a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2018

Bí ẩn trận không chiến dữ dội trên bầu trời Los Angeles năm 1942: UFO hay máy bay địch?

Năm 1942, một trận không chiến dữ dội đã nổ ra trên bầu trời TP Los Angeles (Mỹ), khi một vật thể bí ẩn không rõ nguồn gốc xâm nhập vào không phận.
Để nắm bắt sự việc này, cần hiểu rõ hơn cục diện khi đó, khi Mỹ vừa mới tham gia Thế chiến II.

Đòn giáng phủ đầu của quân Nhật, không thể không cảnh giác

Tháng 12/1941, máy bay Nhật bất ngờ tấn công căn cứ quân sự của Mỹ tại Trân Châu Cảng, khiến hơn 2400 người thiệt mạng. Sau sự kiện này, Mỹ chính thức tham gia Thế chiến II.
trận chiến Los Angeles
Vụ tấn công Trân Châu Cảng của quân Nhật năm 1941. Ảnh: interactives.dk
3 tháng sau, vào ngày 23/2/1942, tàu ngầm Nhật bất ngờ đánh bom mỏ dầu Ellwood ở bang California, bờ biển phía Đông Hoa Kỳ. Trước tình cảnh đó, tinh thần cảnh giác của người Mỹ trước những đợt tấn công tiềm tàng của quân Nhật lên rất cao, đặc biệt ở khu vực này. Đây chính là một trong nhân tố thúc đẩy nên sự kiện lịch sử ngày hôm sau – vụ Đại không kích tại thành phố Los Angeles lân cận, một trong những vụ oanh tạc pháo phòng không khủng khiếp nhất trong lịch sử, với một kẻ thù vô danh mà cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn.

Đại không kích Los Angeles – cuộc chạm trán với máy bay Nhật, hay UFO?

Sự việc bắt đầu vào tối thứ ba, ngày 22/2/1942. Đêm hôm đó, một loạt các chớp sáng được báo cáo xuất hiện trên bầu trời thành phố Los Angeles. Một thông báo đã được thiết lập vào 7:18, và hạ xuống vào 10:23.
Tầm đầu giờ sáng ngày hôm sau (25/2), lúc 2:25, còi báo động máy bay địch vang lên khắp hạt Los Angeles, đánh thức một triệu người dân ở khu vực nam California. Cùng lúc, chính quyền ra lệnh cúp điện toàn bộ khu vực. Hầu hết mọi người đi ngủ trở lại trong khi hơn 12.000 dân phòng không kích được triệu tập vào vị trí, hầu hết họ chỉ cho đây là một cuộc diễn tập bình thường, chuẩn bị cho một cuộc chiến tiềm tàng trong tương lai – một cuộc xâm lược khác của quân Nhật. Tuy nhiên, vào lúc 3:16, tất cả mọi người đã bị sốc khi bị đánh thức trở lại, lần này bởi những âm thanh ghê rợn, sởn gai ốc đối với bất kỳ ai chưa từng phục vụ trong quân ngũ.
Những tiếng nổ vang trời của pháo phòng không của Lữ đoàn pháo binh duyên hải vang lên khắp nơi, lôi tất cả mọi người ra khỏi giường. Trước khi họ có thể tiến đến cửa sổ để xem xem chuyện gì đang diễn ra thì những chớp sáng của đạn phòng không liên tục khai nổ trên không trung, kèm theo những âm thanh “bùm bùm” vang đất dậy trời. Các mảnh đạn lạc phóng lên không trung rồi dần dần rơi xuống thành phố như trút nước.
Không ai rõ chuyện gì đang xảy ra, bởi tất cả các đài phát thanh truyền tin đã bị yêu cầu tạm dừng hoạt động vào 3:08, nhưng bầu trời đêm với những đốm sáng lấp lóe liên hồi trải dài liên tục 45 km đã phần nào hé lộ câu chuyện.
trận chiến Los Angeles
Đèn pha rọi vào vật thể lạ trên bầu trời đêm tại thành phố Los Angeles kèm theo các đợt pháo kích, vào đầu giờ sáng ngày 25/2/1942. Ảnh: Los Angeles Times
Hỏa lực pháo binh vẫn tiếp tục rải rác cho đến gần sáng, đến 4:14 mới chấm dứt. Đến 7:21 sáng, lệnh “all clear” được ban bố, điện trở lại thành phố, mọi thứ trở về bình thường.
Sau chót, người ta ước tính tổng cộng có hơn 1.400 viên đạn được khai hỏa.
Đây là một cuộc chiến tầm cỡ và quy mô, nhưng không ai rõ danh tính thủ phạm. Đạn lạc đã gây hư hại cho một số tòa nhà và xe cộ, 5 dân thường đã thiệt mạng như kết quả gián tiếp của hỏa lực phòng không: 3 người mất trong các vụ tai nạn xe hơi trong tình trạng hỗn loạn hậu kỳ, 2 người lên cơn đau tim do sự căng thẳng tột độ từ cuộc không kích kéo dài hơn 1 tiếng. Sự kiện này đã lên trang nhất toàn bộ các tờ báo ở dọc khu vực bờ biển Thái Bình Dương của Hoa Kỳ và được nhiều phương tiện truyền thông đại chúng khắp cả nước theo dõi .
trận chiến Los Angeles
Tờ Los Angeles Times đưa tin về vụ việc. Ảnh: Los Angeles Times
Theo quan điểm chính thức từ phía chính phủ Hoa Kỳ, vụ việc này là một dạng “báo động giả”, gây ra bởi một khí cầu thời tiết hoạt động trong khu vực. Chính khí cầu này đã “khơi mào cho loạt không kích”. Nhìn chung, vụ việc này là một trường hợp điển hình của “tình trạng căng thẳng chiến tranh” gây ra bởi một khí cầu thời tiết thất lạc, được làm trầm trọng thêm bởi áp lực đến từ các cuộc tấn công không lâu trước đó của quân Nhật trong vụ Trân Châu Cảng và vụ đánh bom tại Ellwood. Cũng có giả thuyết cho rằng vài chiếc máy bay thương mại đã được sử dụng như một đòn chiến tranh tâm lý để tạo nên tình trạng hoảng loạn.
Tuy nhiên, cũng có nhiều luồng ý kiến trái chiều, đưa ra nhận định về một vụ che giấu tiềm năng. Báo chí thời đó đưa ra một số báo cáo và phỏng đoán về một vụ che giấu sự thật tiềm tàng.
Lấy ví dụ, một bài xã luận trên tờ báo Long Beach Independent địa phương cho hay, “Có một thái độ ngần ngại khó hiểu và bí ẩn về toàn bộ vụ việc này. Dường như có một vài hình thức kiểm duyệt nào đó nhằm ngăn chặn việc thảo luận về vấn đề này”.
Trong một cuộc kêu gọi Quốc Hội điều tra, dân biểu Leland Ford đã nói, “… cho đến nay không một lời giải thích nào được đưa ra có thể loại bỏ vụ này ra khỏi danh sách ‘các bí ẩn trọn vẹn’”.
Cho đến nay, vẫn chưa có một kết luận nào nhận được sự ủng hộ từ nhiều luồng. Có thể nó sẽ tiếp tục là một bí ẩn, nếu như không có thông tin quý giá từ chính những nhân chứng trong cuộc, những người đã trải qua “cuộc pháo không kích” và … tận mắt chứng kiến vật thể bí ẩn trên bầu trời.

Mánh khóe di chuyển khôn ngoan, ẩn giấu hành tung trước ra-đa quân sự

Theo lời khai các nhân chứng tại hiện trường, đầu giờ sáng ngày 25/2, một vật thể bí ẩn xuất hiện trên không trung, bay bằng bằng ở độ cao thấp. Vật thể bay trên biển gần chạm mặt nước, hướng về phía thành phố Los Angeles tại mức vận tốc cực cao. Từ vận tốc khoảng 120 dặm/giờ, vật thể này đã giảm vận tốc xuống còn 50 dặm/giờ. Có lẽ nó đã bắt được tín hiệu thăm dò từ thiết bị theo dõi tầm xa, hoặc các thiết bị bắt tín hiệu radar cơ bản.
Tập hợp lời khai các nhân chứng rải rác trong nhiều năm cho thấy, vật thể này đã di chuyển vào vùng ‘điểm mờ’ ra-đa, khi chỉ loanh quanh tại những triền núi hẻo lánh ít người dọc cạnh bắc của vùng núi Santa Monica – một khu vực cách thành phố Los Angeles khoảng 25 km. Sau đó nó di chuyển về phía nam, len lỏi trong các khoảng không bên trong rừng núi, trú ngụ đằng sau tầm ngắm khả thi của hầu hết súng phòng không và bất kỳ ra-đa hay thiết bị nghe ngóng tầm xa nào. Sau khi bay ra khỏi vùng núi Santa Monica, vật thể này đã hơi đổi hướng bay một chút về phía đông, đồng thời duy trì độ cao trên 155 m của khu đồi Baldwin lân cận, dường như để né tránh sự chú ý của tất cả máy bay và vũ khí tại Phi trường Mines (hiện là Sân bay Quốc tế Los Angeles).
trận chiến Los Angeles
Ảnh: ytimg.com

Kích cỡ khổng lồ: ‘Bay ngang qua đầu chúng tôi nhưng mãi vẫn không hết’

Scott Littleton (1933 – 2010) là giáo sư nhân chủng học tại Đại học Occidental College. Khi còn bé, ông sống ở vùng biển miền nam California, một trong những nơi có thể quan sát vụ việc này. Hồi tưởng lại sự việc hôm đó, ông kể:
“… chiếc phi cơ này chắc chắn đang dần dần hạ thấp độ cao từ khi rời khỏi đồi Baldwin bởi khi nó bay qua đầu chúng tôi, vật thể này, bất kể nó là gì, chắc chắn không bay quá cao khỏi mặt đất. Vật thể này rất to lớn, khi nó trồi ra khỏi vùng đồi, nó lớn đến nỗi khi bay ngang qua đầu chúng tôi, chúng tôi chỉ nhìn thấy phần đáy mà không thể nhìn thấy cạnh sườn — và phải rất rất lâu sau vật thể này mới bay hết qua đầu chúng tôi”.
trận chiến Los Angeles
GS Scott Littleton. Ảnh: wp.com
Tike Karavas, một giáo viên tại Bảo tàng Lịch sử Redonda, khu vực nằm trong hạt Los Angeles, cũng là một nhân chứng trong cuộc. Ông cho biết vào đêm hôm đó, vật thể này đã cũng bay qua ngay trên đầu cha con ông. Ông nói:
“Cha tôi, vào năm 1929 đã có dịp quan sát khinh khí cầu Graf Zeppelin cập cảng phi trường Mines, thậm chí được đi bộ dọc theo cạnh bên và bên dưới khí cầu khổng lồ này. Ông thường nói vật thể đã bay qua đầu cha con tôi đêm đó lớn ngang, thậm chí lớn hơn, một khí cầu Zeppelin. Khi lớn lên, tôi biết được rằng khí cầu Zeppelin có chiều dài lên đến 236 m, nhưng tôi không chắc vật thể đêm hôm đó lớn đến chừng nào so với khí cầu này”.
trận chiến Los Angeles
Tike Karavas. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Redondo
trận chiến Los Angeles
Khí cầu Graf Zeppelin thăm phi trường Mines vào năm 1929. Ảnh: welweb.org
Tuy nhiên, sử dụng phương pháp đạc tam giác vào bức ảnh chụp đen trắng nguyên (hình dưới), GS Littleton cùng cộng sự đã ước tính được kích thước của vật thể này, và cho ra kết quả thậm chí còn lớn hơn một khí cầu Zeppelin.
trận chiến Los Angeles
Đèn pha rọi vào vật thể lạ trên bầu trời đêm tại thành phố Los Angeles kèm theo các đợt pháo kích, vào đầu giờ sáng ngày 25/2/1942. Ảnh: Los Angeles Times
Gs Littleton đi đến kết luận rằng:
“Từ chiều ngang của các chùm sáng hướng đến vật thể, … cộng sự Frank Warren của tôi đi đến kết luận rằng nó hẳn phải lớn hơn rất nhiều, với chiều dài lên đến tầm khoảng 243 m. Tôi đồng ý với ước tính này”.

Hình dạng đặc thù, không hề phát ra âm thanh

Vật thể này cũng có hình dạng và cấu trúc rất đặc biệt. Tike Karavas cho biết:
“Khi tiếp xúc gần với nó, tôi nhận ra rằng vật thể này không tròn trịa như khí cầu Zeppelin, nhưng rộng và dẹt hoặc hơi cong về phía trung tâm dọc theo phần đáy từ cạnh bên. Nó cong nhọn dần khi đi về phía đỉnh, khá giống một cái xẻng nhọn lộn ngược. Từ chỗ tôi quan sát nó không có cấu trúc xương sườn hay cấu trúc phần thân trên. Trên thân nó không có ký tự, không có biểu tượng hay con số nào cả. Không có khe hở, cửa sổ, cửa khoang, đường ráp, hay lỗ lấy ánh sáng. Cũng không có cánh quạt, động cơ mô tơ ngoài và đặc biệt không phát ra âm thanh. Và nó cũng không có bánh xe, cánh máy bay, cánh đuôi (để giữ thăng bằng ở máy bay thường), dù rằng nó vẫn có khả năng bay lên hạ xuống, cũng như tăng tốc hay bay chậm, chậm đến mức gần như trôi nổi lơ lửng trên không trung, không dịch chuyển chút nào”.
trận chiến Los Angeles
Khí cầu Zeppelin. Ảnh: welweb.org
Và ông nói thêm:
“Một thực tế là, tôi không rõ vật thể này đã sử dụng loại năng lượng nào để chuyển động. Nhưng tôi biết rằng, tuy hình dạng của nó khá giống với một khí cầu Zeppelin, nhưng hành vi của nó lại khác hẳn. Khí cầu Zeppelin nhẹ hơn các thiết bị bay khác, và nó có một “lực nổi vật lý” nhất định trong không trung, [nên trông khá thanh thoát và nhẹ nhàng]. Nhưng vật thể này lại có biểu hiện như một chiếc tàu chiến. Trông nó di chuyển khá nặng nề.
trận chiến Los Angeles
Vật thể này có hình dáng bề ngoài giống với khí cầu Zeppelin, nhưng vẫn có những điểm khác biệt. Ảnh: mundogump.com.br
Một vấn đề nữa là, nó không phát ra bất kỳ âm thanh nào. Hoàn toàn im lặng, điều này rất kỳ lạ bởi bất cứ thứ gì có khả năng dịch chuyển mà có kích thước lớn đến tầm này mà tôi từng nhìn thấy — đầu máy xe lửa, máy bay, tàu thủy — đều phát ra rất nhiều âm thanh”.

Cảm hứng cho mẫu thiết kế UFO trong bộ phim nổi tiếng một thời

Một nhân chứng khác phải kể đến là một chàng trai trẻ tên Albert Nozaki.
Đêm hôm đó, Nozaki đang trông hộ cánh đồng cho một người bạn khỏi những kẻ phá hoại tiềm tàng, thì đột nhiên bắt gặp vật thể kia từ phía xa.
Trên bầu trời đêm với ánh sáng dịu nhẹ, từ phía Tây cánh đồng, một vật thể bay khá lớn màu tối dần dần tiến đến gần chỗ ông với tốc độ khá nhanh chóng … Nó khá lớn, màu đen kịt, lại rất dài và rộng nhưng không hề phát quang và cũng chẳng có cửa sổ [một khối đen đặc]. Tuy nó có những cái cánh chìa ra hai bên như máy bay, nhưng các cạnh bên của nó lại cụp xuống [minh chứng cho một cấu trúc khí động lực học rất khác các máy bay thông thường].
Không chỉ thế, thay vì cảm nhận được một tiếng kêu rung động “o o” nhè nhẹ trong luồng ngực khi nó bay ngang qua. như đối với các loại thiết bị cơ giới khác, vật thể này lại không phát ra bất kỳ âm thanh nào”.
Nhiều năm về sau, chàng trai trẻ Nozaki đã trở thành giám đốc nghệ thuật được đề cử giải Oscar cho một bộ phim về người Sao Hỏa xâm lược Trái Đất. Bộ phim có tên gọi “War of the Worlds (Đại Chiến Thế Giới)”, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của nhà văn người Anh H. G. Wells. Trong phim, ông phụ trách thiết kế mẫu máy bay của những tên Hỏa tinh xâm lược.
Một chi tiết khá thú vị phải kể đến: Trong một buổi phỏng vấn, Nozaki cho biết ông đã lồng ghép một số yếu tố “ma quái” của vật thể bay ông từng nhìn thấy trong vụ chứng kiến năm xưa vào mẫu thiết kế máy bay Hỏa tinh của mình, ví như hình dạng cong xuống của phần thân vật thể, nhằm khắc họa nỗi sợ hãi ông từng trải qua năm đó khi nhìn thấy vật thể bay đen đặc kia áp sát mình — cứ như thể ông sắp sửa bị nó bắt giữ. Ngoài ra, ông cũng muốn khắc họa bí ẩn đằng sau khả năng bay lơ lửng trong không trung, có lẽ do được trang bị một loại công nghệ nào đó mà chúng ta không biết được.
trận chiến Los Angeles
Albert Nozaki bên cạnh mẫu máy bay xâm lược của người Sao Hỏa. Ảnh: wp.com
trận chiến Los Angeles
Poster phim “Đại chiến Thế giới” năm 1953. Ảnh: amazon.com
trận chiến Los Angeles
Máy bay của người Sao Hỏa xâm lược Trái Đất. Một cảnh trong bộ phim “Đại chiến Thế giới”. Ảnh: eastman.org
Trong tiểu thuyết nguyên gốc của nhà văn Wells, các cỗ máy này đứng thẳng nhờ 3 cái chân robot. Nhưng trong phim chúng có thể đứng thẳng và “bước đi” nhờ 3 cái chân robot “tàng hình”.
trận chiến Los Angeles
Ảnh: the-wanderling.com
Và trong phim, những cỗ máy này có thể trụ vững trước hàng loạt súng đạn, pháo phòng không của người Trái Đất, nhờ một tấm chắn bảo vệ vô hình.
Xem video để cảm nhận sức mạnh của những cỗ máy bay:
Trên thực tế, khả năng phòng thủ đáng gờm của cỗ máy bay của người Hỏa tinh cũng chính là điều quân đội Mỹ đã được tận mắt mục sở thị. Vật thể này đã đón nhận hàng nghìn phát đạn phòng không, nhưng dường như vẫn không hề hấn gì. Sau đó nó di chuyển ra vùng trời xa, rồi biến mất.

1400 viên đạn thoát nòng, vật thể vẫn không hề hấn

Bất chấp thực tế khoảng 1440 viên đạn phòng không được nã lên không trung, bất kể thứ gì “ở trên kia” đều trụ vững trước loạt hỏa lực dồn dập. Sau cùng, nó trốn thoát mà không có bất kỳ dấu hiệu hư hại nào.
Về khía cạnh này, GS Scott Littleton cho hay, đêm hôm đó ông đã cùng mẹ quan sát vật thể này. Nó đã trở thành tâm điểm của hàng loạt ánh đèn pha từ tứ phía xung quanh, bị bủa vây bởi loạt hỏa lực phòng không dày đặc nhưng vô ích. Điềm nhiên như vậy, nó bay dọc trên vùng biển từ phía tây bắc về phía đông nam, trước khi mất hút ở phía chót đông của một khu đồi lân cận.
Ông Tike Karavas, giáo viên tại một bảo tàng địa phương như đã nói ở trên, cũng có trải nghiệm tương tự:
“Trong toàn bộ quá trình, vật thể này không tạo ra bất kỳ mối đe dọa nào ngoại trừ việc khiến một vùng rộng lớn mất điện [thực ra là lệnh cúp điện], kích phát hỏa lực phòng không trên khắp thành phố cùng lúc hứng nhận trực tiếp khoảng 1440 viên đạn phòng không trước khi trốn thoát mà không hề hấn gì”.
Karavas cho biết đêm hôm đó thanh âm của tiếng súng, tiếng còi báo động, và ánh sáng đèn pha vang lên, chiếu rọi khắp khu vực nên dù lúc đó mới chỉ 2-3 giờ sáng, nhưng toàn bộ gia đình ông và hầu như tất cả mọi người trong khu phố xung quanh đều có thể quan sát vật thể này rõ ràng”.
trận chiến Los Angeles
Pháo phòng không trong Thế chiến II. Ảnh: townnews.com
Theo số liệu từ phía quân đội, gần 1500 viên đạn pháo đã được khai hỏa. Ước chừng tổng số đạn dược này có thể lên đến 10 tấn , rơi “như trút nước” xuống thành phố Los Angeles và khu vực lân cận.
Cuộc Đại không kích ở Los Angeles là một trong những vụ chứng kiến UFO nổi tiếng nhất trong lịch sử. Dù hiện nay sự việc này vẫn tồn tại quanh nó nhiều tranh cãi với nhiều giả thuyết khác nhau, nhưng số lượng lớn các nhân chứng trong cuộc đã cung cấp một cái nhìn khách quan hơn về nguyên nhân thực sự của trận không kích này.
Quang Khánh

Tại sao tàu Parker Solar Probe của NASA không bị tan chảy khi tiếp cận mặt trời?

Tàu thăm dò vũ trụ Parker Solar Probe của NASA sẽ ra mắt công chúng vào mùa hè này trong một kế hoạch tiếp cận ở khoảng cách 5.9 triệu kilomet so với quang quyển của Mặt Trời.
Bên trong khí quyển mặt trời có một khu vực được gọi là corona, Parker Solar Probe sẽ cung cấp những quan sát chưa từng có về nguyên nhân thúc đẩy nhiều hạt, năng lượng và nhiệt tỏa ra khắp khu vực này.
Tất nhiên bên trong vùng corona cũng có sức nóng không thể tưởng tượng nổi. Tàu vũ trụ thăm dò sẽ phải di chuyển qua khu vực có nhiệt độ lớn hơn hơn 500,000 độ C trong khi bị bắn phá với tia mặt trời ở cường độ cao.
Vậy đâu là lý do tàu vũ trụ này không bị tan chảy?
Parker Solar Probe đã được thiết kế để chịu được các điều kiện khắc nghiệt và biến động nhiệt độ cho nhiệm vụ của mình. Tàu có chứa bên trong một lá chắn nhiệt tùy chỉnh và một hệ thống tự động giúp bảo vệ nó khỏi sự phát xạ ánh sáng cường độ cao của Mặt trời mà vẫn cho phép vật chất của vùng corona tác động tới thân tàu.
Lý giải khoa học
Vấn đề cốt lõi để chúng ta có thể hiểu những gì giữ cho tàu vũ trụ và các công cụ của nó an toàn là hiểu được khái niệm về nhiệt so với nhiệt độ. Nhiệt độ cao không phải lúc nào cũng có tác dụng thực sự làm nóng một vật thể khác.
Trong không gian, nhiệt độ có thể là hàng ngàn độ mà không cung cấp nhiệt đáng kể đủ để làm nóng một vật thể. Nhiệt độ cho thấy các hạt di chuyển nhanh như thế nào trong khi mức nhiệt cho thấy tổng lượng năng lượng mà chúng chuyển hóa. Các hạt có thể di chuyển nhanh (nhiệt độ cao), nhưng nếu số lượng hạt là không nhiều, chúng sẽ không truyền nhiều năng lượng (mức nhiệt thấp). Vì trong không gian hầu như trống rỗng, sẽ có rất ít hạt có thể truyền năng lượng cho tàu vũ trụ.
Tàu thăm dò đang được thử nghiệm trong phòng nghiên cứu Astrotech của NASA (Ảnh: phys.org)
Ví dụ như khu vực corona mà Parker Solar Probe bay qua có nhiệt độ rất cao nhưng mật độ hạt lại rất thấp. Hãy nghĩ đến sự khác biệt giữa việc đặt tay vào lò nóng và đặt nó vào nồi nước sôi (đừng thử ở nhà!) – trong lò, tay bạn có thể chịu được nhiệt độ nóng hơn đáng kể với thời gian lâu hơn là ở trong nước vì nó phải tương tác với nhiều hạt hơn. Tương tự, so với bề mặt nhìn thấy được của mặt trời, corona ít dày đặc hơn, do đó tàu vũ trụ tương tác với ít hạt nóng hơn và không phải nhận nhiều nhiệt.
Điều đó có nghĩa là trong khi Parker Solar Probe sẽ di chuyển qua một không gian với nhiệt độ vài triệu độ, bề mặt của tấm chắn nhiệt đối mặt với Mặt Trời sẽ chỉ được làm nóng đến khoảng 1400 độ C.
Lá chắn bảo vệ
Tất nhiên, 1400 độ C vẫn là mức nhiệt độ cực kỳ nóng bỏng (nóng hơn dung nham từ núi lửa phun trào). Và để chịu được nhiệt đó, Parker Solar Probe sử dụng lá chắn nhiệt được gọi là Hệ thống bảo vệ nhiệt (Thermal Protection System – TPS) có đường kính 2,4m và dày 115mm. Tấm lá chắn này khiến thân tàu vũ trụ sẽ chỉ phải chịu mức nhiệt độ 30 độ C.
Tấm chắn nhiệt TPS (Ảnh: phys.org)
TPS được thiết kế bởi Phòng thí nghiệm Vật lý Ứng dụng Johns Hopkins và được xây dựng tại cơ sở Carbon-Carbon Advanced Technologies, sử dụng một hợp chất bọt carbon kẹp giữa hai tấm carbon. Lớp cách nhiệt nhẹ này sẽ đi kèm với lớp sơn gốm màu trắng ở bề mặt tiếp xúc bên ngoài để phản quang càng nhiều nhiệt càng tốt. Được thử nghiệm để chịu được tới mức nhiệt độ 1650 độ C, TPS có thể xử lý bất kỳ mức nhiệt nào mà Mặt Trời có thể phóng ra, giữ cho hầu như tất cả các thiết bị được an toàn.
Cốc đo gió
Không phải tất cả các dụng cụ của Solar Parker Probe đều được bảo vệ phía sau TPS.
Solar Probe Cup là một trong hai công cụ trên Parker Solar Probe sẽ không được bảo vệ bởi lá chắn nhiệt. Dụng cụ này được gọi là cốc Faraday, một cảm biến được thiết kế để đo ion, các dòng điện tử và các góc chảy từ gió mặt trời. Do cường độ của khí quyển mặt trời, các công nghệ độc đáo đã được thiết kế để đảm bảo rằng không chỉ các dụng cụ này có thể tồn tại mà cả các thiết bị điện tử trên tàu có thể gửi về các phân tích một cách chính xác.
Bản thân cốc được làm từ các tấm Titanium-Zirconium-Molybdenum, một hợp kim molypđen, có điểm nóng chảy khoảng 2349 độ C. Các con chip tạo ra một điện trường cho Solar Probe Cup được làm từ vonfram, một kim loại có điểm nóng chảy cao nhất được biết đến là 3422 độ C. Thông thường, laser được sử dụng để khắc các đường lưới trong những con chip này – tuy nhiên do điểm nóng chảy cao, axit đã được sử dụng để thay thế.
Cốc đo gió SPC (Ảnh: Harvard-Smithsonian Center for Astrophysics)
Một thách thức khác là dây điện tử – hầu hết các dây cáp sẽ tan chảy khi tiếp xúc với bức xạ nhiệt ở gần Mặt Trời. Để giải quyết vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã phát triển các ống tinh thể sapphire để treo hệ thống dây điện và tạo ra các sợi dây từ niobi.
Để đảm bảo thiết bị đã sẵn sàng cho môi trường khắc nghiệt, các nhà nghiên cứu đã mô phỏng bức xạ nhiệt mạnh của Mặt trời trong phòng thí nghiệm. Để tạo ra một mức nhiệt đáng thử nghiệm, các nhà nghiên cứu đã sử dụng một máy gia tốc hạt và máy chiếu IMAX để làm tăng nhiệt độ của chúng. Các máy chiếu mô phỏng lại nhiệt của mặt trời, trong khi máy gia tốc hạt tiếp xúc với cốc để bức xạ nhằm mục đích đảm bảo rằng cốc có thể đo các hạt gia tốc trong điều kiện cường độ cao. Để chắc chắn rằng Solar Probe Cup sẽ chịu được môi trường khắc nghiệt, Lò năng lượng mặt trời Odeillo (tập trung sức nóng của mặt trời thông qua 10.000 gương điều chỉnh) được sử dụng để kiểm tra cốc chống lại phát xạ mặt trời cường độ cao.
Solar Probe Cup đã vượt qua các thử nghiệm và cho kết quả rõ ràng hơn khi nó tiếp xúc với môi trường thử nghiệm. Justin Kasper, điều tra viên chính cho các công cụ SWEAP tại Đại học Michigan ở Ann Arbor cho biết: “Chúng tôi nghĩ rằng bức xạ loại bỏ bất kỳ ô nhiễm tiềm năng nào. Về cơ bản nó tự làm sạch.”
Khả năng tự làm mát
Một số thiết kế khác trên tàu vũ trụ giữ cho Parker Solar Probe được che chở khỏi cái nóng. Nếu không có sự bảo vệ, các tấm pin mặt trời có thể bị quá nóng. Trong mỗi lần tiếp cận với Mặt trời, các tấm năng lượng mặt trời co lại sau bóng của lá chắn nhiệt, chỉ để lại một phân đoạn nhỏ tiếp xúc với các tia cường độ của Mặt Trời.
Những tấm năng lượng mặt trời có hệ thống làm mát đơn giản đáng ngạc nhiên: một bồn nước nóng giữ cho chất làm mát không bị đóng băng trong quá trình phóng, hai bộ tản nhiệt sẽ giữ chất làm mát không bị đóng băng, vây nhôm để tối đa hóa bề mặt làm mát và bơm để tuần hoàn chất làm mát. Hệ thống làm mát đủ mạnh để làm mát một phòng khách có kích thước trung bình và sẽ giữ cho các tấm năng lượng mặt trời cũng như các thiết bị khác hoạt động một cách mát mẻ. Khoảng 3,7 lít nước khử ion được sử dụng làm chất làm mát cho hệ thống.
Parker Solar Probe là sứ mệnh tiếp cận Mặt trời gần nhất từ trước tới nay (Ảnh: Space.com)
Một vấn đề khác với việc bảo vệ bất kỳ tàu vũ trụ nào là tìm ra cách giao tiếp với nó. Parker Solar Probe sẽ phần lớn là đi một mình trên hành trình của mình. Phải mất tám phút ánh sáng mới đến được Trái Đất, điều này có nghĩa là nếu các kỹ sư phải điều khiển phi thuyền từ Trái đất thì vào thời điểm có sự cố, sẽ không đủ thời gian để sửa nó.
Vì vậy, tàu vũ trụ được thiết kế để tự chủ giữ an toàn và đi đúng hướng đến Mặt Trời. Một số cảm biến bằng một nửa kích thước của một chiếc điện thoại di động được gắn vào thân của tàu vũ trụ. Nếu bất kỳ cảm biến nào trong số này phát hiện ánh sáng mặt trời, chúng sẽ cảnh báo cho máy tính trung tâm và tàu vũ trụ có thể điều chỉnh vị trí của nó để giữ các cảm biến và các thiết bị còn lại được bảo vệ an toàn. Việc này diễn ra một cách tự động mà không có bất kỳ sự can thiệp của con người, do đó, phần mềm máy tính trung tâm đã được lập trình và kiểm tra để đảm bảo tất cả các chỉnh sửa có thể được thực hiện trong quá trình bay.
Thẳng tiến tới Mặt trời
Sau khi phóng, Parker Solar Probe sẽ phát hiện vị trí của Mặt Trời, sắp xếp lá chắn bảo vệ nhiệt để đối mặt với nó và tiếp tục hành trình trong ba tháng tiếp theo, đón nhận sức nóng của Mặt Trời và bảo vệ bản thân khỏi nhiệt độ lạnh của không gian.
Trong suốt thời gian bảy năm của nhiệm vụ đã lên kế hoạch, phi thuyền sẽ tạo ra 24 quỹ đạo bay. Trên mỗi phương pháp tiếp cận gần mặt trời, nó sẽ lấy mẫu gió mặt trời, nghiên cứu corona của Mặt trời và cung cấp các quan sát gần như chưa từng thấy từ xung quanh ngôi sao của chúng ta. Với các phương pháp làm mát tiên tiến này, chúng ta có thể yên tâm tàu vũ trụ thăm dò Parker Solar Probe sẽ có thể thực hiện trọn vẹn sứ mệnh của mình.
Nhật Quang

Không có nhận xét nào: