Antoine-Laurent Lavoisier - nhà hóa học, viện sĩ của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp sử dụng kinh nghiệm sống cuối cùng của mình để chứng minh một điều mà thế giới chưa bao giờ xác nhận, đó là liệu con người có còn nhận thức được sau khi chết, liệu họ có thể nghe thấy tiếng nói của gia đình hay những người yêu thương mình hay không?
Khi những người thân yêu của bạn trút hơi thở cuối cùng và tắt thở, rất nhiều người đau đớn tột độ đã khóc và hét tên của người quá cố một cách tuyệt vọng, như thể người đã khuất có thể nghe thấy tiếng gọi của mình.
Vì vậy, câu hỏi đặt ra là? Người đã khuất có nghe được tiếng khóc của người yêu thương mình không? Mặc dù hiện tại không có chứng thực 100% về việc có hay không, nhưng xét cho cùng, thí nghiệm này phải được thực hiện khi một người đã chết.
Liệu con người có nhận thức, ý thức ngắn hạn sau khi chết hay không. Vào cuối thế kỷ 18, người ta đã thử và đưa ra câu trả lời. Tuy nhiên, vì câu trả lời này chỉ là một bằng chứng đơn lẻ, không có thí nghiệm lặp lại nên câu trả lời có hay không vẫn chưa được xác minh rõ ràng.
Theo tìm hiểu, Antoine-Laurent Lavoisier là nhà hóa học và là viện sĩ của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, ông đã làm sáng tỏ lý thuyết ôxy hóa khi cháy và đặt nền móng vững chắc cho các nghiên cứu cơ bản về hóa học. Ông cũng có thể được xem là người đi đầu trong ngành công nghiệp hóa học của Pháp.
Đáng tiếc, cuộc sống riêng tư của Antoine-Laurent Lavoisier không phù hợp với những quan niệm cổ hủ lúc bấy giờ, ông không chỉ đánh mất niềm đam mê với khoa học mà còn đánh mất cuộc sống của mình.
Năm 1769, Lavoisier đã giành được danh hiệu viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, đồng thời, ông sử dụng 500.000 franc để trở thành một viên chức thuế khoán, chủ quan thuế muối và thuốc lá, sau đó đảm nhiệm chức vụ trong Ủy ban Tài chính và Giám sát Thuốc súng Hoàng gia.
Đây là thời kỳ Lavoisier không chỉ là một trong những người quyền lực nhất nước Pháp, ông còn đứng trên đỉnh cao sự nghiệp khoa học của mình, giành được vinh dự về học thuật cao nhất nước Pháp.
Như người ta nói, thịnh rồi suy. Khi Antoine-Laurent Lavoisier đang tận hưởng cuộc sống trọn vẹn, hoàn mỹ của mình thì không may vướng vào tình hình chính trị hỗn loạn sau Cách mạng Pháp, đồng thời trở thành một con tốt thí cho người khác sai phó.
Những kẻ cấp tiến trong quốc hội Pháp lúc bấy giờ, để chiều lòng những người cổ hủ nhất, đã quyết định giết những viên chức thuế - những người bị coi là "ma cà rồng" hút máu nhân dân trước Cách mạng, trong đó có Antoine-Laurent Lavoisier.
Những người bắt giữ Antoine-Laurent Lavoisier hoàn toàn phớt lờ những đóng góp quan trọng của ông trong khoa học, kinh tế của nước Pháp. Dù không phạm sai lầm gì, Lavoisier vẫn phải chết chỉ vì ông là một viên chức ngành thuế. Cái chết được định sẵn của ông là để ổn định lòng dân.
Đối mặt với bất hạnh cuộc đời, Antoine-Laurent Lavoisier vẫn kiên định, bình tĩnh, không suy sụp và tuyệt vọng, ông suy nghĩ về việc mình có thể làm gì trong những ngày cuối cùng của cuộc đời.
Kết quả, Lavoisier là ông quyết định sử dụng kinh nghiệm sống cuối cùng của mình để chứng minh một điều mà thế giới chưa bao giờ xác nhận, đó là liệu con người có còn nhận thức được sau khi chết, liệu họ có thể nghe thấy tiếng nói của gia đình hay những người yêu thương mình hay không?
Khi bước lên máy chém, Antoine-Laurent Lavoisier đã gọi tên đao phủ chịu trách nhiệm hành quyết về phía mình, nói lời cầu xin cuối cùng trong đời, đó là khi bị chặt đầu, Lavoisier hy vọng rằng đao phủ có thể nhìn xem đôi mắt của ông có còn nhấp nháy không và nếu nhấp nháy thì chớp bao nhiêu lần.
Đao phủ bị kinh ngạc bởi yêu cầu của nhà khoa học cận kề cái chết, và vì kính nể người đàn ông hết lòng vì khoa học, anh ta đồng ý làm điều này. Kết quả của thí nghiệm này đã gây chấn động toàn bộ giới học thuật Pháp. Đao phủ đã thực sự nhìn thấy mắt của Antoine-Laurent Lavoisier vẫn chớp sau khi đầu lìa khỏi cổ, thậm chí còn chớp nhiều, tổng cộng là 11 lần.
Như vậy, Antoine-Laurent Lavoisier đã chứng minh rằng ý thức của anh vẫn tồn tại và anh có thể nghe thấy âm thanh của mọi người. Nói cách khác, mặc dù thí nghiệm của Antoine-Laurent Lavoisier rất tàn nhẫn nhưng ông cũng chỉ ra rõ ràng rằng, con người vẫn có ý thức trong khoảnh khắc ngắn ngủi sau khi chết.
10 điều bí ẩn gây 'sốc' dưới đáy đại dương
Trái đất của chúng ta phần lớn được nước bao phủ. Trên thực tế, hơn 60% thực vật được tạo ra từ dưới đáy đại dương xanh. Phía dưới màu xanh bí ẩn của đại dương đang chứa đựng tất cả những điều mới lạ của thế giới. Bạn có thể nghĩ rằng bạn biết mọi thứ dưới đáy đại dương sâu thẳm, nhưng trên thực tế còn rất nhiều những thứ thú vị dưới đáy đại dương có thể làm bạn sốc. Dưới đây là 10 bí ẩn dưới đáy biển sâu mà có thể bạn chưa được biết.
Loài bạch tuộc dưới đáy đại dương
Loài bạch tuộc sống dưới đáy đại dương là sinh vật bí ẩn được cho là có nguồn gốc ở khu vực Nam Cực. Theo các nhà nghiên cứu, khoảng 20 triệu năm trước, loài bạch tuộc này đã di cư khỏi khu vực đó do nhiệt độ ở đó quá lạnh. Nhiều con đã mất đi túi mực để phòng thủ vì môi trường nước sâu tối đen như mực không cần phải ngụy trang.
Thành phố của loài động vật Brittle Star thuộc lớp Ophiuroidea
Brittle Star là tên gọi loài sinh vật thuộc họ xa với loài sao biển. Ban đầu những đàn sinh vật này được hình thành ở dòng sông Macquarie Ridge ở miền đông nam Australia. Loài này di chuyển dọc theo dải núi dài 870 dặm trải từ New Zealand đến vùng Nam Cực.
Các sinh vật ở vùng biển sâu Nam Cực.
Vùng biển sâu Nam Cực là nhà của vô số các sinh vật rất thú vị trên Trái đất. Nhiều sinh vật kỳ lạ được tìm thấy sống ở vùng nước băng giá từ độ sâu 21.000 feet dưới mặt biển ở Nam Cực. Các nhà khoa học vẫn chưa thể giải thích vì sao các loài sinh vật có thể sống sót ở nơi giá lạnh đến vậy.
Những đám khói đen dưới đáy đại dương
Các nhà thám hiểm đáy đại dương đã khám phá ra hiện tượng này ở vùng biển Bắc Cực. Đám khói đen này có bao phủ khoảng 130 dặm dưới đáy đại dương và tỏa nhiệt nóng tới gần 570 độ F.
Những sinh vật bắt nguồn sự sống từ dưới nước
Các nhà địa chấn học khai quật được một hóa thạch 1,43 tỉ năm tuổi, qua phân tích nghiên cứu cho thấy nhiều sinh vật sống bắt nguồn từ dưới nước.
Những vi khuẩn dưới đáy biển sâu
Các nhà khoa học phát hiện tầng đáy đại dương có số lượng vi khuẩn gấp 3-4 lần các tầng nước mặt. Các nhà nghiên cứu băn khoăn làm thế nào các loài này vẫn có thể tồn tại và phát triển mạnh ở đáy đại dương.
Nơi đẻ trứng của những loài cá sống dưới đáy biển sâu.
Mực ống khổng lồ. Loài mực này không chỉ có kích thước “khủng” mà còn có đôi mắt khổng lồ. Nhiều cá thể mực có thể nặng tới 453kg, dài 8m, còn mắt của sinh vật ước tình đường kính gần 28cm.
San hô dưới đáy đại dương là loài sinh vật già.
Khác với suy nghĩ của nhiều người là san hô chỉ phát triển ở vùng nước ấm của đại dương, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một số rặng san hô dưới bề mặt đại dương hàng chục km, trong môi trường băng giá hàng thiên niên kỷ. Mẫu san hô được tìm thấy lâu đời nhất là 4000 tuổi được phát hiện ở đảo Hawaii.
Hủy diệt đáy đại dương bằng lưới rà
Đánh bắt cá bằng cách dùng lưới rà (thả lưới ngầm dưới đáy sông, biển) là cách bắt được rất nhiều cá nhưng rất có hại. Hiện nay các nhà khoa học cho rằng cách đánh cá này sẽ hủy diệt hệ sinh thái và tận diệt các sinh vật dưới nước.
Vài
Suy nghĩ Trái chiều về Sự Biến đổi Khí hậu Toàn cầu
Trong
Hội nghị Thượng đỉnh COP21 tại Paris vào tháng 12 năm 2015, 196 lãnh đạo quốc
gia trên thế giới đã đồng ý và chuẩn thuận sau 15 ngày nhóm họp về nguyên nhân
và giải pháp cho sự hâm nóng toàn cầu như sau:
· Khí
Carbonic – CO2 là tác nhân gây ra sự hâm nóng toàn cầu hiện tại;
Và
nếu không giảm thiểu sự phát thải CO2 từ nay (2015) cho đến
2100, trái đất sẽ nóng lên khoảng 1,5 – 40C;
Từ
đó, có những kết ước phụ là lời hứa của từng quốc gia tham dự sẽ giảm phát thải
khí carbonic theo từng giai đoạn v.v…;
Cũng
như các kết ước cho những quốc gia “giàu” về tài chánh (100 tỷ US$/năm) và
phương tiện cho các quốc gia “nghèo” (đang phát triển) để thực thi việc tiết giảm
trên;
Và
kết ước chung cho 196 quốc gia là “cố gắng” ngăn chận sự hâm nóng toàn cầu cho
đến năm 2100 là dưới 20C và tối ưu là dưới 1,50C.
Tuy
nhiên mãi cho đến hôm nay, đã qua ngày duyệt xét các kết ước đợt I là tháng
12/2020, nghĩa là sau 5 năm, khí phát thải CO2 chẳng những
không giảm mà ngược lại tăng nhiều nhứt do Trung Cộng, Nga Sô, và Ấn Độ, và Quỹ
Khí hậu Xanh vẫn chỉ là những con số tượng trưng so với định ước là 100 tỷ
US$/năm!
Từ
đây, cho thấy là thỏa ước COP21 hoàn toàn không hữu hiệu vì nhiều lý do khách
quan và chủ quan:
Thỏa
ước không có tính ràng buộc mà chỉ dựa vào…lời húa của từng quốc gia mà thôi.
Chỉ sau hai năm (2017) các nước Á Châu chiếm 2/3 tổng số khí thải, và TC trong
năm 2018 đã xử dụng 20% lượng than đá nhiều hơn so với năm 2015.
Thỏa
ước không đặt ra biện pháp chế tài, không trừng phạt; cho nên không có quốc gia
nào tuân thủ cả dù đã hứa!
Cho
đến nay, Hoa Kỳ cho đến năm 2020 đã giảm khí phát thải nhanh hơn bất cứ nước
phát thải nhiều nhất nào trên thế giới trong giai đoạn I nầy.
(Với
tính cách so sánh giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Trung Cộng: TC sản xuất 18% tổng
sản lượng thế giới và phái thải ra 19 tỷ tấn CO2 năm 2019,
trong lúc đó HK chỉ phái thải 12 tỷ và sản xuất 22% sản phẩm toàn thế giới.)
Và
gần đây nhứt, những cơn bão tuyết làm tê liệt tiểu bang Texas và nhiều tiểu
bang khác cho thấy quan điểm về “sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu” hiện nay qua
Thượng đỉnh COP15 cần phải được duyệt xét lại?
- Nhiệt
độ bầu khí quyển của trái đất đang tăng, đang nóng lên, làm sao có hiện tượng
bão tuyết khốc liệt cho Houston và Texas, mà trong lịch sử của tiển bang nầy
chưa từng xảy ra.
- Và
theo thống kê, nhiệt độ bầu khí quyển toàn cầu có giai đoạn tăng, giai đoạn giảm
từ năm 1900 đến nay.
Hai
nhận xét trên sẽ lần lượt được người viết lý giải dưới đây.
1- Có
thực sự là sự hâm nóng toàn cầu đang diễn ra hay không?
Theo
bản báo cáo của LHQ, tính đến tháng 7, 2019, cho thấy nhiệt độ trung bình
của trái đất đã tăng 1,1°C kể từ thời tiền công nghiệp và 0,2°C kể từ giai đoạn
2011-2015.
Qua
các nghiên cứu gần đây, Công nghệ tin học vừa tiêu thụ nhiều tài nguyên
thiên nhiên, vừa là giải pháp cho phép tiết kiệm năng lượng. Thí dụ cụ thể
là mỗi lần dùng Google tìm kiếm tin tức trên mạng, chúng ta thải ra 0,2 gr CO2.
Khối lượng đó không nhiều so người dùng xe hơi để di chuyển. Nhưng nếu tinh
trung bình trong mỗi tháng, trên thế giới có tới 13 tỷ lượt truy cập vào
Google, lượng khí carbonic thải ra như vậy tương đương với mức tiêu thụ điện của
4300 gia đình Mỹ trong một tháng. Đó là chưa kể ở đầu bên kia máy điện toán của
chúng ta, Google phải tích trữ không biết bao nhiêu dữ liệu để cung cấp cho người
xử dụng. Việc tích trữ dữ liệu đó cũng rất tốn năng lượng. Nhưng bù lại, cũng
nhờ có các phương tiện tìm kiếm như Google hay những ứng dụng mà chúng ta tiết
kiệm được không biết bao nhiêu điện, xăng, và xử dụng trí não...
Như
vậy,
Câu
hỏi đầu tiên của rất nhiều người ngay từ những ngày đầu của Thượng đỉnh COP21
vào tháng 12, 2015 là "các lãnh đạo quốc gia trên thế giới sẽ đồng ý với
nhau về sự hâm nóng toàn cầu như thế nào?" Nhưng, theo thống
kê, chúng ta đều biết, trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2010, sự tăng trưởng của
khí thải nhà kính tăng nhanh hơn trong giai đoạn 1980 đến 1990. Và hiện tượng
trái đất nóng nhứt so với quá khứ xảy ra vào năm 2014, và nhiệt độ không khí
tăng lên trung bình ở mặt đất cho thập niên nầy là 0,90C, cao hơn sự
tăng nhiệt độ từ thập niên 1880 trở đi.
Câu
hỏi nầy cho đến hôm nay vẫn chưa có câu trả lời có tính thuyết phục, và dường
như lãnh đạo các quốc gia phát thải khí carbonic nhiều nhứt vẫn chưa có sự đồng
thuận nào cả?
2- Những
hoài nghi về biến đổi khí hậu
· Phản
đối của dân sống ở các hải đảo
Sự
hoài nghi trong các đại biểu của các nước đang phát triển ở Paris, vẫn tin rằng
bất kỳ thỏa thuận nào đạt được sẽ chỉ là sự lập lại những lời hứa không được
thực hiện vốn đã được ghi trong các kết ước tại các cuộc họp thượng đỉnh
trước đây về khí hậu ngay từ ngày đầu ở Thượng đỉnh Rio de Janerio, Ba Tây năm
1992.
Đặc
biệt là các hải đảo, nạn nhân chính của hiện tượng biến đổi khí hậu. Trên thế
giới có tổng cộng 44 đảo quốc. Tuy chỉ chiếm có 1% dân số toàn cầu, và là những
quốc gia nghèo nhất, nhưng tiếng nói của những quốc gia này đang đè nặng lên
các cuộc thương lượng. Đại diện đảo Maurice cho rằng: «Không phải chính các đảo
quốc làm biến đổi khí hậu, mà chính họ mới là nạn nhân, đang gánh chịu hậu quả
của hiện tượng này. Các quốc gia gây ô nhiễm phải hiểu là chúng tôi cần một
cách giải quyết khác khác và đặc biệt hơn».
· Ấn
Độ đòi công bằng
Thủ
tướng Ấn độ Narendra Modi đã đòi điều mà ông gọi là ''Công lý về
Khí hậu''. Theo đó, sau quá trình công nghiệp hóa trong những thế kỷ vừa qua,
các nước giàu có trách nhiệm lớn trong việc phát thải các loại khí gây hâm nóng
trái đất. Các nước giàu giờ đây khó thể nào áp đặt các nước đang phát triển phải
kềm hãm tăng trưởng của họ, để giúp chống biến đổi khí hậu.
Ấn
Độ biện minh cho quan điểm của mình và đòi được quyền phát triển. New
Delhi chỉ cam kết nhân lên gấp 20 lần mức sản xuất năng lượng mặt trời, và dùng
40% năng lượng sạch để sản xuất điện lực từ đây cho tới năm 2030. Theo Le
Monde, Ấn Độ trước hết bảo vệ quyền lợi riêng: “Ở một đất nước mà hàng trăm triệu
hộ gia đình chưa có nhà vệ sinh, không có đủ điện nước để sinh hoạt, thì việc
chống biến đổi khí hậu vẫn là một điều gì đó còn trừu tượng xa vời, một thứ xa
xỉ phẩm mà người nghèo chưa dám nghĩ tới”. Hiện tại, Ấn Độ vẫn còn xử dụng
than đá và dầu là nguồn điện năng chính cho quốc gia nầy, chiếm 71%. Làm sao quốc
gia nầy thực hiện được lời hứa là cho đến năm 2022, sẽ tăng nguồn năng lượng mặt
trời lên 100GW, trong lúc hiện tại, Ấn Độ chỉ sản xuất được 5GW cho nguồn năng
lượng nầy năm 2015 mà thôi!
Vì
vậy,
…Nếu
các lãnh đạo quốc gia đã phát triển không mở đường, chính dân chúng Ấn Độ sẽ tự
vạch đường đi.
· Và
hướng nào phải đi cho tương lai?
Các
nước phát triển nên có bao nhiêu trách nhiệm?
Các
nhà lãnh đạo thế giới đã đồng ý từ những nỗ lực chống biến đổi khí hậu đã bắt đầu,
các nước phát triển có trách nhiệm lớn hơn để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu
so với các quốc gia đối tác trong việc trao đổi dịch vụ của họ. Hoa Kỳ và Liên
minh Âu Châu đã phát thải hơn một nửa trong tổng số carbonic thải ra đến đầu thế
kỷ này, cần phải đóng góp nhiều hơn vào sự hâm nóng toàn cầu so với các đối tác
của họ là các nước đang phát triển; mặc dù hiện tại hai nhóm quốc gia nầy chỉ
còn phát thải 19% cho Hoa Kỳ, và 9% cho LH Âu Châu.
Vì
vậy, câu hỏi được đặt ra là các nước phát triển cần phải làm nhiều hơn là các
quốc gia đang phát triển. Đây là một điều không cần tranh cãi nữa, nhưng sẽ rất
khó thực hiện hay không thể thực hiện!
3- Nghiên
cứu của TS Bjorn Lomborg
Một
bài báo mới qua nghiên cứu của Tiến sĩ Bjorn Lomborg được xuất bản trên tạp
chí Global Policy đo lường tác động thực tế của tất cả các hứa hẹn
quan trọng về khí hậu được đưa ra trước hội nghị thượng đỉnh về khí hậu ở Paris
nhằm phản bác ngược lại tất cả dự đoán của Thượng đỉnh COP21 là:”Tác động khí hậu
của tất cả các lời hứa của Thượng đỉnh COP21 Paris rất nhỏ, nếu chúng ta đo lường
tác động của mọi quốc gia thực hiện mọi lời hứa vào năm 2030, tổng mức giảm nhiệt
độ sẽ là 0,048°C (0,086 ° F) vào năm 2100”.
Sự
thay đổi nhiệt độ toàn cầu so với thời kỳ tiền công nghiệp, đối với kịch bản Không
làm gì (RCP8.5), đối với những hứa hẹn toàn cầu cho Paris và cho Paris kéo
dài thêm 70 năm nữa, như được thực hiện trên hệ thống MAGICC qua tính toán của
TS Bjorn Lomborg.
Ngay
cả khi chúng ta giả định rằng những lời hứa này sẽ được kéo dài thêm 70 năm nữa,
thì vẫn có rất ít tác động: nếu mọi quốc gia thực hiện mọi lời hứa vào năm 2030
và tiếp tục thực hiện những lời hứa này một cách trung thành cho đến cuối thế kỷ
này, và không có 'CO₂ rò
rỉ 'cho các quốc gia không cam kết, toàn bộ Paris hứa hẹn sẽ giảm nhiệt độ
tăng chỉ 0,17°C (0,306°F) vào năm 2100.
Riêng
tại Hoa Kỳ, nếu các chính sách về giảm thiểu sự hâm nóng toàn cầu, trong những
trường hợp lạc quan nhất, được thực hiện đầy đủ và tuân thủ trong suốt thế kỷ,
sẽ chỉ làm giảm nhiệt độ toàn cầu 0,031°C (0,057 °F) vào năm 2100 mà thôi.
Các
chính sách khí hậu của EU, trong những trường hợp lạc quan nhất, đạt được đầy đủ
và tuân thủ trong suốt thế kỷ, sẽ làm giảm nhiệt độ toàn cầu 0,053°C (0,096°F)
vào năm 2100.
Các
chính sách khí hậu của Trung Quốc, trong những trường hợp lạc quan nhất, đạt được
đầy đủ và tuân thủ trong suốt thế kỷ, sẽ làm giảm nhiệt độ toàn cầu 0,048°C
(0,086 °F) vào năm 2100.
Các
chính sách khí hậu còn lại của thế giới, trong những trường hợp lạc quan nhất,
được thực hiện đầy đủ và tuân thủ trong suốt thế kỷ, sẽ làm giảm nhiệt độ toàn
cầu 0,036°C (0,064°F) vào năm 2100.
4- Nhà
bảo vệ “môi trường hoài nghi" Bjorn Lomborg kết luận
Nhà
bảo vệ “môi trường hoài nghi" – “skeptical environmentalist" Bjorn
Lomborg viết trên tờ New York Times với lập luận thẳng thắng rằng:”sự hoảng sợ
về biến đổi khí hậu đang gây hại nhiều hơn lợi:
· Bão
đổ bộ bờ biển của chúng ta.
· Cháy
rừng hoành hành khắp miền Tây nước Mỹ.
· Các
sông băng sụp đổ ở Artic.
Từ
đó, các chính trị gia, nhà hoạt động và giới truyền thông tán thành một thông
điệp chung: “biến đổi khí hậu đang hủy hoại hành tinh, và chúng ta phải hành động
quyết liệt ngay lập tức để ngăn chặn nó. Trẻ em hoảng sợ về tương lai của mình,
và người lớn tự hỏi liệu việc mang một cuộc sống mới vào thế giới này có phù hợp
với đạo đức hay không?”
Đủ
rồi! Bjorn Lomborg dứt khoát!.
Biến
đổi khí hậu là có thật, nhưng đó không phải là mối đe dọa ngày tận thế mà chúng
ta đã được biết. Những dự đoán về sự diệt vong sắp xảy ra của Trái đất dựa trên
nền tảng khoa học tồi tệ và thậm chí là kinh tế học tồi tệ hơn. (Climate change
is real, but it's not the apocalyptic threat that we've been told it is.
Projections of Earth's imminent demise are based on bad science and even worse
economics).
Trong
cơn hoảng loạn, các nhà lãnh đạo thế giới đã cam kết thực hiện các chính sách cực
kỳ tốn kém nhưng phần lớn không hiệu quả, cản trở tăng trưởng và thu hút các
khoản đầu tư cấp bách hơn vào nguồn nhân lực, từ tiêm chủng đến giáo dục.
False
Alarm sẽ thuyết phục bạn rằng mọi thứ bạn nghĩ về biến đổi khí hậu đều sai - và
chỉ ra con đường hướng tới việc làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn rất nhiều,
nếu ấm hơn một chút, là nơi dành cho tất cả chúng ta.
Và
Ông kết luận một cách cả quyết:”Thật vậy, khoảng 70% mức giảm nhiệt độ đề xuất
được xác định bởi Chính sách toàn cầu - Climate Interactive do một ủy ban về biến
đổi khi hậu trình bày là hoàn toàn giả mạo”.
5- Lập
luận của Học viện George Marshall
Hình
ảnh buổi họp của IPCC năm 2018
Năm
1988, Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) được thành lập. Tập hợp
tất cả các chuyên gia khoa học đầu ngành trong lĩnh vực môi trường trên toàn thế
giới, ủy ban này cho các nhà khoa học một diễn đàn và tiếng nói có trọng lượng
hơn nhiều so với trước.
Học
viện George C. Marshall, nơi Nierenberg có chân trong Ban Giám đốc, cảm thấy cần
phải ra tay dập lại những tiếng nói có trọng lượng này.
Học
viện Marshall được các nhà vật lý như William Nierenberg, Robert Jastrow
và Frederick Seitz lập ra vào năm 1984 để ủng hộ cho dự án Chiến tranh giữa
các vì sao (Star Wars) của chính quyền Reagan, cổ súy cho việc chạy đua vũ
trang, đặc biệt là dùng vũ khí hạt nhân chống lại kẻ thù (Liên Xô và các nước cộng
sản).
Cuối
thập niên 1980, Liên Xô và khối các nước xã hội chủ nghĩa tan rã. Chiến tranh Lạnh
dần đi đến hồi kết. Không còn kẻ thù cũ, Học viện Marshall quay sang nhắm đến
những người họ gọi là “kẻ kích cuồng môi trường” (environmental alarmists).
Sau
khi IPCC được thành lập, Viện Marshall bắt đầu tung ra những báo cáo tấn công
phủ đầu các nhà khoa học tại đây. Ban đầu họ không phủ nhận rằng trái đất đang
nóng lên. Nhưng lý do của hiện tượng đó không phải là CO2 thải
ra, mà là mặt trời đang nóng lên.
Họ
cáo buộc những nhà khoa học của IPCC đã không xem dữ liệu CO2 trong
lịch sử, rằng đa phần sự nóng lên này diễn ra trước năm 1940 – giai đoạn con
người bắt đầu tăng lượng thải CO2, đồng thời có cả giai đoạn trái đất
giảm nhiệt từ năm 1940 đến 1975, trước khi tăng nhiệt trở lại.
Đường
tăng giảm nhiệt độ của trái đất không khớp với đường tăng của CO2, nên
kết luận hợp lý phải là CO2 không ảnh hưởng đến hiện tượng trái
đất nóng lên. Thủ phạm là mặt trời.
Báo
cáo của Viện Marshall khẳng định rằng từ thế kỷ 19, mặt trời bước vào chu kỳ hoạt
động mạnh, tăng năng lượng phát ra, khiến trái đất nóng lên theo từ đó. Chu kỳ
này kéo dài 200 năm, và đến “đầu thế kỷ 21, trái đất sẽ có khuynh hướng nguội lại”.
(trích từ Tạp chí Luật Khoa – luatkhoa.org)).
5-
Hành trình của dân tộc Viking
Người
Viking có thể dạy chúng ta điều gì về việc thích ứng với biến đổi khí hậu?
Qua
nghiên cứu của tác giả Kevin Krajick, vào một ngày nào đó tháng 6 năm 793,
những người đàn ông trên tàu đổ bộ lên Lindisfarne, một hòn đảo ngoài khơi
phía đông nước Anh do một tu viện chiếm đóng. Những người đàn ông, dường
như đến từ phía bắc, cướp bóc kho báu, lật đổ bàn thờ và phóng hỏa các tòa nhà.
Họ đã giết một số nhà sư và mang những người khác đi bằng xiềng xích; những người
khác, họ cởi truồng và bỏ lại phía sau ...trước sự thương xót của thời tiết (to
the mercies of the weather). Vụ tấn công đã gây chấn động xã hội Cơ đốc giáo
châu Âu. Họ đã đánh dấu nó là sự khởi đầu chính thức của Thời đại Viking, khi
những kẻ xâm lược Bắc Âu lan rộng đến tận phía nam Địa Trung Hải và bắc Á, trước
khi dường như biến mất vào khoảng 250 năm sau đó.
Trên
thực tế, sự trỗi dậy của người Viking không phải là một sự kiện đột ngột, mà
là một phần trong quá trình phát triển lâu dài của con người ở phía bắc
Scandinavia, nơi có các bờ biển và quần đảo dài, phức tạp đã dẫn đến sự trỗi
dậy của một nền văn hóa dựa trên đất liền, nhưng phụ thuộc nhiều vào biển. Người
Viking (tên bắt nguồn từ tiếng Bắc Âu có nghĩa là “cư dân vùng vịnh”) là những
người sống sót sau một môi trường khắc nghiệt, lạnh giá, nơi điều kiện khí hậu
liên tục lơ lửng bên cạnh khả năng sống sót, và những thay đổi nhỏ về thời tiết
có thể gây ra những ảnh hưởng lớn.
Vì
vậy, để có thể thay đổi mực nước biển, điều gì đã ảnh hưởng đến sự nở rộ và suy
tàn ngắn ngủi của họ, và họ đã kiếm sống bằng cách nào về lâu dài sau đó? Ngày
nay, kinh nghiệm của họ có thể cung cấp một bài học quan trọng về việc
thay đổi khí hậu có thể ảnh hưởng đến một nền văn minh như thế nào.
Các
nhà khoa học đang tiến hành điều tra về việc kết nối các ống dưới đáy các hồ và
chảy ra vịnh ở quần đảo Lofoten ở cực bắc của Na Uy để điều tra ảnh
hưởng của khí hậu và mực nước biển đối với người Viking. Nhà khí hậu học William
D'Andrea của Đài quan sát Trái đất Lamont-Doherty đã nâng một chiếc phao
được neo bên dưới bề mặt trong vài năm trở lại đây.
Hình
bên: Thời tiết và cảnh quan khắc nghiệt của hòn đảo luôn buộc mọi người phải kiếm
sống từ cả đất liền và biển. Nhà khảo cổ học Stephen Wickler của Bảo tàng Đại học
Tromso (trái) và nhà cổ sinh vật học Scott Anderson của Đại học Bắc Arizona khảo
sát cảnh quan ven biển do những người tiền nhiệm của người Viking chiếm đóng
khoảng 6.000 năm trước.
Xung quanh các địa điểm khảo cổ quan trọng của người Viking, các nhà nghiên cứu từ Đài quan sát Trái đất Lamont-Doherty của Đại học Columbia và các tổ chức khác đang luồn ống nước xuống đáy hồ sâu để tìm manh mối về cách người Viking và những người tiền nhiệm của họ thích nghi, từ thời sơ khai của họ, khoảng năm 500 trước Công nguyên, đến năm 1000 sau Công nguyên. Khu vực nghiên cứu của họ là ở quần đảo Lofoten, một quần đảo xa xôi ngoài khơi bờ biển của Na Uy trong vòng Bắc Cực.
Con
người có lẽ đã sống giữa các vịnh hẹp lộng gió và những ngọn núi phủ tuyết của
Lofotens trong ít nhất 10.000 năm, nhưng họ đã tiếp nhận nền văn minh truyền thống
muộn. Nông nghiệp thô sơ, chăn nuôi và sử dụng đồ sắt đã không bắt đầu cho đến
khoảng 500 năm trước Công nguyên, hàng thiên niên kỷ sau hầu hết phần còn lại của
thế giới. Lý do có thể xảy ra là thời tiết.
Ở
địa danh Lofotens, khi nói về nền nông nghiệp xa nhất về phía bắc từng có, lý
do duy nhất có thể xảy ra ở đây là một nhánh của dòng chảy Gulf Stream của
Đại Tây Dương, dòng chảy này tắm cho các hòn đảo với độ ấm vừa đủ từ phía nam để
tạo ra một mùa sinh trưởng ngắn. Mặc dù vậy, các điều kiện gần như không
thể chịu đựng được, và nhiệt độ giảm nhẹ trong tự nhiên có thể quét sạch cây trồng
và vật nuôi. Mọi người đã phải thích nghi hoặc chết. Thật vậy, nghiên cứu
trước đây đã đưa ra bằng chứng về một số thay đổi khí hậu như vậy, cùng với những
thay đổi đáng kể của mực nước biển xung quanh các đảo.
Các
nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng khi họ có thể, người Viking sản xuất
ngoài đất liền nhiều nhất có thể, nhưng khi điều đó không còn hiệu quả nữa, họ
chuyển sang thu hoạch phụ thuộc nhiều hơn từ biển, đặc biệt là cá tuyết mà ngày
nay vẫn khiến Lofotens trở thành một loại thủy sản xuất cảng lớn. Không có gì
ngạc nhiên khi mọi người ở đây (Viking) trở thành những người đóng tàu và những
hoa tiêu điêu luyện.
Những
đợt thời tiết xấu và tình trạng thiếu đất canh tác chung có khuyến khích họ
đánh phá bất động sản ven biển của người khác không? Câu trả lời là CÓ.
Từ
đây, có thể kết luận cho một giả thuyết có nhiều căn bản khoa học và địa lý qua
cuộc hành trình của người Viking, phải chăng trái đất chuyển vận theo chu
kỳ Ấm – Lạnh tự nhiên? Khi dân Viking bắt đầu di cư về hướng Nam và định cư ở
các quốc qia Bắc Âu, và Ireland cuối thế kỷ thứ 8 vì…chu kỳ Lạnh đã bắt đầu, vì
đất đã bị đóng băng không còn thích hợp cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Và thế
kỷ 20, phải chăng thời điểm nầy là buổi bình minh của chu kỳ Ấm?
6-Kết
luận
Qua
những nhận định “trái chiều” trên, người viết không đặt vấn đề Đúng – Sai ở
đây, mà chỉ muốn nêu vài ý kiến và nhận định khác với những gì Thượng đĩnh
COP21 đưa ra.
Sự
chuyển dịch tuần hoàn của Trời Đất xảy ra và thay đổi theo chu kỳ hàng
ngàn năm, hàng chục ngàn năm…và khoa học chỉ cố gắng lần theo lối mòn lịch sử
vài trăm năm trong hy vọng có những chứng liệu, chứng tích tương đối chính
xác. Còn việc truy tìm lịch sử, những biến động của trái đất xảy ra hàng
ngàn năm trước hay hơn nữa, xin hỏi, mức độ chính xác sẽ đạt được đến đâu? Hay
chỉ là những giả thuyết được nêu ra mà thôi.
Chính
vì vậy, chúng ta cần nhìn sự việc với sự bình tâm và tỉnh táo hơn để quan sát
những thay đổi của dòng sinh mệnh và tuần hoàn của trái đất. Những “kết luận” của
các nhà khoa học cùng những viễn kiến được đề nghị, cũng như các kết ước ký kết
ở Thương đỉnh COP 21 năm 2015 có thể được xem như là các dự phóng để mỗi người
trong chúng ta ý thức hơn về việc bảo vệ trái đất chung, hoặc được xem như một
“wake up call” cảnh báo nguy cơ có thể xảy ra cho chúng ta hơn là những ràng buộc
bắt buộc phải “cứng nhắc” thi hành.
Từ
đó, chúng ta cần phải tỉnh táo nhận định là vậy!
Không
phải tất cả những kết luận của các nhà khoa học là …chân lý tuyệt đối đâu:
Chúng
ta còn nhớ khi thế giới sắp bước vào năm 2000, biết bao tiên đóan, dự phóng của
các nhà khoa học nêu lên về một viễn ảnh bi quan, có thể đưa đến thế giới “nổ
tung” vì mạng lưới toàn cầu chỉ tính toán cho đến ngày 31/12/1999 mà thôi!
·Chúng
ta còn nhớ Đài khí tượng lớn nhứt thế giới Mauna Loa Observatory ở Hawai đã đo
đạc nồng độ khí CO2 trong không khí thường xuyên. Các chuyên
gia tiên đoán rằng sẽ có những xáo trộn lớn trong đời sống trên thế giới nếu
nồng độ khí CO2 trong không khi đạt đến 400 ppm. Và ngày định
mệnh đó đã đến. Vào ngày thứ Năm, ngày 9 tháng 5 năm 2013, nồng độ trung bình
hàng ngày của carbon dioxide trong khí quyển được đo tại Mauna Loa ở Hawaii đã
đạt mốc đáng lo ngại là 400 ppm. Nồng độ 400 ppm có nghĩa là cứ một triệu hạt
trong không khí thì 400 trong số đó là phân tử carbon dioxide (0,04%). Từ đó
cho đến hiện tại, nồng độ khí nầy tiếp tục tăng (xem hình bên cạnh). Và thế
giới vẫn vận hành bình thường như không có chuyện xáo trộn nào xảy ra!
Trở về hiện tượng biến đổi khí hậu, vài sự kiện kể trên nêu ra những “bất toàn” trong kết luận về hậu quả của sự việc hâm nóng toàn cầu cho chúng ta thấy các nhà khoa học đã đưa ra các dự kiến “bi thảm” cho năm 2100 mà thôi.
Người
viết không phải là một nhà chuyên môn trong lãnh vực nầy, nhưng mục đích của
bài viết nhằm cảnh báo đến Bà Con về những biến đổi của Trời Đất hay Thế giới vẫn
còn là những ẩn số mà trí thông minh của con người hiện tại chỉ có thể đưa ra
nhiều “dự phóng” mà thôi. Điều đó không thể nào được xem như một kết luận khoa
học được.
Thiên
nhiên luôn là một bài toán mà con người cần phải chạy theo tìm ần số và sẽ
không bao giờ có đáp số chính xác được!
Mai
Thanh Truyết
Hội
Bảo Vệ Môi Trường Việt Nam – VEPS
Lễ
Vượt Qua – Passover – 27/3/2021