Những loại vũ khí này có sức sát thương cao đến mức chúng có thể biến những vùng đất màu mỡ thành bình địa chỉ trong nháy mắt. Nhiều trong số chúng đã bị cấm sử dụng trong các cuộc xung đột quân sự sau này.
1. Pháo
Pháo hay đại pháo, hoả pháo là tên gọi chung của các loại hỏa khí tập thể có cỡ nòng từ hai mươi mm trở lên. Có uy lực dùng trong quân đội các nước để tiêu diệt sinh lực và phương tiện của đối phương hoặc làm những nhiệm vụ khác như tạo khói, chiếu sáng…
Pháo đời trước Thế chiến I rất lâu, từ thế kỷ 12 tại Trung Quốc nhưng chúng được sử dụng phổ biến ở chiến trường châu Âu với mức độ lớn chưa từng có. Trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, 6 cường quốc Áo-Hung, Anh, Đức, Hoa Kỳ, Pháp và Nga đã chế tạo và sử dụng gần 63.000 khẩu pháo các loại trong đó khoảng 50% là lựu pháo.
Đạn pháo được khai hỏa với số lượng lớn khiến nhiều vùng đất trên chiến trường trở thành những đống hoang tàn chứa cả các quả đạn chưa phát nổ. Những vụ pháo kích ồ ạt đủ sức mạnh phá hủy các mạng lưới giao thông hào và chôn sống những người lính dưới đó. Sự hủy diệt của pháo binh khủng khiếp đến mức thuật ngữ “hội chứng sốc bởi đạn pháo” (shell shock) đã ra đời để mô tả triệu chứng của những người sống sót sau các vụ pháo kích dữ dội trong nhiều ngày liên tiếp.
2. Súng phun lửa
Ý định hỏa thiêu quân thù luôn xuất hiện trong các cuộc chiến tranh nhưng phải đến năm 1915, người Đức mới hiện thực ý tưởng đó bằng việc sử dụng súng phun lửa vác vai ra chiến trường. Đây được xem là loại vũ khí đặc dụng và khá hiệu quả khi nó buộc đối phương chạy ra khỏi chiến hào, nơi họ sẽ bị súng trường và súng máy tiêu diệt hay tiêu diệt các loại xe quân sự như xe tăng, xe bọc thép hoặc vô hiệu hóa các boong-ke của quân thù.
Những người lính mang bên mình súng phun lửa được coi là đội quân cảm tử và họ luôn là đối tượng cần tiêu diệt đầu tiên trước khi cơn ác mộng xảy ra. Người Anh lại sử súng phun lửa khác đôi chút với người Đức. Họ bố trí các súng phun lửa thành hàng dài cố định trước các chiến hào rồi đòng loạt phóng lửa tạo thành một bức tường lửa dài 91 m về phía đối phương.
Và trận Somme ngày 7/1/1916, quân Anh đã áp dụng rất tốt phương pháp này và tiệu diệt gọn gàng toàn bộ quân Đức đang phòng thủ nơi này.
3. Khí độc
Khí độc hay còn gọi là vũ khí hóa học là loại vũ khí đáng sợ nhất bởi sự tàn phá và hậu quả mà nó gây ra là rất nghiêm trọng. Nó luôn xuất hiện trong trong các bảng xếp hạng về mức độ nguy hiểm.
Trong chiến tranh thế giới I, 3 loại khí độc được sử dụng nhiều nhất là clo, mù tạt và phosgene. Vụ tấn công bằng khí độc đầu tiên được ghi nhận là năm 1915 khi quân Đức tấn công quân Pháp ở Ypres, Bỉ bằng khí clo. Về sau, cả Pháp và Đức đều phát triển vũ khí hóa học theo phương thức đối phó riêng biệt của mình.
Mục đích chủ yếu khi sử dụng khí độc không phải là tiêu diệt quân số đối phương mà chỉ gây thương vong hoặc ô nhiễm môi trường không khí buộc đối phương phải rút lui. Khí độc là nỗi kinh hoàng đối với những người lính bởi chúng làm họ nghẹt thở và mù lòa khi tiếp xúc. Trong 3 loại khí độc được sử dụng phổ biến nhất, mù tạt là loại nguy hiểm nhất vì ngoài việc gây đau rát cổ họng, phổi và mắt, nó còn khiến vùng da tiếp xúc bị bỏng, phồng rộp gây đau đớn.
Về sau này, nhiều quốc gia đã tham gia ký các Hiệp ước cấm sản xuất và sử dụng vũ khí hóa học, coi nó là một loại vũ khí giết người hàng loạt.
4. Súng săn
Khi người Mỹ chính thức tham gia vào cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, mà cụ thể là tại Mặt trận phía tây, họ đã mang theo súng săn (shotgun), loại vũ khi gây ra nỗi kinh hoàng khủng khiếp cho quân Đức. Mỹ đã sử dụng nhiều loại súng săn khác nhau, nhưng chủ yếu là mẫu Winchester M1897 cải tiến dùng trong chiến hào (trench gun). Nòng súng được rút ngắn còn 50 cm, bổ sung thêm lớp cách nhiệt và lưỡi lê.
Do uy lực quá lớn của súng săn nên người Đức đã gửi ngay công hàm ngoại giao yêu cầu Mỹ ngưng sử dụng loại vũ khí này và họ sẽ xử tử những người lính nào Mỹ nào bị bắt bằng súng săn. Phía Mỹ đã bác bỏ điều này và sẽ trả thù nếu người Đức dám làm vậy.
5. Dao găm chiến hào
Cùng với sự ra đời của chiến tranh công sự ở Thế chiến I, người lính cần loại vũ khí mới để chiến đấu hiệu quả trong phạm vi hẹp của chiến hào cũng khi đánh cận chiến trên một diện tích rộng. Điều đó dẫn tới sự ra đời của dao găm chiến hào.
M1917 là loại dao găm chiến hào đầu tiên của Mỹ, là vũ khí giết người “3 trong một” với phần lưỡi hình tam giác dùng để đâm, ốp bảo vệ tay sắc nhọn để gây thương tích tối đa khi đấm, cùng một núm tròn ở cán dao dùng để tấn công phần đầu đối phương từ trên xuống.
Mẫu cải tiến có tên Mark I của M1917 được phát triển vào năm 1918 nhưng mãi đến Thế chiến II mới được sử dụng trên chiến trường.
6. Xe tăng
Chiến tranh thế giới nhất đánh dấu sự xuất hiện lần đầu tiên của xe tăng trên chiến trường. Những mẫu xe tăng đầu tiên được bọc thép dày và trang bị súng máy bên trong có thể dễ dàng vượt qua hàng rào dây thép gai hay đường hào và phá vỡ tuyến phòng thủ của đối phương, cũng như mở đường cho lực lượng bộ binh chiếm lĩnh trận địa.
Năm 1916 người Anh nghĩ ra loại xe tấn công đầu tiên mà để giữ bí mật khi sản xuất và vận chuyển vũ khí mới họ gọi là “tank” (cái thùng sắt) đó là các mẫu xe tăng Mark I, Mark II, Mark III, Mark IV, mỗi loại xe được sản xuất theo 2 phương án: một loại có pháo và một loại không có pháo chỉ có lỗ châu mai để bắn súng máy.
Nhưng nổi bật nhất vẫn là mẫu xe tăng Mark V của quân đội Anh. Với trọng lượng 29 tấn và có hình dáng như một hộp thiếc dài 8,5m được bọc giáp dày 16mm ở mặt trước, 12mm ở bên hông, nó có thể dễ dàng vượt qua bất kì hệ thống hàng rào dây thép gai cũng như đường hào.
Mark V được trang bị pháo 57mm cùng các mẫu súng máy tiêu chuẩn của Quân đội Anh, nó đủ sức phá hủy các ụ súng máy hay các boong ke trên chiến trường.
Tuy nhiên, các mẫu xe tăng Mark được đánh giá cao vì hệ thống động cơ của xe không ổn định và dễ bịhư hỏng. Kíp chiến đấu bên trong Mark V dễ bị bắn hạ bởi lính bắn tỉa Đức thông qua các lỗ châu mai bố trí xung quanh xe.
Video:
Sơn Tùng
Các nhà khoa học Anh tìm ra người xây bãi đá cổ Stonehenge 5.000 năm tuổi
Các nhà khoa học phát hiện di thể của 25 người cổ đại tại khu vực bãi đá cổ Stonehenge và đang truy tìm nguồn gốc, họ rất có thể là những người đã góp phần xây dựng lên công trình vĩ đại này cách đây 5.000 năm.
Theo bài viết đăng trên tạp chí Journal Scientific Reports, các nhà khoa học Anh phát hiện xác của 25 người Neolithic thời đại đồ đá được chôn ở khu vực bãi đá cổ Stonehenge và không loại trừ khả năng họ chính là những người đã tham gia xây dựng kỳ quan đáng kinh ngạc này, Iflscience hôm 2/8 đưa tin.
Nghiên cứu của các nhà khoa học đến từ Đại học Oxford cho thấy 25 người trên không hề sinh sống gần Stonehenge.
10 người nhiều khả năng đến từ khu vực phía tây bắc Xứ Wales, nơi mà những tượng đá để xây dựng công trình được tạo nên. Họ có thể là những người đã giúp vận chuyển khối đá khổng lồ, hoặc được đem đến Stonehenge an táng.
Bãi đá cổ Stonehenge được xây dựng trong hàng ngàn năm với nhiều giai đoạn, ước tính hoàn thành cách đây 3.500 năm.
15 hài cốt còn lại dường như là người địa phương ở Wiltshire và Stonehenge. Các nhà sử học tin rằng Stonehenge được xây dựng đầu tiên cách đây 5.000 năm bởi những người cổ đại Neolithic sử dụng công nghệ đồ đá. Quá trình xây dựng hoàn tất vào khoảng 3.500 năm trước.
Trong nhiều năm qua, người ta đồn đại về mục đích xây dựng Stonehenge hơn là nguồn gốc của những người cổ đại đã hoàn tất công trình đáng kinh ngạc này.
Hài cốt người cổ đại được các nhà khoa học tìm thấy trong khu vực có niên đại khoảng năm 3.000 trước Công nguyên.
Các nhà khoa học cũng khẳng định các hài cốt được chôn cất ở đây đều đã được hỏa táng. “Việc các hài cốt tồn tại qua quá trình hỏa táng (hơn 1.000 độ C) giúp chúng tôi có cơ hội tuyệt vời để xác định nguồn gốc của những người đã khuất”, nhóm nghiên cứu nói.
Kỹ thuật được sử dụng để xác định nguồn gốc của người dân, được gọi là phân tích đồng vị strontium. Thực vật hấp thụ strontium hòa tan từ nền đất nơi chúng được trồng. Strontium này sau đó từ từ đi vào trong răng và xương của động vật, hoặc người ăn nó. Bằng cách tìm ra một số thông tin đồng vị nhất định trong xương, bạn có thể tìm ra nơi mà một người ăn phần lớn chế độ ăn uống của họ, đó nhiều khả năng là nơi họ đã sống. Hỏa táng giúp “khóa” tín hiệu đồng vị strontium, có nghĩa là những di tích 5.000 năm tuổi này sẽ cung cấp được thông tin niên đại của những di cốt đó tương một cách tương đối chính xác.
Giáo sư John Pouncett, người dẫn đầu nghiên cứu nói những người cổ đại được chôn cất ở Stonehenge nhiều khả năng có “địa vị cao”.
Tuy vậy, các nhà nghiên cứu chưa xác định được vì sao người cổ đại đem những khối đá khổng lồ di chuyển trên quãng đường dài hơn 200km từ phía tây Xứ Wales đến khu vực đặt bãi đá cổ ngày nay ở Amesbury.
Tác giả chính Rick Schulting, Phó Giáo sư Khoa học Khảo cổ học tại Oxford, nói với Iflscience:
“Thật khó để xác định bất kỳ lý do cụ thể nào khiến họ có ý định kết nối hai nơi này với nhau. Không có bằng chứng cho bất kỳ kết nối mạnh mẽ khác về mặt thương mại, ”ông nói thêm.
“Có thể Stonehenge được xây dựng để mang hai cộng đồng này lại với nhau. Đây là suy đoán, nhưng nó có thể đã đi đến các mối quan hệ cá nhân hoặc gia đình mà bằng cách nào đó được phát triển giữa hai khu vực.”
Nghiên cứu mới dù vậy, đã giúp chiếu sáng một góc tối về nguồn gốc Stonehenge trong vô số các câu hỏi chưa có lời giải về bãi đá bí ẩn này.
Video:
Hoài Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét