Sau khi được chỉ dẫn rõ ràng, mọi người trên ghe hy vọng trở
lại. Tài công quay mũi đổi hướng đúng theo lời dặn dò. Máy nổ mạnh khởi hành,
ghe lướt sóng hăng như con ngựa đua. Bỏ lại hòn đảo Dừa, Bỏ lại chiếc cầu tàu
xanh. Bỏ lại chiếc Ming Kong nhàn hạ.
Đó là buổi trưa ngày thứ ba của cuộc hành trình. Đã đi được ba
ngày không ăn, chỉ uống nước cầm hơi, người người bắt đầu thấm mệt. Đã thấy đói
và khát. Tuy uống nước tới đầy bụng nhưng vẫn cảm thấy muốn uống hoài, uống
nữa. Hình như tất cả số lượng nước trong người đều bốc hơi bay mất. Nắng nhiệt
đới nhiệt nóng bức và chói chang. Không có gì để che bớt nắng. Cũng may nhờ có
gió biển nên cũng còn thở được. Hy vọng gặp được Bidong làm người ta quên mệt
mõi. Chín hải lý. Khoảng cách đâu có xa. Với sức máy của ghe chỉ cần hai tiếng
đồng hồ là nhiều lắm. Trời thiệt sáng và trong. Hốt vẫn cầm lái. Quách Linh
Hoạt đứng trên mui. nhìn bằng ống dòm chăm chăm, thỉnh thoảng quay hết chỗ nầy
tới chỗ kia,. Anh nhìn thẳng, nhìn ngang, nhìn xiên, nhìn xéo. Cái mặt bị nắng
ăn đen thui. Tôi hồi hộp theo dõi từng cử chỉ, thái độ của anh. Chỉ cần anh đưa
tay chỉ về phía trước là tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi nghĩ thầm trong bụng, chắc
trời thương nên mới gặp người tốt chỉ dẫn, tìm kiếm như vầy thì con kiến cũng
thấy nói gì cái đảo lớn chần dần...
Nhưng mà ở đời, có những chuyện tưởng vậy mà không phải vậy. Cái
gì cũng phải trả đúng với giá của nó. Ngay cả sự tự do... Ghe đã đi nhiều hải
lý, giờ giấc cũng từ từ qua. Những tia mặt trời không còn từ trên cao đâm xỉa
thẳng xuống mà bây giờ đã chiếu chênh chếch. Đảo Bidong nằm ở chỗ nào, không ai
thấy hết. Mặc cho Quách Linh Hoạt đưa ống dòm nhìn khắp tám hướng, nó vẫn biệt
tăm mù mù. Xa chín hải lý. Hướng ba trăm mười độ. Sao không thấy gì hết! Hổng
lẽ ông thuyền trưởng nói gạt. Mà ổng gạt làm chi. Hay là Hốt coi hải bàn tính
sai tọa độ? Cũng không lẽ nào. Từ Việt Nam qua Mã Lai anh ta lái còn đúng được,
nói chi đoạn đường còn có bấy nhiêu. Nhưng mà sao giờ nầy vẫn chưa thấy tăm hơi
Bidong đâu hết. Tại sao kỳ vậy? Tôi hơi sốt ruột. Nếu không khéo chỉ còn vài
giờ ngắn ngủi nữa thôi, mặt trời lặn mất thì nguy lắm. Đêm đen mịt mùng sẽ phủ
kín vạn vật. Bóng tối đồng nghĩa với tối tăm, ảm đạm, bất trắc, nguy hiểm. Lại
phải thêm một ngày sóng gió lênh đênh nữa. Hình như nước biển buổi chiều dâng
cao hơn hồi trưa nhiều lắm. Sóng trở nên hung hãn. Từng đợt dâng lên thiệt cao
rồi rút xuống thiệt nhanh. Chiếc ghe cứ chạy phăng phăng, trồi hụp theo đợt
sóng. Mọi người đâm ra im lặng. Chắc cùng chung một tâm trạng lo lắng sợ sệt.
Có cái gì bất thường. Tất cả đều mệt mõi quá rồi. Từ sáng sớm tới giờ chạy tới
chạy lui ở bờ biển nầy cũng không đi tới đâu.
Trong làn sóng dữ dội, chiếc ghe nhỏ mong manh trồi lên hụp
xuống bất ngờ một tiếng va chạm mạnh ở lườn ghe. Ầm! Chiếc ghe đương lướt ngon
trớn bỗng khựng lại. Tôi cảm thấy dưới lườn có cụt đá cứng nâng chiếc ghe lên.
Hồn vía tôi bay bổng. Chết rồi! ghe đụng đá ngầm. Nhìn ra xa một chút, nhiều
tảng đá lớn bằng cái nhà mấp mô trên mặt nước đầy sóng bạc trắng xoá. Nhiều
quá, chi chít đó đây. Đá màu gan gà, nâu tím, xám đen, nằm lắp xắp trên mặt
nước như một bãi mìn. Xung quanh, rải rác, thấy sóng bạc đầu trắng xoá chứng tỏ
chỗ nầy có bãi rạn. Hốt mải mê tìm kiếm Bidong ở trên trời mà quên nhìn xuống
phía dười nước. Chỗ nầy nước không còn xanh thẩm nữa mà xanh lợt lợt. Đáy biển
cạn quá! Sau cái đụng long trời lở đất đó, tiếng máy ghe lại nổ không bình
thường. Tôi rán lắng nghe. Một thứ tiếng gì trào trạo, lột xột, trục trặc như
có những mảnh sắt vụn trộn lẫn trong các trục bánh xe đang quay. Thỉnh thoảng
máy gầm gừ, khục khặc, như người bịnh lên cơn suyễn. Từ hầm máy bốc lên mùi dầu
dư hôi rình khét lẹt. Tôi sợ quá nhìn lên phòng lái để kiếm Hốt, thấy mặt chị
Thuần, chị Điệp xám ngoét. Tư Trần Hưng Đạo, Út Trung, Dân gì đó ngồi co ro,
hai mắt mở to thao láo. Không ai nói với ai tiếng nào. Một nỗi im lặng kinh
hoàng, hầu như không ai dám thở mạnh nữa. Bi thì mệt lã nằm thiêm thiếp trên
tay Duyên. Tôi nhìn kỹ mặt Duyên. Nàng sợ quá, khuôn mặt xác sơ, không còn một
chút sinh khí.
Tôi nghĩ đến cảnh ghe bị đụng đá ngầm. Sức va chạm mạnh quá,
lườn ghe bung ra bể thành lổ hổng lớn. Nước bên ngoài ùa vào, sóng vỗ tới tấp
ghe lắc qua lắc lại chừng vài lần là chìm lĩm. Phải làm sao đây, tôi và Duyên
đều không biết lội. Mà dầu cho biềt lội cũng không ăn thua gì. Biển cả lại bao
la. Bi còn quá nhỏ. Viễn ảnh nguy vong khiến tôi muốn nghẹt thở. Trong phút
chốc nỗi hối hận tràn ứ. Trời ơi! đoạn đường nguy hiểm chết sống, tại sao lại
đem vợ con theo. Trên ghe lại có biết bao nhiêu anh em ruột thịt, bạn bè thân
tình. Thương nhứt là Bi mới có mười chín tháng, chưa tội tình gì mà phải chấp
nhận gian lao. Ôi! nếu có bề gì thì sao? Tôi ruột rối như tơ vò. Trong cái im
lặng hãi hùng đó, từ trong khoang ghe có tiếng đọc kinh rì rầm. Đủ giọng Nam,
giọng Bắc, nhiều nhứt là giọng mấy bà già Tàu lơ lớ. Tôi vụt tỉnh người. Tại
sao mình không cầu nguyện như họ. Nghĩ xong tôi ngồi im cầu nguyện Phật Bà cứu
độ. Trong lúc quính quáng sợ hãi, tôi cũng không biết phải cầu nguyện ra sao
nữa. Tuy rằng nhà tôi theo đạo Phật, ba má tôi thường đi chùa nhưng thiệt tình
mà nói tôi chở ông bà tới nơi, xong rồi đi chơi, tới giờ lại rước về. Tôi hầu
như ít khi bước vào trong một chốn tôn nghiêm, dù là chùa hay nhà thờ, thánh
thất. Có lẽ tôi sợ chốn tôn nghiêm vì xét kỹ bản thân thấy còn nhiều trần tục.
Bước vào đó sợ làm ô uế cửa thiền chăng? Cho đến giờ phút nầy kề cận cái chết
tôi vụt nghĩ đến cái phao thiêng liêng. Tôi bèn quên hết mọi chuyện, mặc cho
tiếng sóng gào thét quay cuồng, mặc cho tiếng máy khục khặc, mặc cho cái ghe trôi
nổi lắc lư, mặc cho những cục đá trơ vơ trồi lên giữa biển, tôi nghĩ tới bóng
dáng Phật Bà Quan Âm mặt mày hiền từ nhân hậu đẹp đẽ, đứng trên những hoa sen
giữa biển khơi cầm cành dương rảy nước cam lồ để cứu vớt chúng sinh. Tôi nhắm
mắt lại nghĩ trong đầu những chữ... Nam Mô cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát.
Không biết tôi cầu nguyện như vậy có đúng không .. Nam Mô cứu khổ, cứu nạn...
Trong lúc tôi đang lâm râm cầu nguyện thì mũi ngửi thấy mùi khói
nồng. Ai đó đã đốt giấy tiền vàng bạc để cúng. Đã cầu nguyện khấn vái rồi mà
lại đốt thêm ba cái vụ nầy. Rủi cháy ghe thì sao? Bây giờ mấy bà già Tàu đọc
kinh ê a thật lớn, không còn e dè gì nữa. Họ đọc líu lo, nhịp nhàng. Chắc là
nước sắp tràn vô tới nơi rồi. Tôi còn quá trẻ. Duyên trẻ hơn và Bi còn nhỏ xíu.
Cả đời tôi chưa hề làm một điều gì xấu xa để phải ân hận, lẽ nào trời đất không
thương. Tôi đã sợ mà những người xung quanh lại làm cho tôi sợ hơn. Tôi quýnh
quá nghĩ tới Trời Phật, Thánh Thần, Ông Bà Tổ Tiên, Thổ Địa, Hà Bá, Long Vương,
ma quỷ... những vị khuất mày khuất mặt, ước mong một vị nào đó động lòng nhơn
từ dắt chiếc ghe nầy tới chỗ yên ổn.
Trong cái nỗi sợ hãi tràn ngập đó tôi vụt trở nên tin tưởng.
Không tôi không thể chết trong chuyến vượt biên nầy. Tôi mở mắt ra, xoè bàn tay
mặt rồi bàn tay trái. Trong lòng bàn tay hai đường chỉ sanh đạo hiện rõ nét dài
ngoằn chạy sóng đôi, một đậm một lợt không gián đoạn. Đường sanh mạng đôi tốt
quá, làm sao có thể chết vào tuổi nầy được. Không tôi không thể chết! Lời cụ
Diễn năm nào, bây giờ lại văng vẳng bên tai... “ Đời ông có những lúc khó khăn,
nhưng chuyện gì rồi cũng vượt qua. Không phải do tài sức ông đâu, cứ bình thản
đừng sợ hãi, tự nhiên khó khăn sẽ tan.”
Lạy trời cho khoa chỉ tay đúng, lạy trời cho lời cụ Diễn đừng
sai. Tôi sợ quá thành ra đâm bám víu điều gì có thể bám víu được để hy vọng.
Đến khi tôi mở mắt ra thì Hốt đã cho ngừng ghe lại. Dân và Cường nhảy xuống
nước để coi lại chưn vịt cùng đáy ghe. Tôi nhìn lên mặt anh ta để đoán coi anh
có hốt hoảng hay không. Cái mặt nắng cháy đen thui, khó đoán quá. Anh ít nói,
ít cười, suốt ngày lầm lỳ. Tôi chờ nghe tiếng nước chảy rịn, cái va chạm quá
lớn, thế nào lườn ghe cũng bị nứt. Nhưng may quá, đáy ghe chỉ bị trầy sơ. Hốt
đứng nhìn xuống nước hồi lâu rồi quay trở về phòng lái. Tiếng máy ghe đã nổ lại
nhịp bình thường, ghe quay mũi rồi trở về hướng cũ. Vùng đá ngầm càng lúc càng
xa. Lườn ghe chưa nứt nên nước chưa vô được trong khoang hầm. Tôi bình tâm lại
nhìn xuống nước. Nước biển đã xanh thẩm. Chỗ nầy biển sâu lắm rồi, không sợ mắc
cạn nữa đâu. Tạm thời yên tâm về mặt an toàn nhưng ghe lại trở về chốn cũ.
Trời! trở về chỗ hồi sáng nơi Chiêu và Hiếu bị đánh hay là về cái đảo Dừa có
bọn lính hung hãn? Chiếc BL 1648 hiện đang ở cảnh tiến thoái lưỡng nan, đi tới
thì e lạc đường, đảo Bidong ở đâu không thấy, về thì không có chỗ dung thân.
Làm sao bây giờ. Tình cảnh của chúng tôi bây giờ lâm vào ngõ bí. Đi thì cũng
dở, ở không xong.
Chèo ghe xuống biển bắt cua
Bắt cua cua kẹp, bắt rùa rùa bơi
Bắt cua cua kẹp, bắt rùa rùa bơi
Trời càng lúc càng tối. Lác đác trên bầu trời đã có sao mọc. Cuối
cùng thì ghe cũng phải trở về hòn đảo Dừa ban trưa, đậu cặp cầu tàu. Bên trong
đảo thấv có nhà, đèn điện sáng, ý định của tài công là đậu tạm để ngủ qua đêm,
ngày mai sẽ khởi hành đi Singapore sớm. Mã Lai xấu quá, không thể chơi được nữa
rồi. Ghe tắt máy. Sóng đánh rập rình, nó lắc lư mạnh hơn khi còn máy nổ. Tôi
nhủ thầm “thôi kệ, được đậu cặp bến nầy dầu sao cũng đỡ, có gì còn bám víu lội
đại vô bờ, còn hơn chạy lang thang suốt đêm ngoài khơi” Thừa lúc có người bên
cạnh di chuyển, tôi lẹ làng duỗi thẳng cái chưn ra cho đỡ mõi. Nếu có một người
đi nữa thì có thể nằm xuống được cho đỡ cái lưng. Tôi tưởng tượng nếu mà đêm
nay có chỗ để nằm ngủ thì chắc là sướng như tiên!
Trên cầu tàu, dọc hai bên có những ngọn đèn thật lớn chiếu cái
ánh sáng chấp chóa xuống mặt nước đen loang loáng. Chỗ ghe đậu khá xa nên trong
khoang ghe tối mù mù. Trong cái im lặng mênh mông của biển cả chợt có tiếng nổ
của động cơ một chiếc xuồng máy nhỏ lẫn trong tiếng sóng. Tiếng động cơ càng
lúc càng rõ dần. Trong đảo có người đi ca nô ra liên lạc. Trời tối mờ mờ nên
không nhìn rõ. Chiếc ca nô nổ máy inh ỏi trong đêm khuya, chạy xẹt thật nhanh
vòng qua cầu tàu rồi đậu cặp vô ghe. Trên đó có ba người mặc thường phục nhưng
có mang súng. Họ quát tháo um sùm bằng tiếng Anh. Chị Thuần ra liên lạc. Thiệt
là chán hết sức. Bây giờ đậu tạm qua đêm mà cũng không cho! Tôi bực mình nên
không thèm để ý nữa. Cả ngày mệt mõi, tôi dựa lưng vô thùng nước mà nghỉ ngơi.
Ngày mai nầy ghe sẽ đi Tân Gia Ba, lo chi cho nhức đầu. Chỗ tôi ngồi khá xa nơi
hai bên đối đáp. Trên ghe mọi người đứng vây quanh để theo dõi. Bỗng dưng nghe
tiếng quát tháo thật lớn, rồi tiếng người rớt xuống nước. Có người la lên “Chị
Thuần bị tụi nó đánh rớt xuống biển rồi!” Trời ơi! Cái bọn gì rừng rú quá, đánh
luôn cả đàn bà con gái. Trên ghe rối rít Cương và Dân quăng phao xuống để vớt
chị lên. Cũng may chị biết lội giỏi, cả người ướt như chuột lột, mặt tái xanh.
Thái độ mấy người Mã trên đảo hầm hừ dữ tợn. Sau cùng thì mới biết họ cho phép
đổ bộ lên đảo theo lịnh của họ. Mãi cho đến bây giờ tôi vẫn thắc mắc là cho
phép đổ bộ hay là bắt buộc đổ bộ? Vì tài công đã định là đậu tạm để ngày mai đi
sớm, tại sao bây giờ lại xuống đảo Dừa? Có thể là sự hiểu lầm giữa hai bên vì
ngôn ngữ bất đồng. Thôi vậy cũng được còn hơn là suốt đêm ngồi trên ghe lắc lư
nguy hểm. Tôi đã ngán cái cảnh sóng dập gíó dồi, nếu tiếp tục đêm nay rồi ngày
mai nữa... rồi có đi tới Singapore hay Indonésia không? Như cái bong bóng xì
hơi, tôi mệt mõi quá rồi, đã mấy ngày đêm ngồi bó gối, phơi mình ngoài nắng
gió, không cục cựa nhúc nhích, tiêu tiểu gì cũng khó khăn hôi hám... Lên bờ đã,
rồi sẽ tính sau, miễn là còn sống, đừng bị sứt mẻ gì !
Mọi người chuẩn bị đồ đạc để đổ bộ trong cảnh tối đen. Trong lúc
nửa mừng nửa lo có tiếng của bọn lính Mã hét vang rân:
-Đàn bà con nít thì đi lên ngả cầu tàu. Còn đàn ông con trai chỉ được mặc quần xà lỏn nhảy xuống biển để lội vô bờ!
Trời! nhảy xuống biển để lội vô bờ! Tôi điếng người không biết phải phản ứng ra sao, từ đây vô bờ còn xa quá, không biết lội có nổi không? Đã có tiếng người nhảy xuống đùng đùng ở mũi ghe, lẫn trong tiếng sóng có tiếng la hét, quát tháo y như cảnh cai ngục đối xử với tội nhơn. Tiến ngồi kế bên nghĩ như thế nào không biết, bỗng nói:
-Chết cha rồi, cả cái đảo dừa dầy đặc, nó bắt anh em mình leo lên hái dừa, hoặc phát cho một người một cái búa lên rừng đốn củi, lao động khổ sai trong rừng sâu. Cái điệu nầy, chịu sao cho nổi.
Tiến nói tới đâu tôi run tới đó. Tôi quính lên không còn toan tính gì được nữa. Ở trên ghe, đàn ông con trai đã nhảy xuống biển gần hết. Tôi lật đật cởi hai cái quần tây đang mặc cùng ba cái áo bỏ đại trên sàn ghe. Trong bụng kể như mất hết, tụi Mã Lai ăn cướp điệu nầy thì làm sao mà giấu. Trong số quần áo quăng lại đó có một ít tiền và vàng giấu bên trong, tôi quên phứt không giao lại cho Duyên.
-Đàn bà con nít thì đi lên ngả cầu tàu. Còn đàn ông con trai chỉ được mặc quần xà lỏn nhảy xuống biển để lội vô bờ!
Trời! nhảy xuống biển để lội vô bờ! Tôi điếng người không biết phải phản ứng ra sao, từ đây vô bờ còn xa quá, không biết lội có nổi không? Đã có tiếng người nhảy xuống đùng đùng ở mũi ghe, lẫn trong tiếng sóng có tiếng la hét, quát tháo y như cảnh cai ngục đối xử với tội nhơn. Tiến ngồi kế bên nghĩ như thế nào không biết, bỗng nói:
-Chết cha rồi, cả cái đảo dừa dầy đặc, nó bắt anh em mình leo lên hái dừa, hoặc phát cho một người một cái búa lên rừng đốn củi, lao động khổ sai trong rừng sâu. Cái điệu nầy, chịu sao cho nổi.
Tiến nói tới đâu tôi run tới đó. Tôi quính lên không còn toan tính gì được nữa. Ở trên ghe, đàn ông con trai đã nhảy xuống biển gần hết. Tôi lật đật cởi hai cái quần tây đang mặc cùng ba cái áo bỏ đại trên sàn ghe. Trong bụng kể như mất hết, tụi Mã Lai ăn cướp điệu nầy thì làm sao mà giấu. Trong số quần áo quăng lại đó có một ít tiền và vàng giấu bên trong, tôi quên phứt không giao lại cho Duyên.
Trên người chỉ còn cái quần cụt mỏng manh, tôi đi lần ra sau lái
để kiếm chỗ nhảy xuống. Ở dưới, nhiều người đang lội lỏm bỏm vô bờ. Tiếng nhảy
đùng đùng, tiếng lội lỏm bỏm, tiếng sóng rào rào, tạo thành một thứ âm thanh
hồi hộp căng thẳng. Thấy có một anh bạn cầm phao đứng chờ, tôi liều gan nhảy
đại. Đã quá, đã quá, làn nước mát rượi mơn man da thịt. Ba ngày ba đêm khổ sở
trên ghe, nóng bức dơ dáy, nhớp nhúa, mình mẩy đầy mồ hôi, mùi ói mửa, bây giờ
được dầm mình trong nước biển mát lạnh ban đêm, sảng khoái tận cùng trong kẻ
tóc chưn lông. Tôi tỉnh táo hẳn ra. Chỗ nầy nước cạn, vừa trầm mình xuống, chưn
đã chạm mặt cát mịn, tôi lặn hụp một hồi lâu để cho nước thấm vô tóc, vô da,
rửa bớt đi lớp bụi bặm mấy ngày qua. Những lớp bụi, bùn sình, cáu ghét Cà Mau
bây giờ được nước biển mặn chát ở đảo Dừa Mã Lai gột sạch. Gột thiệt sạch...
Tôi đi lần vào bờ, có một người lính Mã Lai đen thui tay cầm
tiểu liên xỉa ngay vô bụng. Tôi ngoan ngoản đưa hai tay lên trời, bụng rủa thầm
“Thôi mà bạn, lấy gì thì cứ lấy, cần gì phải súng ống, ghê quá!” Hắn vuốt hai
tay tìm đồng hồ, cà rá, rồi rờ cổ tìm dây chuyền. Không có gì hết, hắn khoát
tay ra dấu bảo lên bờ rồi xét người kế tiếp. Trên bờ, trong bóng tối tù mù, một
đám người đông đảo nói chuyện xì xào di động như những bóng ma. Lần lần họ ngồi
chùm nhum lại với nhau. Trời tối chập choạng không thể phân biệt người nầy với
người kia, Đã độ mười giờ khuya, trời trong vắt đầy sao. Đằng kia, cầu tàu mở
điện sáng trưng. Bên trong đảo là rừng dừa âm u. Tôi chợt nhớ lại lời nói của
Tiến mà ớn xương sống -nó bắt tụi mình leo dừa hái trái cho nó, rồi phát mỗi
người một cây búa... dừa ở đây mọc hoang hàng muôn triệu cây, phải leo tới
chừng nào mới hái cho hết, thiệt tình tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa! Rừng Mã Lai toàn
là rừng già, dây leo chằng chịt, lao động làm sao cho nổi?
Trong các bụi rậm, thấp thoáng có lính Mã Lai mặc quân phục rằn
ri thủy quân lục chiến, súng ống hẵn hòi đứng gác. Một người lính gom các tàu
dừa khô rớt rải rác đó đây lại thành một đống. Chỉ trong vài phút anh ta đã kéo
được mấy chục tàu, nhiều quá. Lá dừa rụng vương vải đầy khắp. Lá khô gặp lửa
bốc cháy phừng phừng. Ánh sáng chập chờn chiếu mờ mờ một góc đảo. Tụi tôi nhìn
ra đựơc mặt nhau. Tô Tỷ, Út Trung, Sơn, Tư Trần Hưng Đạo... mừng rỡ ríu rít.
Sơn cười ngặt nghẽo:
-Thằng lính Mã nó rờ tìm nhẫn với cà rá. Sức mấy mà tìm cho ra,
tôi đeo ở ngón chưn!
Trong khi đó Út Trung mặt chầm dầm:
-Gia tài có cái Seiko Five nó lột trụi lũi...
Trong khi đó Út Trung mặt chầm dầm:
-Gia tài có cái Seiko Five nó lột trụi lũi...
Cả bọn ở trần trùng trục, quần ngắn ướt mem lạnh run, được gần
lửa ấm mừng rỡ vây quanh để sưởi. Năm ba bẹ dừa khô cứng bắt lửa, nổ lách tách,
bắn những cái tàn lửa đỏ hồng văng ra xa. Thỉnh thoảng người lính kéo vài tàu
mới quăng vô thêm. Ngọn lửa bùng lên cao, tro than bay tứ tung. Những tia lửa
vàng của những mảnh than vụn xẹt như pháo bông. Giống y như mỗi hè cùng học
sinh đi cắm trại đốt lửa ở bãi sau Vũng Tàu, chỉ thiếu cảnh nhảy múa, tiếng
hát, tiếng nhạc, tiếng trống bập bùng...
Tôi lo lắng cho mẹ con Bi và mấy đứa em, đưa mắt tìm kiếm chiếc
ghe. Bây giờ thì nó được kéo về đậu cặp bên xà lan lớn sát cầu tàu. Vì ở khá xa
nên không phân biệt được từng người. Tôi rán nhìn để tìm Duyên bồng con nhỏ.
Thấy có một bà bồng con, tưởng là nàng. Nhè đâu sau đó có tới ba bốn bà khác
cũng bồng con, không biết được bà nào là vợ mình! Tư Trần Hưng Đạo đứng cạnh
bên cũng đang ngóng cổ mà nhìn. Phải cả giờ sau toán đàn bà con nít mới đi tới
gặp được toán đàn ông. Duyên gặp được tôi, mừng rỡ nói huyên thiên. Tôi bồng
lấy Bi, thằng nhỏ ngơ ngác ngó vô lửa sáng coi bộ thích chí. Hai con mắt láo
liêng như mắt thỏ. Duyên đưa cho tôi hai cái áo và cái túi vật dụng tùy thân.
Cứ tưởng đã mất hết, nào ngờ nàng còn giữ được...
Quang cảnh bờ biển lúc nầy như đêm đốt lửa trại. Ở giữa là đống
lửa thiệt lớn cháy bập bùng, ngọn lửa hồng ấm áp. Xung quanh là đàn ông, đàn
bà, con nít, ríu rít, quây quần, líu lo, mừng rỡ, đông nghẹt cả một vùng. Người
ta kể lể, hỏi thăm, chạy kiếm nhau. Tôi gặp được lần lần các em và người thân
đông đủ, không thiếu một ai, mừng quá. Cả ghe đổ bộ, tất cả đều an toàn. Tôi
nhìn ra biển khơi, trời tối mịt. Trên bầu trời thăm thẳm, những vì sao dầy đặc
trên cao lấp lánh. Chắc trên đó có Phật Bà Quan Âm nhìn xuống chúng tôi mỉm
cười. Nụ cười thương yêu. Tự nhiên tôi cảm thấy có cái gì linh thiêng mầu nhiệm
gắn bó giữa con người với con người, con người với thần thánh Trời Phật, với vũ
trụ vô cùng. Cầu trời cho tất cả đồng bào tỵ nạn lênh đênh nơi chưn trời góc
biển, tất cả đều gặp may mắn như mọi người trên ghe chúng tôi, đêm nay!
Bọn lính Mã Lai tách toán đàn bà con nít và toán đàn ông ra
riêng. Toàn đàn ông được dồn vào cuối bãi cát, tận cùng có vách đá chắn ngang.
Toán còn lại ở tại chỗ bị kiểm soát để kiếm vàng bạc châu báu. Chiếc ghe được
cột chắc vô cầu tàu, một dây nữa cột vô gốc dừa mọc nghiêng trên mặt cát. Sóng
đánh nó ngã qua ngã lại, đụng cái vỏ cứng vô xà lan sắt nghe rầm rầm. Bây giờ
nó có bị nứt ra từng mảng đi nữa, tôi cũng không sợ. Tôi lắng nghe dòng máu
trong người, mấy ngày nay hầu như nghẹt cứng bây giờ được lưu thông điều hòa.
Tôi đi tới đi lui cho giãn gân giãn cốt. Trong người thiệt tỉnh táo khỏe khoắn.
Một đống lửa mới to hơn đống lửa cũ được đốt lên. Vách đá chập chùng, ánh lửa
chiếu sáng lắt lay, một đám người trần trụi bu quanh như trong hang động thời
tiền sử. Nơi nào có lửa là có sự sống, có hy vọng tin yêu. Tôi chọn một chỗ gần
sát lửa ấm, đặt thẳng cái lưng xuống làn cát phẳng phiu, nằm gối đầu trên một
bẹ dừa nhỏ, nhìn những tia lửa đỏ hồng nhảy múa chập chờn. Những người khác,
tất cả cùng nằm ngang nằm dọc xoay quanh đống lửa để ngủ đêm nay. Bên trên là
bầu trời đầy sao sáng. Ngoài kia là sóng biển vổ vào ghềnh đá ầm ầm. Tôi ngủ mê
man như chết đến nỗi không còn thấy được... chiêm bao!
Võ Kỳ Điền
(Pulau Bidong Miền Đất Lạ, chương 10)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét