thân, nhưng kín thân vì hai vạt trước
được may liền thành một vạt lớn dọc theo sống áo như vạt sau; cộng thêm một vạt
con nằm dưới vạt trước về phía bên phải. Vạt con nối với hai vạt trước nhờ cổ
áo có bâu đệm, và cài kín lại bằng năm chiếc khuy. Tay áo may nối phía dưới khuỷu
tay cũng vì cùng một lý do như thân áo, đó là vì ngày xưa các loại vải tốt như
gấm, lụa chỉ dệt được rộng nhất là 40 cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát
người, trong khi tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu và không chiết eo. Gấu áo
may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80 cm ở gấu, cổ áo chỉ cao khoảng 2-3 cm.
Về ý nghĩa
thì ngoài ý nghĩa của bốn thân áo chính như đã nêu trong phần áo tứ thân, thân
thứ năm hay vạt con tượng trưng cho người mặc áo. Năm chiếc khuy áo tượng trưng
cho Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín, năm đạo làm người theo Khổng Giáo.
Áo dài năm
nút hở bâu
Để coi người nghĩa làm dâu thế nào (*)
Từ
chiếc áo ngũ thân, chiếc áo dài biến dạng với vạt con được thu gọn lại để trở
thành chiếc áo dài mà chúng ta thấy ngày nay. Và dĩ nhiên, hai thân trước và
sau không còn phải nối sống nữa. Tuy nhiên, nhiều phần của chiếc áo dài đã thay
hình đổi dạng trong thế kỷ XX. Cho đến đầu thế kỷ XX, phần đông áo dài phụ nữ
thành thị đều may theo kiểu ngũ thân.
Khi thực
dân Pháp bắt đầu đô hộ nước ta vào cuối thế kỷ XIX, văn hóa Tây Phương cũng bắt
đầu du nhập vào Việt Nam, đưa đến việc thay chữ Nho bằng chữ Quốc Ngữ và những
đua đòi theo văn hóa Tây Phương mà điển hình là ở Hà Nội. Vì là một phần của
văn hóa Việt Nam cho nên chiếc áo dài truyền thống cũng là đề tài của sự đổi mới.
Các màu thông dụng như nâu, đen được thay bằng các sắc màu tươi sáng hơn, gây
sôi nổi trong dư luận quần chúng thời ấy.
Đến khoảng
thập niên 1930, chiếc áo dài có một số thay đổi, mà nổi tiếng nhất phải kể đến
kiểu áo Lemur của họa sĩ Nguyễn Cát Tường, một thành viên của Tư. Lực Văn Đoàn.
(Chữ Lemur viết trại theo danh từ Pháp 'le mur' có nghĩa là 'cái tường', tương
tự như tên 'Cát Tường'). Nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã dùng hai tờ báo Ngày Nay và
Phong-Hóa để truyền bá tư tưởng cải cách văn hóa, xã hội của nhóm. Cũng trong tờ
Phong-Hóa họa sĩ Cát Tường đã cổ võ cho sự thay đổi về quan niệm trong cách ăn
mặc: "Các nhà đạo đức thường nói: Quần áo chỉ là những vật dụng để che
thân thể ta khỏi gió mưa, nắng lạnh, ta chẳng nên để ý đến cái đẹp, cái sang của
nó làm gì. Theo ý tôi, quần áo tuy dùng để che thân thể, song nó có thể là tấm
gương phản chiếu ra ngoài cái trình độ trí thức của một nước. Muốn biết nước
nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của người nước họ, ta cũng
đủ hiểu". Kiểu áo Lemur cho thấy ảnh hưởng của Âu châu, mặc dù áo vẫn giữ
nguyên phần áo dài với cổ cao, không có eo. Những thay đổi gồm cổ áo khoét hình
trái tim, cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ; vai bồng; tay nối ở vai, tay
măng-sét; gấu áo cắt kiểu sóng lượn nối vải khác màu hay đính ren diêm dúa;
khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải. Vì những đặc tính táo bạo như vậy
cho nên có giới nghệ sĩ hay giới ăn chơi thời đó mới dám mặc. Và cũng vì lý do
đó chiếc áo Lemur đã sớm đi vào quên lãng vào khoảng năm 1934. Một điểm khác biệt
nữa so với áo dài thời trước đó là vạt áo không còn phải nối sống nữa vì hàng vải
nhập cảng có khổ rộng hơn hàng nội hóa thời đó.
Khi kiểu
Lemur lan đến thủ đô Huế, một số các cô tân thời đã chạy theo kiểu này, làm đề
tài cho bài vè sau đây:
Vè vẻ vè
ve
Nghe vè 'mốt' áo
Bận áo lơ-muya
Đi giày cao gót
Xách bóp-tờ-phơi
Che dù cánh dơi
Đi chơi Cụ Ngáo
Ăn cháo không tiền
Cởi liền lơ-muya!
Đi đôi với
chiếc áo dài mới là một vài cải cách khác, đó là nhiều phụ nữ tân thời không
còn nhuộm răng đen nữa, tóc vấn trần hoặc búi lỏng và rẽ ngôi lệch. Đây là cơ hội
để nhà thơ Tú Mỡ ở Hà Nội nhại bài Mười Thương để châm biếm:
Một thương
tóc lệch đường ngôi
Hai thương quần trắng, áo mùi, khăn 'san'
Ba thương hôm sớm điểm trang
Bốn thương răng mọc hai hàng trắng phau
Năm thương lược Huế cài đầu
Sáu thương ô lụa ngả màu thanh thiên
Bảy thương lắm bạc nhiều tiền
Tám thương động tí 'nữ quyền' giở ra
Chín thương cô vẫn ở nhà
Mười thương... thôi để mình ta thương mình!
Một cải
cách táo bạo khác cần được lưu ý đó là kiểu áo dài nhấn eo, khiến chiếc áo ôm
sát theo các đường cong tuyệt mỹ của phái nữ, do bà Trịnh Thục Oanh, một hiệu-trưởng
của trường nữ Trung-học Hà-Nội, sáng tạo.
Vào năm 1934, sau khi áo Lemur đến rồi đi, họa sĩ Lê Phổ đã cải tiến kiểu Lemur bằng cách dung hòa với kiểu áo ngũ thân cũ, bỏ đi những nét Tây phương như không tay phồng, cổ hở, không viền tròn vạt dài v.v. nhưng ôm sát thân người để hai tà áo mềm mại tự do bay lượn. Đây là kiểu áo rất gần với chiếc áo dài tân thời ngày nay. Những thay đổi từ chiếc áo dài Lê Phổ cho đến ngày nay được tóm tắt như sau:
- Khoảng
thập niên 1960, nhà may Dung Dakao ở Sài Gòn tung ra kiểu áo dài tay Raglan,
ráp tay xéo vai do đó bớt được những đường nhăn hai bên nách và đùn vải nơi
vai. Đây là một cải tiến quan trọng và được ưa chuộng cho đến ngày nay. Đi với
kiểu tay Raglan là nhiều kiểu biến chế lạ mắt như thân áo may bằng hàng dày,
nhưng phía ngực và tay lại bằng hàng hàng mỏng; hoặc thân áo và hai tay là hai
màu tương phản.
- Đầu thập
niên 70 -75 là thời kỳ của áo dài mini-Raglan. Đó là áo dài raglan may với tà
áo cao và gọn. Kiểu này rất được giới trẻ, nhất là các nữ sinh Sài Gòn ưa chuộng
mãi cho đến ngày miền Nam thất thủ. Đối lại với kiểu mini-Raglan là kiểu
maxi-Raglan tha thướt, dịu dàng, rất hợp với các bà.
Ngoài ra,
một số nhà may tại Sài Gòn còn tung ra thị trường kiểu áo dài ba tà gồm một vạt
sau và hai vạt trước, với nút gài từ cổ xuống eo. Áo ba tà được mặc với quần ống
voi, và không được ưa chuộng cho lắm vì không thích hợp với bản chất nhẹ nhàng
của phụ nữ Việt Nam.
Thỉnh thoảng
chúng ta vẫn thấy chiếc áo dài có những canh tân quá đáng như hở ngực, hở cổ hoặc
chỉ có một tay v.v. như các kiểu áo Tây phương. Những 'phát minh' loại này đã
và sẽ bị đào thải nhanh chóng.
Mong rằng
những cải tiến, nếu có, sẽ nhắm vào việc duy trì phẩm chất thuần túy của chiếc
áo dài quốc hồn quốc túy, vương mang linh hồn dân tộc Việt, cũng như làm tăng
thêm giá trị mỹ thuật độc đáo, để cho chiếc áo dài thân thương của chúng ta mãi
mãi không bao giờ bị lấn át bởi các trào lưu thời trang Tây phương, và sẽ giữ vững
ngôi vị độc tôn với dáng nét kiêu sa không những ở quê nhà mà còn ở bất kỳ nơi
nào trên thế giới.
Nói tóm lại,
trải qua mấy nghìn năm biển dâu chiếc áo dài Việt Nam đã được biến cải từ chiếc
áo Giao Lãnh mộc mạc thành chiếc áo dài trang nhã, đài các, không những đã chiếm
một địa vị quan trọng trong lịch sử lẫn trong văn hóa Việt; một thứ di sản văn
hóa mang đủ tính chất nghệ thuật vừa thướt tha, vừa dịu dàng, vừa sang trọng, vừa
lãng mạn, tôn vinh nét đẹp của phụ nữ Việt, không còn chỉ loanh quanh ẩn núp
bên các đường phố Việt Nam, mà còn tự hào vươn mình tung bay trên nhiều phố phường
dưới bầu trời thế giới hôm nay. Đó là nhờ công lao gìn giữ của cả dân tộc cũng
như công sáng tạo của bao nhà họa kiểu.
Hoàng hôn
đang xuống chậm. Lãng đãng các sắc màu tím hồng hỗn hợp thấm đẫm chân trời. Thấp
thoáng dưới bóng chiều bảng lảng, những tà áo dài nhẹ bay trong chiều nắng thu
phai.
Hoàng
Huy Giang
Tài liệu
tham khảo:
"Việt
Nam Phong Tục", Phan Kế Bính, Phong Trào Văn Hóa.
"Việt Nam Sử Lược", Trần Trọng Kim, Đại Nam.
"Phong Tục Việt Nam", Toan Ánh, Xuân Thu.
"Đất Lề Quê Thói", Nhất Thanh, Sống Mới.
"Những Hình Ảnh Xưa", Nguyễn Khắc Ngữ, Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa.
"Relation de la Nouvelle Mission des Péres de la Compagnie de Jesus au
Royaume de la Cochinchine", Cristoforo Borri, 1631, Lille
"Phong-Hóa", số 86, 1934.
"Chín Chúa - Mười Ba Vua Triều Nguyễn", Tôn Thất Bình, 1997, Nhà
Xuất Bản Đà-Nẵng.
"Chiếc Áo Dài Việt-Nam và Đạo Làm Người", Nguyễn Huỳnh.
(*) Ca dao Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét