Người Sài Gòn xưa có cách xưng hô thứ bậc thú vị: công chức, người có học là thầy Hai, người Hoa buôn bán là chú Ba, đại ca giang hồ là anh Tư, lưu manh là anh Năm… người lao động nghèo xếp thứ Tám. Sao lại xưng hô vậy?
Chiều muộn hôm qua có cậu bạn đi công việc ghé ngang nhà rủ làm ly cà phê tán dóc. Nói chuyện lan man một hồi, tự nhiên anh chàng kể công ty em có ông già gác cửa rất hay nói câu “bỏ qua đi Tám”…
“Em không hiểu, có lần hỏi thì ổng nói đại khái là dùng khi can ngăn ai bỏ qua chuyện gì đó, nhưng sao không phải là Sáu hay Chín mà lại là Tám thì ổng cũng không biết”, cậu bạn thắc mắc.
Dựa vào những câu chuyện xưa cũ, những giai thoại, nên kể ra đây chút nguyên cớ của câu thành ngữ có lẽ sắp “thất truyền” này…
Trước hết, phải biết là câu này phát sinh ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn từ thời Pháp thuộc, khoảng đầu thế kỷ 20. Thời đó, cách xưng hô thứ bậc trong xã hội rất phổ biến và phần nào phản ánh vị trí xã hội, giai cấp… một cách khá suồng sã và dễ chấp nhận.
Thứ Nhất: Đứng trên hết là các “Quan Lớn” người Pháp hoặc các quan triều nhà Nguyễn, thành phần này thì không “được” xếp thứ bậc vì giới bình dân hầu như không có cơ hội tiếp xúc đặng xưng hô hay bàn luận thường xuyên.
Thứ Hai: Kế đến là các công chức làm việc cho chính quyền, họ ít nhiều là dân có học và dân thường hay có dịp tiếp xúc ngoài đời, là cầu nối giữa họ với các thủ tục với chính quyền, hoặc đó là thành phần trí thức, đó là các “thầy Hai thông ngôn”, hay “thầy Hai thơ ký”…
Thứ Ba: Là các thương gia Hoa Kiều, với tiềm lực tài chính hùng hậu và truyền thống “bang hội” tương trợ, liên kết chặt chẽ trong kinh doanh, các “chú Ba Tàu” nghiễm nhiên là thế lực đáng vị nể trong mắt xã hội bình dân Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó.
Thứ Tư: Là các “đại ca” giang hồ, những tay chuyên sống bằng nghề đâm chém và hành xử theo luật riêng, tuy tàn khốc và “vô thiên vô pháp” nhưng khá “tôn ti trật tự (riêng)” và “có đạo nghĩa” chứ không tạp nhạp và thiếu nghĩa khí như các băng nhóm “trẻ trâu” hiện đại. Các “anh Tư dao búa” vừa là hung thần, vừa ít nhiều lấy được sự ngưỡng mộ của giới bình dân (và cũng không ít tiểu thư khuê các) thời đó.
Thứ Năm: Là vị trí của giới lưu manh hạ cấp hơn: các anh Năm đá cá lăn dưa, móc túi giật giỏ, hay làm cò mồi mại dâm…
Thứ Sáu: Bị giới bình dân ghét hơn đám lưu manh côn đồ là các “thầy Sáu phú-lít (police)”, “thầy Sáu mã tà”, “thầy Sáu lèo”. Chức trách là giữ an ninh trật tự, chuyên thổi còi đánh đuổi giới buôn gánh bán bưng bình dân, nhưng các “thầy Sáu” này cũng không từ cơ hội vơ vét ít tiền mọn “hối lộ” của họ để “nhẩm xà” (uống trà).
Thứ Bảy: Và trong giới buôn bán thì không thể thiếu chuyện vay vốn làm ăn, mặc dù Tàu hay Việt cũng đều có tổ chức cho vay. Nhưng phổ biến và “quy củ” nhất ở cấp độ trung – cao khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó là các “anh Bảy Chà và”, các anh này là các nhà tài phiệt người Ấn, vừa giàu vừa ít bị “ghét”, vừa ít nhiều có quan hệ qua lại với giới chức người Pháp, lại làm ăn đúng luật lệ, ít thừa cơ bắt chẹt lãi suất nên khá được giới kinh doanh tín nhiệm.
Thứ Tám: Xếp thứ Tám chính là lực lượng đông đảo nhất xã hội bình dân bấy giờ: họ là giới lao động nghèo chỉ có sức lực làm vốn nuôi miệng, từ bốc vác, gánh nước bồng em, đến “sang” hơn chút xíu là phu xe kéo…
Tuy đông nhưng lại yếu thế nhất vì thất học, không có tiền như thầy Hai, anh Ba, cũng hiền lành chứ không bặm trợn phản kháng bạt mạng như các anh Tư anh Năm nên họ thường xuyên chịu sự áp bức, bắt nạt từ mọi phía. Cách để yên thân khả dĩ nhất với họ là khuyên nhau cắn răng nhẫn nhịn, quên đi để sống: “Bỏ qua đi Tám”, bây giờ chắc là đã dễ hiểu rồi.
Thứ Chín: Không còn liên quan nữa, nhưng nhân tiện sẵn nói luôn về thứ bậc chót cùng trong xã hội thời đó: các cô, các chị Chín xóm Bình Khang chuyên “kinh doanh” bằng “vốn tự có”.
Dài dòng tí để trình bày chút kiến giải về một câu thành ngữ đang dần bị quên lãng dùng để bày tỏ thái độ khuyên người hoặc tự an ủi mình hãy đừng để ý những chuyện không vui, hay bị ai đó “chơi không đẹp”. Nếu lỡ đọc thấy không có gì thú vị thì thôi, “bỏ qua đi Tám”.
“Anh Hai Sài Gòn” thì là cách gọi vui, thân mật, nhưng cũng thể hiện tính cách phóng khoáng, dám làm dám chịu của dân Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung. Vì sao lại là “Anh Hai” chứ không là “Anh Cả”?
Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, bắt đầu gây dựng chính quyền Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đây là cái mốc quan trọng của quá trình “Nam tiến” trong lịch sử Việt Nam, cũng là quá trình hình thành văn hóa vùng đất phía Nam trong xu thế mang theo và gìn giữ văn hóa cội nguồn, đồng thời tiếp nhận những yếu tố văn hóa của cư dân vùng đất mới.
Đến năm 1698, Phủ Gia Định được thành lập, Sài Gòn – Gia Định hình thành từ đó. Chỉ hơn 300 năm nhưng người Sài Gòn đã kịp định hình một bản sắc riêng dễ nhận biết giữa những người của vùng miền khác. Điều này hình thành từ nguồn gốc lưu dân và hoàn cảnh lịch sử xã hội của miền Nam /Sài Gòn.
Lưu dân người Việt vào Nam trước hết và đông nhất là những người “Tha phương cầu thực” vì không có đất đai, không có phương kế sinh sống ở quê hương. Thành phần thứ hai là những người chống đối triều đình, quan lại địa phương bị truy bức nên phải tìm đường trốn tránh. Thứ ba là những tội đồ bị buộc phải ly hương (một hình phạt nặng của thời phong kiến). Ngoài ra, còn có số ít người tương đối giàu có, muốn mở rộng và phát triển việc làm ăn trên vùng đất mới nên nhập vào hàng ngũ lưu dân tới miền Nam…
Khi Sài Gòn được hình thành như một trung tâm của vùng đất phía Nam thời chúa Nguyễn, một đô thị lớn thời thuộc Pháp thì nơi đây cũng là nơi dân tứ xứ tiếp tục đổ về. Người nhập cư là thành phần hữu cơ của bất cứ đô thị nào, Sài Gòn vốn hình thành từ những lớp “người nhập cư” rồi trở thành “người Sài Gòn”, rồi lại tiếp tục thu nhận và chia sẻ cho những lớp người nhập cư mới.
Sống trong những điều kiện lịch sử luôn biến động, người dân miền Nam /Sài Gòn đã tạo dựng một nếp sống tinh thần ấm áp, bình đẳng, lấy tình nghĩa, nghĩa khí làm trọng…
Người Sài Gòn không phân biệt “quê”, “tỉnh”, “đồng hương” hay không…
Có thể nói, tính cách người Sài Gòn bắt nguồn từ yếu tố, điều kiện thực tế nhất ở Sài Gòn là “Làm”: “Làm ăn”, “Làm chơi ăn thiệt”, “Làm đại”, “Dám làm dám chịu”… được thể hiện một cách giản dị, thiết thực, “liều lĩnh” nhưng cũng đầy trách nhiệm
Ở Sài Gòn, “dư luận xã hội” không nặng nề khe khắt với những cái khác, cái mới. Người Nam khá dân chủ trong các mối quan hệ xã hội và cả trong gia đình, từ cách xưng hô (người Nam thường xưng “tui”) đến việc cá nhân ít lệ thuộc, phụ thuộc vào cộng đồng.
Chỉ vậy thôi, bất kể người tỉnh nào vùng miền nào, miễn là sống ở Sài Gòn, rồi có tính cách như vậy, thì đó là Người Sài Gòn… Có lẽ vì vậy mà người ta thường gọi người Sài Gòn một cách trìu mến là “Anh Hai Sài Gòn”.
Ở miền Bắc con trai trưởng trong nhà gọi là Anh Cả nhưng miền Nam lại gọi Anh Hai. Vì sao là Anh Hai mà không phải là Anh Cả? Có thể từ vài giả thuyết sau: Chúa Nguyễn Hoàng là người con trai thứ hai của Nguyễn Kim, mở đường vào Nam khai phá nên để tôn trọng ông, người dân gọi người con lớn của mình, trai hay gái, cũng chỉ là (thứ) Hai.
Hoặc, có ý kiến cho rằng, khi có phong trào lưu dân vào Nam khai khẩn, trong gia đình thường để con trai thứ ra đi vì người con trai trưởng có vai trò ở lại quê nhà phụng dưỡng cha mẹ và thờ cúng tổ tiên. Cũng có người cho rằng, trong làng quê miền Nam xưa có ông Cả (Hương Cả) là người đứng đầu, vì vậy trong các gia đình chỉ có người thứ Hai…
Tuy khác nhau về nguồn gốc “thứ Hai” của “anh Hai Sài Gòn” hay “anh Hai Nam Kỳ” nhưng có thể nhận thấy có chung một điểm: Đó là người con thứ không bị ràng buộc trách nhiệm nặng nề “giữ hương hỏa, nền nếp” như người con trưởng nên có thể “rộng chân” ra đi, tự do hơn khi tiếp nhận cái mới, thay đổi cái cũ lạc hậu, dễ thích nghi, có khi thử, liều. Nhưng vì không có gia đình họ hàng bên cạnh để mà dựa dẫm “tại, vì, bởi…” nên phải có trách nhiệm “dám chịu” nếu lỡ sai lầm.
Nguyễn Thị Hậu
Đăng lại từ bài viết “Chuyện thầy Hai con Tám Sài Gòn xưa” trên Tongphuochiep.com
Đăng lại từ bài viết “Chuyện thầy Hai con Tám Sài Gòn xưa” trên Tongphuochiep.com
Bulgaria phát hiện kho báu từ thế kỷ 14
Các nhà khảo cổ Bulgaria vừa phát hiện một kho báu chứa 957 đồ tạo tác quý giá tại Pháo đài Kaliakra bên bờ Biển Đen.
Đại diện Bảo tàng Lịch sử quốc gia Bulgaria cho biết, kho báu trên chứa 873 đồng xu bạc và 28 đồng xu vàng “cực kỳ có giá trị”, niên đại từ thời Đế quốc Ottoman và Đế quốc Bulgaria nửa sau thế kỷ 14 (ảnh). Kho báu trên cũng bao gồm 22 đồng xu bạc và đồng, 11 khuyên tai vàng, 2 nhẫn và một số đồ vật quý giá khác.
Các nhà khảo cổ phát hiện ra kho báu trên trong khi tiến hành khai quật một căn phòng bị hỏa hoạn thiêu rụi vào cuối thế kỷ 14.
Pháo đài Kaliakra là một phần thuộc khu bảo tồn khảo cổ trên mũi Kaliakra, ở khu vực phía Bắc Biển Đen. Các nhà khảo cổ đã tiến hành nhiều đợt khai quật tại pháo đài này trong 15 năm liên tiếp.
KHÁNH HƯNG
Bí ẩn xuyên thế kỷ: Bức tường ‘tự dịch chuyển’ để tránh mộ phần kẻ ngoại đạo tại nhà thờ xứ Ireland?
Bức tường “tự dịch chuyển” tọa lạc tại một vùng nông thôn yên bình, dân dã của đất nước Ireland. Hàng năm, nơi đây đón chào rất nhiều du khách đến thăm quan, bởi sự bí ẩn của nó đã trải qua hơn 300 năm, đến nay vẫn chưa có lời giải.
Tại Ireland có rất nhiều nhà thờ, trong đó có một nơi vô cùng đặc biệt, đó là Nhà thờ Nhảy (Jumping Church), tọa lạc tại xứ Kilemock, hạt Louth.
Vẫn chưa thể xác định chính xác niên đại của nhà thờ này, chỉ biết rằng nó rất cổ xưa. Năm 1953, một số nhà khảo cổ đến khai quật khu di chỉ này và phát hiện được một đồng xu bạc từ thời Vua Edward III (thế kỷ 14).
Hiện khu vực nhà thờ năm xưa chỉ còn là một đống tàn tích, với một vài hàng tường gạch còn sót lại trên nền cỏ xanh mướt. Nổi bật nhất trong khuôn viên đó là một bức tường, nó cũng chính là bí ẩn trường tồn cho tới tận ngày nay.
Điều bí ẩn của bức tường này là, nó đã bị dịch chuyển khỏi nền móng gốc. Tuy vậy, nó không hề nghiêng đổ, mà đứng ngay ngắn trên mặt đất tại vị trí mới.
Các nhà khảo cổ từng khai quật khu di chỉ này đã xác nhận, rằng bức tường này thật sự đã dịch chuyển. Dựa trên bản thiết kế gốc của nhà thờ, người ta xác định được bức tường đã thụt vào bên trong so với nền móng nguyên gốc một khoảng 60 – 70 cm.
Bức tường nặng cả tấn cao gần 6 m, rộng 4,5 m và dày khoảng 1 m, nhưng sau khi dịch chuyển, nó vẫn đứng hiên ngang trên mặt đất.
Các giả thuyết
Lý giải cho điều này, có người cho rằng, vào ngày Lễ Thanh Tẩy năm 1715, bức tường đã bị dịch chuyển bởi một trận bão lớn quét qua khu vực. Tuy nhiên lý giải này không thật sự thuyết phục. Trong cuốn sách “Kildemock The Jumping Church” (Nhà thờ Nhảy ở Kildemock), mục sư Michael Murtagh nhận định rằng giả thuyết về cơn bão làm dịch chuyển bức tường là không thực tế, ông cho biết:
“Một cơn bão đơn thuần khó có thể nâng một khối đá nặng hàng tấn được xây lên vững chắc, dịch chuyển nó thụt lùi vào trong khoảng 1m, rồi đặt nó ngay ngắn, nguyên vẹn tại một vị trí khác. Hơn nữa, bức tường này được xây từ đá dăm cứng, nên rất dễ bị vỡ vụn khi di chuyển”.
Theo truyền thuyết địa phương, bức tường này đã “tự dịch chuyển” để tránh mộ phần của một người đàn ông bị vạ tuyệt thông (một hình phạt trong Công giáo), được chôn cất bên trong tòa nhà.
Nhiều người dân địa phương tin rằng truyền thuyết này là thật. Người đàn ông được chôn cất bên trong khu đất nhà thờ Kildemock là một người bị vạ tuyệt thông, ông ta chết do bị ngã xuống từ giàn giáo khi đang thi công Nhà thờ Stabannon. Thi hài ông được mang đến an nghỉ trong khuôn viên khu di tích nhà thờ Kildemock, tại bức tường phía tây.
Ngày hôm sau, người dân địa phương cho biết, bức tường của nhà thờ đã “nhảy thụt vào trong”, khiến di thể của người đàn ông đang nằm bên trong, giờ nằm phía bên ngoài tòa nhà.
Nhiều người cho rằng, truyền thuyết này có vẻ khó tin, bởi theo logic thông thường, cần một lực tác động bên ngoài để bức tường dịch chuyển vào trong. Nhưng, dù sao đi nữa, các nhà khảo cổ học cho biết bức tường này đã thực sự dịch chuyển.
Ở mặt bên ngoài của bức tường, có gắn một tấm biển, trên đó ghi: “Bức tường này đã di chuyển 1m khỏi nền móng ban đầu. Các tư liệu cho rằng, nguyên nhân là do một cơn bão khủng khiếp năm 1715 đã nhấc bức tường khỏi mặt đất, và đặt nó xuống vị trí hiện tại. Nhưng truyền thuyết địa phương lại cho rằng bức tường này đã nhảy thụt vào trong để tránh phần mộ của một người bị vạ tuyệt thông được chôn cất trong khuôn viên nhà thờ”.
Các nhà sử học nhận định vụ chôn cất nhân vật kia và cơn bão xảy ra vào năm đó là đều có thật, nhưng không rõ điều gì xảy ra tiếp theo.
Toàn bộ câu chuyện nghe có vẻ khó tin, nhưng cho đến nay tất cả những gì chúng ta biết chỉ là một dấu hỏi lớn.
“Rốt cục bức tường này đã dịch chuyển như thế nào?”
“Bất kể chọn cách giải thích nào – tự nhiên, siêu nhiên, hay cả hai – vẻ đẹp thanh bình của khu vực và lịch sử tâm linh của cộng đồng dân cư đều quy tụ tại di chỉ linh thiêng này, thôi thúc người ta suy tưởng về những khả năng xa xôi.
3 năm trước, năm 2015, người dân địa phương kỷ niệm tròn 300 năm xảy ra sự kiện bí ẩn đã mang đến cho nhà thờ sức hấp dẫn không đâu có này. Quanh năm, bức tường này vẫn đều đều thu hút được rất nhiều du khách thập phương.
Quý Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét