Dù với mật độ xây dựng dày đặc hàng đầu châu Âu, ở bất cứ khu phố nào của Paris, từ quận trung tâm đến giáp ngoại vi, cư dân và du khách vẫn dễ dàng tìm thấy một ốc đảo xanh mát để dừng chân, thư giãn, nhất là trong những ngày hè nóng nực. Có được điều đó là vì thủ đô Paris sở hữu kho tàng quý giá vườn và công viên đa dạng về phong cách, với lịch sử gần 4 thế kỷ hình thành.
Nghệ thuật vườn Pháp cổ điển : Từ vườn Phục Hưng Ý đến phong cách vườn Le Nôtre
Cho đến trước thế kỷ 16, cảnh quan tự nhiên của thành Paris chỉ là những vườn rau quả, đất nông nghiệp, những cánh rừng hay cảnh sắc tự nhiên của các dòng sông, mặt nước. Đến đầu thế kỷ 18, theo nghiên cứu của Viện nghiên cứu quy hoạch Paris (APUR), tính cả các khu vườn tư gia, không gian xanh chiếm đến 73% diện tích toàn Paris. Các khu vườn cảnh trang trí có thiết kế cầu kỳ, bài bản chỉ thuộc khuôn viên của các lâu đài, dinh thự hay nhà thờ, tu viện. Đây thường là những khu vườn khép kín, sau những bức tường đá cao hay là sân trong bao bọc bởi các toà nhà.
Lịch sử các vườn hoa, công viên của Pháp bắt đầu được đánh dấu từ thế kỷ 16. Những khu vườn thượng uyển đầu tiên, như vườn của cung điện Tuileries rồi đến Luxembourg, lần lượt ra đời dưới thời hoàng hậu Catherine de Médicis và thái hậu Marie de Médicis, cả hai đều xuất thân từ là công tước vùng Florence - cái nôi của nghệ thuật vườn Ý. Chịu ảnh hưởng nghệ thuật Phục Hưng Ý, các vườn thượng uyển Paris thời ban đầu mang nhiều phong cách của đất nước này.
Từ nền tảng đầu tiên đó, thế kỷ 17 chứng kiến sự phát triển rực rỡ của nghệ thuật vườn kiểu Pháp. Kế thừa những nét cơ bản của nghệ thuật vườn Phục Hưng Ý vùng Florence, phong cách vườn kiểu Pháp đã phát triển lên tầm cao mới, có quy mô và ý đồ thiết kế rõ ràng hơn. Người có công đầu và tên tuổi gắn liền với thành công này là nhà thiết kế cảnh quan đại tài André le Nôtre. Nối nghiệp truyền thống ba đời thiết kế vườn hoàng gia, ông là cha đẻ của khu vườn cung điện Versailles được xây dựng dưới thời vua Louis XIV.
Chính Le Nôtre cũng là người được giao thiết kế lại vườn Tuileries, cùng với hàng loạt khu vườn lâu đài trên khắp nước Pháp, giờ đều trở thành những di sản vườn quý giá, như vườn lâu đài Vaut-le-Vicomte, Chantilly, Saint-Cloud, Sceaux ... Kiểu mẫu vườn Versailles trở thành mẫu mực, được nhân rộng ra khắp các khu vườn của châu Âu thời bấy giờ. Thậm chí quy hoạch ban đầu của thủ đô Washington, Hoa Kỳ do nhà quy hoạch Pháp Pierre-Charles L’Enfant thiết kế, còn được mô phỏng theo bố cục của quần thể vườn cung điện Versailles.
Tầm nhìn mở ra đến tận chân trời
Những khu vườn phong cách Pháp thường đặc biệt chú trọng vào luật phối cảnh và thị giác. Nếu nghệ thuật vườn Phục Hưng Ý, điểm mạnh nằm ở việc hài hoà với khung cảnh xung quanh thì đến nghệ thuật vườn Pháp do Le Nôtre phát triển, không gian tự nhiên, bầu trời, ánh sáng đã thành một phần của bố cục, các giới hạn bị phá bỏ. Cảnh quan vườn trải dài hết tầm mắt, đến cuối đường chân trời. Nghệ thuật vườn Pháp có tính thẩm mỹ và biểu tượng cao, thể hiện tư tưởng con người thời đó : chế ngự, làm chủ thiên nhiên. Với triết lý tư duy con người chiến thắng, chinh phục thiên nhiên hoang dã, cái đẹp nằm trong sự trật tự, tỉ lệ. Vì thế, tính vần luật được áp dụng lên tự nhiên, thậm chí sửa đổi nó.
Rất nhiều thủ pháp thị giác được đưa vào trong thiết kế của André le Notre, tiêu biểu như thủ pháp « phối cảnh chỉnh sửa ». Ở vườn Versailles, kích thước các hồ nước, thảm cỏ và khối cây được thiết kế rộng dần ra ở phía xa cuối đường chân trời, để từ mỗi vị trí nhìn là những bậc thềm độ cao khác nhau, khung cảnh như được kéo gần lại, không bị hút nhỏ ở phía xa theo luật thị giác thông thường, để vẫn giữ được sự cân xứng song song và tỉ lệ đồng nhất.
Trả lời phỏng vấn RFI Pháp ngữ, Pierre-André Lablaude, kiến trúc sư trưởng về công trình lịch sử, phụ trách vườn cung điện Versailles, phân tích « đặc trưng đầu tiên của nghệ thuật vườn của Le Nôtre là tính đối xứng, đó là nguyên tắc cho sự hoàn hảo ». Từ trên cao nhìn xuống, trật tự đối xứng của lối đi và mảng khối kỷ hà vừa tương phản, vừa tôn lên sự uốn lượn mềm mại của luống cây. Các trục, tuyến, giao điểm, được bo viền, tạo khối bằng các khối cây cắt tỉa kỹ lưỡng hình khối vuông vắn. Các vòi phun nước hay mặt hồ tạo điểm nhấn và dẫn dắt lối đi dạo. Tất cả kết hợp nhuần nhuyễn tạo thành một bức thảm thêu tuyệt đẹp khổng lồ trải ra giữa đất trời.
Nghệ thuật vườn Anh Quốc : Trả lại vẻ đẹp tự thân của thiên nhiên
Về mặt phong cách thiết kế, chính Napoléon đệ Tam là người thúc đẩy đưa phong cách vườn Anh Quốc vào Pháp hồi đầu thế kỷ 18. Nguồn tạo cảm hứng lớn cho Hoàng đế ấn tượng về không khí dễ chịu và vẻ đẹp của những khu vườn nước Anh, trong thời gian ông bị lưu đày trên đảo quốc này.
Đối lập hoàn toàn với phong cách vườn Pháp, nghệ thuật vườn Anh Quốc ra đời trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp, lại đề cao vẻ đẹp vốn có của tự nhiên. Nó xuất phát từ mong muốn cân bằng với khung cảnh cứng nhắc của các nhà máy, xí nghiệp. Con người thấy dễ chịu trong những vườn cây mọc tự do, không vần luật, không cắt tỉa khô cứng. Các yếu tố địa hình, dòng nước, thực vật được mô phỏng gần gũi với dáng vẻ tự nhiên. Các loại cây và hoa được lựa chọn đa dạng màu sắc, hình dáng, chủng loại …
Triết lý và phong cách này cũng nhanh chóng được lan rộng ở châu Âu, kéo dài đến đầu thế kỷ 20. Ở Pháp, những khu vườn kiểu Anh mọc lên ngay trong những khu vườn phong cách Pháp cổ điển. Từ Tuileries đến Versailles, một góc vườn hoa được dành thiết kế theo kiểu vườn Anh. Ngày nay, khi đến thăm vườn Versailles, du khách sẽ nhận thấy sự đối lập này khi rời vườn chính, rẽ sang khu vườn Trianon, được thiết kế hoàn toàn theo phong cách tự nhiên, lãng mạn của vườn kiểu Anh.
Những khu vườn xây mới dưới thời Napoléon trở về sau cũng đều theo phong cách này. Đó cũng là biểu hiện sự biến đổi tư duy trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Thiên nhiên ở đây không phải để chế ngự, mà là để hoà mình trong đó, tận hưởng và thư giãn.
Từ vườn dinh thự đơn lẻ đến hệ thống công viên công cộng : Xoá mờ dần những lằn ranh giai cấp
Về mặt sử dụng, từ thời kỳ Trung Đại và Phục Hưng, những khu vườn này đều thuộc sở hữu riêng của Hoàng cung, giới quý tộc hoặc Giáo hội. Ngay cả các cánh rừng lớn như Boulogne, Vincennes hay Saint-Germain-en-Laye đều thuộc sở hữu của nhà vua, là nơi hoàng tộc nghỉ ngơi và săn bắn.
Dần dần, các khu vườn thượng uyển cũng mở cửa cho công chúng, nhưng có sự chọn lọc và phân biệt với từng tầng lớp khác nhau. Như vườn Tuileries, từ thế kỷ 18, có mở cửa trong tuần cho hoàng tộc, còn giới quý tộc chỉ được đến viếng thăm vào ngày Chủ Nhật. Mỗi năm một lần, vào dịp lễ thánh Louis, vườn thượng uyển mở cửa cho binh lính và người lao động.
Phải chờ đến sau Cách mạng Tư sản Pháp, lật đổ nền quân chủ chuyên chế vào cuối thế kỷ 18, các khu vườn hoàng cung, và nhiều lãnh địa của quý tộc được mua hoặc quốc hữu hoá, để mở đón mọi tầng lớp thị dân. Tuy vậy, sự chuyển đổi này vẫn mang những dấu ấn của phân chia giai tầng trong xã hội. Các giới khác nhau thường lui tới những địa điểm tách biệt. Vườn Tuileries vẫn chia khu vực riêng giữa giới thượng lưu và dân thường ở hai cánh của vườn.
Giới thượng lưu coi việc đi dạo là một hoạt động có lợi cho sức khoẻ để hưởng không khí trong lành. Nếu vườn Luxembourg là nơi nghỉ ngơi thư giãn với gia đình, yên tĩnh suy tư, đọc sách hay trò chuyện, thì vườn Tuileries hay đại lộ Champs Elysées lại là nơi để giới thượng lưu chưng diện, giao lưu. Giới trung lưu và dân thường lại hay chọn nghỉ ngơi ở những cánh rừng, thảm cỏ rìa thành phố, thường kết hợp với những lễ hội, trò chơi hay tụ họp ở những quán rượu.
Công viên công cộng trong một tư duy hoạch định hệ thống
Sang đến thời kỳ Cách mạng công nghiệp thế kỷ 19, vai trò của cây xanh không còn chỉ giới hạn ở trang trí, làm đẹp, mà là một yếu tố của vệ sinh, chất lượng đời sống đô thị. Chính mong muốn xây dựng thủ đô Paris thông thoáng, sạch sẽ hơn, mà Hoàng đế Napoléon đệ Tam đã cho tiến hành cuộc đại quy hoạch lại thủ đô. Trong đường lối chung này, lần đầu tiên các không gian xanh được nhìn nhận không đơn lẻ, mà trong một tổng thể, cấu thành một hệ thống phủ khắp đô thị.
Phần công việc đồ sộ đầu tiên của Adolphe Alphand - kỹ sư trưởng phụ trách quy hoạch cây xanh, là cải tạo lại hai cánh rừng Boulogne và Vincennes, sửa sang, thiết kế lại và trồng thêm cây ở những vườn hoa, đường dạo hiện có, để mở cho đại chúng. Nhưng di sản cảnh quan lớn mà nhà hoạch định này để lại, là việc thiết kế hai công viên lớn là Buttes-Chaumont ở phía đông bắc và Montsouris ở phía nam. Cùng với đó là 24 vườn hoa mới và các đại lộ được mở rộng và trồng thêm hàng ngàn cây xanh, tạo mạng lưới những điểm và trục xanh rải đều khắp thành phố.
Cũng như Le Nôtre, một lần nữa, một nhà quy hoạch cảnh quan đã góp phần làm kinh đô ánh sáng Paris trở thành tâm điểm chú ý của quốc tế. Chính Adolphe Alphand là người phụ trách thiết kế khu vực Triển lãm Hoàn Cầu diễn ra tại Paris các năm 1867, 1878 và 1889. Tâm điểm là việc thiết kế ngoạn mục toàn bộ cảnh quan khu vực Champ-de-Mars và Trocadéro trải rộng trên 46 hectare, đón triển lãm đầu tiên năm 1867.
Từ thành công này, ông đã nâng triển lãm lên tầm thế giới. Hai cuộc triển lãm sau đó, ông tham gia lần lượt vào hội đồng thẩm định rồi tổng giám sát và điều hành xây dựng, thu được thành công vang dội. Lượng khách tham quan và số công ty tham dự cũng ngày càng đông : từ gần 52 ngàn công ty với 15 triệu lượt khách năm 1867 lên 62 ngàn công ty và 32 triệu khách năm 1889 trong vòng 6 tháng triển lãm. Chính ông cũng là người ủng hộ việc xây dựng tháp Eiffel cho Triển lãm Hoàn cầu 1889. Ngày nay, quần thể công viên, quảng trường Trocadéro kéo dài đến Champ-de-Mars và tháp Eiffel đã trở thành biểu trưng không những của Paris mà của cả nước Pháp.
Như vậy, kế thừa di sản nghệ thuật vườn cổ điển Pháp, với tầm nhìn quy hoạch mạng lưới cây xanh bài bản ở nửa cuối thế kỷ 19, mà kho tàng vườn, công viên của Paris vừa phong phú và có giá trị nghệ thuật cao. Từ đó đến nay, đây đều là những không gian công cộng, không còn ranh giới giai tầng xã hội. Ở đó, thiên nhiên ngày càng được trân trọng, gần gũi và quý báu với sức khoẻ và tinh thần của cư dân đô thị.
BacLieu
Khách sạn sâu trong lòng đất nhưng có giá trên trời...
bởi nó không nằm trên mặt đất mà nằm sâu 155 mét trong một hầm mỏ.
thậm chí cả tín hiệu điện thoại di động cũng không có, vì vậy việc xem tivi hay kết nối internet là điều không thể.
có gì khiến cho du khách chấp nhận bỏ ra một số tiền không nhỏ để đến và tá túc lại.
nhưng khách sạn có thiết bị sưởi ấm, đảm bảo mọi người sẽ không bị cảm lạnh.
Nhà bác học Von Braun...
1/ Thuở thiếu thời.Wernher Von Braun sinh ngày 23 tháng 3 năm 1912 tại Wirsitz, tỉnh Silisie, thuộc miền đông của nước Đức, phần đất này ngày nay đã thuộc về nước Ba Lan. Wernher là con thứ hai trong ba người con trai của Nam Tước Magnus Von Braun. Cha ông là một điền chủ nghiêm nghị, đã từng tham gia vào việc chính trị của nước Đức thời Cộng Hòa Weimar, còn mẹ ông, bà Emmy Von Quistorp, là người rất say mê Thiên Văn Học. Bà thường dẫn các con lên sân thượng vào các buổi tối và chỉ cho các con những hành tinh cùng các vì sao lấp lánh trên bầu trời. Vì vậy Wernher đã ước mơ một ngày kia ông có thể đặt chân lên các thiên thể xa lạ đó.Mới 13 tuổi, Wernher đã ưa thích chơi pháo. Ông nhồi thuốc súng vào một chiếc xe của trẻ em rồi châm lửa đốt. Chiếc xe chạy thục mạng như một con quái vật, gây kinh hoàng cho khách qua đường và làm cho bầy ngựa bạt vía. Ông bị cảnh sát dẫn về nhà. Ông Magnus nghiêm mặt lại và mắng : “Wernher, mày không được làm mang tiếng tao như vậy. Tao sẽ cho mày vào ở trong ký túc xá của một trường học cách đây 5 cây số để mày hết nghịch ngợm đi”. Thế rồi sang niên học mới, Wernher rời gia đình theo học tại một ngôi trường hẻo lánh tọa lạc trên một hòn đảo miền Frise. Tại nơi đây, ông không chăm chỉ học hành. Đối với các thầy giáo, ông là một học trò kém vì vị Hiệu Trưởng đã phê bình về cậu : “Học trò thiếu chăm chỉ, hoàn toàn dốt về Toán, khó lòng theo học nổi”.\Vào năm 1925, do tình cờ Wernher Von Braun được đọc một quyển sách về Thiên Văn. Trong cuốn sách này có vẽ một chiếc hỏa tiễn đang bay về hướng mặt trăng, kèm theo là một bài doHermann Oberth viết. Oberth là một trong vài lý thuyết gia đầu tiên về hỏa tiễn, cũng là đồ đệ của Tsiolkovsky, nhà tiên tri người Nga về cách chinh phục không gian. Cuốn sách của Obeth, “Hỏa tiễn trong không gian liên hành tinh”, đã làm ngạc nhiên nhiều người và làm điên đầu Von Braun. Cuốn sách gối đầu giường của dày hơn 100 trang này thật là khó hiểu đối với ông, vì nó chứa đựng rất nhiều phương trình bí hiểm. Ông quyết định xin cha cho học tư về Toán Học và Vật Lý. Có lần Von Braun đã nói “Toán Học rất cần thiết cho việc hiểu biết về cách đi đường trong không gian nên tôi quyết định tìm học”.Von Braun tiến bộ về Toán Học và Vật Lý đến nỗi ông có thể thay thế giáo sư giảng bài cho các bạn trong lớp mỗi khi giáo sư vắng mặt.Vào năm 1928, Hội Du Lịch Không Gian (Verein fur Raumschiffahrt) được Obeth lập ra. Hội này xuất bản mỗi tháng một tờ báo lấy tên là “Hỏa Tiễn” và tập họp được một số nhà bác học cùng các thanh niên Đức say mê hỏa tiễn. Trong số các độc giả của tờ báo Hỏa Tiễn có một thanh niên 16 tuổi, khổ người cao lớn, mắt xanh, tóc nâu, cằm vuông, biểu lộ nhiều nghị lực, đó là chàng Wernher Von Braun vừa học xong bậc trung học và đã ghi tên vào Viện Kỹ Thuật Berlin.Tới mùa thu năm 1929, Von Braun đến nhà ông Willy Ley và trình bày với ông ta về sở thích của mình đối với sự thám hiểm không gian.Von Braun lại muốn được ông Ley giới thiệu vào Hội Du Lịch Không Gian mà ông ta là một hội viên sáng lập. Ông Willey Ley liền dẫn Von Braun đi gặp Obeth và bắt đầu từ đó, Von Braun hãnh diện được vác trên vai các hỏa tiễn mà các bậc đàn anh sẽ phóng đi.Thời đó, nhà sản xuất điện ảnh danh tiếng Fritz Lang có ý định quay một cuốn phim về sự chinh phục không gian. Fritz Lang mời Obeth làm cố vấn kỹ thuật. Obeth nhận lời nhưng cũng không quên đòi hỏi một số tiền thù lao đủ để chế tạo một chiếc hỏa tiễn và Obeth dự định phóng hỏa tiễn đó vào ngày cuốn phim bắt đầu chiếu.Năm đó, cuốn phim “Một người đàn bà trên mặt trăng” của Fritz Lang mang lại đầy thành công trong khi việc phóng hỏa tiễn lại bị thất bại chua cay, trái với lời tán dương rầm rộ của báo chí. Nhưng các hội viên của Hội Du Lịch Không Gian không đến nỗi quá thất vọng. Theo ý họ, sở dĩ họ gặp thất bại về hỏa tiễn bởi vì chưa tìm ra được một thứ nhiên liệu có thể tạo nên một áp suất đủ mạnh cần thiết. Họ liền nhờ các nhà hóa học sáng chế ra một chất cháy mới.
Von Braun vác trên vai các hỏa tiễn (phảỉ)Tại Reinickendorf, ngoại ô của thành phố Berlin, có một khoảng đất trống. Hội Du Lịch Không Gian liền ký một giao kèo với Hội Đồng Thành Phố vào ngày 27-9-1930 để thuê khoảng đất kể trên với giá là 1,500 đồng trong một năm. Khoảng đất này được đặt tên một cách hãnh diện là “Phi Trường Hỏa Tiễn”. Phi trường này tuy sơ sài thật nhưng chỉ vài tháng sau, đã được khắp thế giới biết đến vì tính cách đặc biệt của nó. Nhiều người đã từ các nước Pháp, Mỹ, Anh… tới thăm. Có kẻ tình nguyện giúp sức vào công cuộc thí nghiệm. Tại nới đây có mặt đầy đủ các nhà kỹ thuật nhiều thiện chí : kỹ sư, thợ máy, hóa học gia, phi công… Hội Du Lịch Không Gian tuy không giàu về ngân quỹ nhưng các hỏa tiễn Mirak loại nhỏ cũng ra đời.Tính tới năm 1932, Oberth, Ley, Von Braun và các hội viên khác đã thành công trong 85 lần thử và một trong các hỏa tiễn đã lên cao được một dặm, đạt kỷ lục của thời đó.Mùa xuân năm 1932, Von Braun học xong chương trình kỹ sư của Viện Kỹ Thuật Berlin (the Berlin Institute of Technology) rồi hai năm sau, đoạt được văn bằng Tiến Sĩ Vật Lý của Trường Đại Học Berlin. Tuy nhiên, sự học hành không làm gián đoạn công cuộc theo đuổi ngành kỹ thuật hỏa tiễn của Von Braun.2/ Chế tạo hỏa tiễn.Vào năm 1931, quân đội Đức tìm kiếm một thứ khí giới mới, có tầm hoạt động xa mà không bị ngăn cấm bởi Hòa Ước Versailles. Hỏa tiễn có thể là thứ khí giới phù hợp với điều kiện trên. Đại úy kỹ sư Walter Dornberger được giao phó trách nhiệm phải viết một bản báo cáo về dự án đó. Ông ta liền tới thăm phi trường hỏa tiễn trong 3 ngày liền, hỏi han các nhà bác học và tham dự các cuộc bắn thử hỏa tiễn. Khi đó, Dornberger đã để ý đến Wernher Von Braun vì nghị lực, vì sự sáng suốt và trí hiểu biết của chàng này. Rồi tất cả kế hoạch về hỏa tiễn được chuyển tới Bộ Tổng Tham Mưu Đức vào mùa thu năm 1932.Vào một ngày của tháng 8 năm 1932, Von Braun được mời đến trung tâm thử hỏa tiễn quân sự đặt tại Kummersdorf. Trung tâm này ẩn náu trong một khu rừng thông ở phía nam thành phố Berlin. Chàng thanh niên 20 tuổi Von Braun trở nên Giám Đốc Kỹ Thuật, Đại Úy Dornberber làm Giám Đốc Quân Sự còn ngân quỹ của trung tâm do Bộ Binh Đức đài thọ.Thời kỳ hỏa tiễn thực sự bắt đầu vào ngày 21 tháng 12 năm 1932 tại Kummersdorf.Tại trung tâm nghiên cứu này, các tai nạn xẩy ra không phải là ít. Đã có lần Von Braun thoát chết, song quần áo bị rách nát. Ngày 17-5-1933, viên kỹ sư danh tiếng Max Valier đã chết trên vũng máu vì máy điều chỉnh phát nổ trước kỳ hạn và đã phóng một mảnh thép vào ngực ông ta. Ít lâu sau, tiến sĩ Warmke, kỹ sư hóa học, cũng chết tan xác vì thứ thuốc nổ mới phát minh.Tại trung tâm nghiên cứu này, Von Braun đã say sưa làm việc. Người ta thường thấy ông ngủ trên các họa đồ dang dở : Von Braun đang trù tính làm 2 loại hỏa tiễn, một thứ dài 1,40 mét còn thứ kia cao 3 mét.Khi bước chân vào trung tâm hỏa tiễn, Von Braun tưởng rằng Bộ Quốc Phòng Đức sẽ bỏ ra hàng triệu bạc để thực hiện chương trình chế tạo vũ khí này. Nhưng ông đã lầm.Ngân quỹ đã không cho phép trung tâm tiêu quá một số tiền giới hạn, mọi vật liệu đều thiếu thốn. Mặc dù các trở ngại, hai loại hỏa tiễn kể trên cũng được hoàn thành và đã lên cao được hơn 2,200 mét, thật là một thành công đáng kể. Trung tâm Kummersdorf càng ngày càng trở nên chật chội. Giới quân sự Đức đang tìm kiếm một nơi rộng rãi hơn.Vào một dịp Giáng Sinh, Von Braun và nhóm chuyên viên của ông dự lễ trên một hòn đảo nhỏ hẻo lánh tại miền biển Baltique. Đảo Peenemunde này thực là quá hiu quạnh, lại ở vào một vị trí kín đáo, rất xứng đáng là nơi bắn thử vũ khí bí mật.Từ tháng 8 năm 1936, Bộ Quốc Phòng Đức bắt đầu xây cất trên đảo Peenemunde : đường lộ, cầu cống, sân bay, bãi phóng hỏa tiễn, dinh thự, khách sạn cùng các lô cốt… song từ trên máy bay, rất khó mà nhận thấy các kiến trúc này. Có tới hàng ngàn vật lý gia, hóa học gia, kỹ sư, sinh viên, chuyên viên… hoạt động tại đây. Họ làm việc quần quật từ sáng tới tối. Phương châm của họ được khắc trên mặt tiền của trung tâm nghiên cứu : “Các vật lý gia, kỹ sư, kỹ thuật gia là những người tiền phong của Thế Giới Mới”.
Tại nơi đây, các tai nạn xẩy ra không phải là ít nhưng các nhà khoa học cũng giải quyết được nhiều bài toán mới lạ. Các hỏa tiễn càng ngày càng lên cao hơn nhưng điều đó không khiến cho các tướng lãnh Quốc Xã đặt tin tưởng vào. Hitler chỉ hy vọng ở các chiến xa hạng nặng hơn là thứ khí giới mới lạ này. Đã có lần Hitler tới thăm Trung Tâm Hỏa Tiễn Peenemunde mà không nói quá 10 tiếng rồi ra về chán nản.Sau khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, Von Braun cho ra đời một loại hỏa tiễn lên cao được 7,000 mét. Trung tâm hỏa tiễn gửi phim chụp tới Hitler nhưng không được trả lời. Các tướng lãnh cao cấp Đức cũng bắt chước thái độ im lặng của Hitler mà gọi vào quân đội các kỹ sư của Von Braun. Các phương tiện thiếu dần làm cho kết quả trở nên tại hại. Quân đội Đức lại bắt đầu thua ở khắp các mặt trận, vì vậy Hitler hạ lệnh cấp tốc chế tạo hỏa tiễn nhưng sau hai lần mời các thanh ra quân đội tới dự các cuộc phóng thử, hỏa tiễn vẫn không bay nổi. Người nâng đỡ chính thức của Von Braun tại Berlin, Đại Tướng Becker, được Hitler gọi đến : ông ta được quyền chọn đến trại tập trung hoặc tự sát. Ông Becker đã tự tử. Còn Von Braun, ông biết rằng nếu sau một lần bắn thử hỏa tiễn nữa không thành, ông sẽ bị xử bắn hay bị bọn Gestapo hành hạ.May mắn thay, lần thử thứ ba đã thành công.Vào ngày 7-7-1943, Von Braun được phong tặng chức Giáo Sư còn Dornberger được thăng chức Thiếu Tướng, rồi hai người được gọi đến Văn Phòng của Hitler. Nhà độc tài Quốc Xã đã tỏ ra hối tiếc rằng nếu có hỏa tiễn từ năm 1939, có lẽ đã không có chiến tranh. Rồi Hitler ra lệnh cấp tốc chế tạo thứ khí giới báo thù, làm sao san phẳng các thành phố London và New York trong một thời gian ngắn.Von Braun trở về đảo Peenemunde và được toàn quyền hành động. Đảo này được tăng cường về mặt quân sự cũng như an ninh. Giám đốc Sở Tình Báo Gestapo đích thân theo dõi sự an ninh trên đảo, các pháo đài canh phòng ngày đêm, chung quanh đảo là các bãi mìn tự động và hàng rào dây kẽm có mắc điện cao thế làm cho hòn đảo trở nên bắt khả xâm phạm. Nhưng vẫn chưa hết, người ta còn gạch tên Peenemunde trên bản đồ và khi gọi, lại dùng tên làng kế cận Karlshagen.Von Braun có 5,000 người dưới quyền.Tất cả các kỹ thuật gia đều gắng sức làm việc để lấy lại thời gian đã mất. Nhưng thứ khí giới bí mật của Von Braun đã bị gián điệp Đồng Minh biết. Các người dân chài Thụy Điển thường kể lại rằng họ thấy các vật lạ bay rất nhanh và phát ra những tiếng động đinh tai nhức óc. Có người lại nhặt được các mảnh vỡ trong đó có chứa đựng những phụ tùng điện tử.London rất lo lắng. Lệnh oanh tạc hòn đảo Peenemunde được ban ra vào cuối tháng 7 năm 1943. Các pháo đài bay Đồng Minh tập dượt rồi đến ngày 17-8 mới lên đường. Đêm hôm đó, hàng ngàn tấn bom đã đổ xuống hòn đảo. Toàn đảo chìm trong biển lửa. Hàng ngàn người chết. Các xưởng vũ khí bị thiệt hại nặng nề. Sáng hôm sau, khi bay quan sát trên đảo, Von Braun đã phải khóc cho công trình của mình.Một trung tâm hỏa tiễn thứ hai được thiết lập tại Volkenrode trong dãy núi Hartz. Người Đức lại cố gắng làm việc. Loại bom bay được lắp hàng loạt tại hai trung tâm hỏa tiễn. Von Braun cả ngày nghiên cứu loại hỏa tiễn liên lục địa và loại hỏa tiễn phóng đi từ các tầu ngầm.Tuy nhiên, vào tháng 12 năm 1943, Von Braun cũng bị bắt giam trong nửa tháng : Himmler đã tố cáo ông phá hoại vì ông đã chú trọng đến việc chinh phục không gian hơn là tìm cách tàn phá các thành phố London và New York. Tới khi Đại Tướng Dornberger phải đích thân xin với Hitler, Von Braun mới được trả lại tự doTừ năm 1942, các chuyên viên của Von Braun đều công nhận rằng không có thứ võ khí nào chống lại được bom bay. Ngay cả việc làm cho bom bay đi lạc hướng cũng rất khó khăn. Đô Đốc Canaris, Giám Đốc Sở Phản Gián Đức Quốc, là người lo xa nên đã phái đi 10 gián điệp có nhiệm vụ đặt các máy vô tuyến phát ra làn sóng ngắn, dấu tại nóc những tòa nhà chọc trời tại thành phố New York.Các máy phát sóng này sẽ hướng dẫn bom bay phóng từ các tầu ngầm Đức nổi tại ngoài khơi Đại Tây Dương.Các bom bay đã được sẵn sàng từ đầu năm 1944 nhưng Hitler chưa ra lệnh dùng tới. Sau khi xẩy ra cuộc đổ bộ của Đồng Minh tại miền Normandie, thứ khí giới bí mật đó mới xuất hiện. Quả bom bay V-1 đầu tiên rơi xuống đất Anh vào ngày 16-6-1944, mở màn cho Chiến Dịch Vergeltung (Báo Thù). Người Đức đã dùng chữ V để đặt tên cho bom bay.Nhiều người đã kể lại rằng vào 4 giờ sáng hôm 16-6, một quan sát viên Anh trông thấy một vật sáng bay lại. Vật càng tới gần, tiếng rú của máy càng được nghe rõ, rồi vật đó rơi xuống ngoại ô của thành phố London với tiếng nổ long trời, tàn phá cả một khu vực chung quanh. Thông thường, trong một ngày có tới 200 quả bom bay V-1 rơi xuống đất Anh.Người ta tính rằng chỉ trong vòng 3 tuần lễ, thành phố London đã lãnh chịu hơn 3,000 quả bom. Thủ Tướng Churchill kêu gọi phải sửa đổi phương pháp phòng không. Nhưng phải chờ đợi tới 3 tháng sau, người Anh mới tìm ra cách chống đỡ.Tới ngày 8-9-1944, loại bom bay V-2 lại bắt đầu tung hoành. Đây là một thứ võ khí có thể mang 800 kilô chất nổ tới các mục tiêu xa hơn 2,000 dặm, lại bay với tốc độ siêu thanh tức là một dặm trong một giây, trong khi vào thời kỳ đó, chưa có một hệ thống hoàn hảo nào báo động sự lao tới của bom bay. Hơn 3,000 quả bom bay V-2 đã tàn phá thành phố London và nước Hòa Lan cả ngày lẫn đêm. Thứ khí giới tinh sảo này đã đánh dấu một bước tiến trong lịch sử chiến tranh của Nhân Loại. Vài năm sau, trong một cuộc phỏng vấn của Tạp Chí New Yorker, Von Braun đã nói về thứ khí giới đó : “Tôi thành thực hối tiếc rằng hỏa tiễn của chúng tôi được sinh ra vì một lý tưởng, nhưng lại bị áp dụng vào công việc giết người. Chúng tôi đã vẽ ra hỏa tiễn với mục đích mở đường tới các hành tinh khác, chứ không phải để tàn phá chính Trái Đất này”.Ngoài bom bay V-1 và V-2 ra, vẫn chưa phải là hết khí giới bí mật. Người Đức còn định dùng một thứ bom khủng khiếp gấp vạn lần : bom nguyên tử.Thực vậy, ngay từ năm 1939, nhà vật lý người Đức Otto Hahn đã thành công trong việc bắn vỡ nhân nguyên tử. Tới năm 1942, ông Otto Hahn đã chế tạo được chất Plutonium. Rồi kết quả của công trình khảo cứu của Otto Hahn trong năm 1944 đã khiến ông đoạt Giải Thưởng Nobel về Vật Lý của năm 1945. Tất cả các sự kiện này khiến người ta tin chắc rằng nước Đức đã bắt tay vào việc chế tạo bom nguyên tử.Vào năm 1945, quân đội Đồng Minh tiến dần vào lãnh thổ Đức. Peenemunde sắp rơi vào tay địch. Von Braun và các chuyên viên hỏa tiễn phân vân không biết chọn phe Dân Chủ hay phe Cộng Sản. Khi Hồng Quân còn cách Peenemunde 100 cây số,Von Braun hạ lệnh tản cư khỏi trung tâm hỏa tiễn : người ta dùng anatol, chất nổ của bom V-2, để phá hủy tất cả các cơ xưởng. Von Braun và đại đa số chuyên viên quyết định tới gặp quân đội Hoa Kỳ. Đoàn xe vận tải chuyển bánh về miền Bavière, băng qua các cánh đồng đầy dân tị nạn. Von Braun, Dornberger và hơn 400 kỹ thuật gia ẩn náu tại miền Allgau, chờ đợi. Lúc đi đường, 5 kỹ thuật gia Đức trốn đi gặp Hồng Quân Liên Xô. 12 năm sau, họ là những người có công đầu trong việc phóng lên không trung vệ tinh Spoutnik. Trong cuộc hành trình di tản, Von Braun bị thương ở cánh tay, phải bó bột nhưng không lúc nào ông rời một gói tài liệu quan trọng, nó chứa đựng một dự án về hỏa tiễn liên lục địa và một dự án về vệ tinh nhân tạo.3/ Chương trình Không Gian.Từ tháng 4 năm 1945, Đại Tướng Eisenhower được lệnh thu thập, kiểm soát và gìn giữ mọi giấy tờ, hồ sơ, kế hoạch liên quan tới kỹ nghệ và khoa học cùng các tài liệu khác của các tổ chức Đức phục vụ cho mục tiêu quân sự. Vào tháng 5 năm đó, lệnh trên được nới rộng tới các khoa học gia, kỹ sư và kỹ thuật gia về hỏa tiễn của Đức Quốc. Do Chiến Dịch Paperclip này, hồ sơ các nhà khoa học Đức đã được cứu xét và chọn lựa để dùng vào việc di chuyển các nhà bác học Đức sang Hoa Kỳ.Khi nghe thấy đoàn chiến xa Hoa Kỳ tiến lại gần, Von Braun đã đứng ra thương thuyết. Sau vài ngày, Von Braun và 125 nhân viên dưới quyền đã lên máy bay sang nước Mỹ. Các nhà bác học Đức được chở tới Fort Strong, thuộc tiểu bang Massachusetts vào ngày 20-9-1945 rồi được bí mật đưa tới Aberdeen Proving Ground, Maryland. Tới tháng 5 năm 1948, con số các chuyên viên hỏa tiễn Đức và Aó được đưa sang Hoa Kỳ lên tới 1,136 người. Họ làm việc theo hợp đồng với các bộ Lục Quân, Hải Quân, Không Quân và Thương Mại. Đa số các nhà bác học này về sau đã nhập quốc tịch Mỹ, kể cả Von Braun (1955) và Dornberger.Công tác đầu tiên của Von Braun tại Hoa Kỳ là chọn lọc và đối chiếu lại các tài liệu khoa học thu thập được từ nước Đức, rồi ông được đưa tới White Sands, gần El Paso trong tiểu bang Texas. Tại miền biên giới Mễ Tây Cơ này, Von Braun thấy lại tất cả các cơ xưởng, đài quan sát như tại Peenemunde khi trước, nhưng ông không khỏi cảm thấy chán nản vì chính phủ Hoa Kỳ đã không chú ý đến chương trình thám hiểm không gian bằng hỏa tiễn. Các bom bay V-2 được cải tiến hơn trước, nhưng khí cụ này không thể bay thật cao và chỉ được dùng vào các công cuộc khảo cứu khí tượng.Tới năm 1947, Von Braun được phép trở lại miền Bavière trong một thời gian ngắn. Tại nơi này, ông kết hôn với cô em họ 18 tuổi tên là Marie Louise Von Quistorp. Để đề phòng ông bị Liên Xô bắt cóc, các thám tử luôn luôn canh chừng ông, ngay cả trong thời kỳ trăng mật.Cuộc chiến tranh Triều Tiên xẩy ra. Năm 1950, các nhà bác học Đức được đưa về Huntsville, Alabama, và được lệnh chế tạo cho Lục Quân một loại hỏa tiễn có tầm hoạt động xa và có thể mang đầu đạn nguyên tử. Von Braun trở nên Giám Đốc Kỹ Thuật của chương trình võ khí phi đạn của Lục Quân Hoa Kỳ (the U.S. Army ballistic-weapon program).Vào năm 1953, hỏa tiễn Redstone của Von Braun được phóng lên tại Mũi Canaveral khiến cho nhiều người hy vọng rằng chương trình thám hiểm không gian có thể thực hiện được. Mùa hè năm 1954, Von Braun cùng một nhóm kỹ thuật gia tới Washington đề nghị phóng lên không gian một vệ tinh nặng từ 2 tới 3 kilô. Nhưng Trung Tâm Nghiên Cứu Hải Quân cam đoan sẽ phóng một vệ tinh có chứa máy ghi lên quỹ đạo của trái đất mà chỉ dùng tới 88,000 mỹ kim. Người ta quyết định giao cho Bộ Hải Quân vì chương trình Vanguard đẹp về mặt lý thuyết hơn, và vệ tinh sẽ được phóng lên không gian vào Năm Địa Cầu Vật Lý Học (1957-58).Von Braun và nhóm chuyên gia của ông thực ra là vô địch về phương diện hỏa tiễn, tuy nhiên họ chỉ được phép chế tạo loại hỏa tiễn có tầm hoạt động trung bình. Tháng 9 năm 1956, hỏa tiễn Jupiter-C đã bay được 5,300 km, nghĩa là vượt qua tất cả các loại phi đạn tự động của Hoa Kỳ. Von Braun hy vọng sẽ dùng loại hỏa tiễn Jupiter-C này vào việc phóng vệ tinh. Ông chờ đợi.Bỗng vào ngày 4-8-1957, Liên Xô đã phóng thành công lên không gian vệ tinh Spoutnik, làm cho Thế Giới Tự Do hoảng hốt. Von Braun biết rằng giờ đã điểm. Ông tới Thủ Đô Washington và xin phép phóng một vệ tinh lên quỹ đạo trong 60 ngày. Việc phóng vệ tinh Vanguard của Hải Quân đã thất bại đau đớn. Bây giờ tới lượt Von Braun. Ngày 31-1-1958 tại Mũi Canaveral, hỏa tiễn Jupiter-C 4 tầng đã đặt vào quỹ đạo của trái đất vệ tinh “Thám Hiểm I” (Explorer I) nặng 14 kilô. Một loại hỏa tiễn khác của Von Braun tên là Redstone đã đưa Alan B. Shepard, Jr., phi hành gia đầu tiên của Hoa Kỳ lên quỹ đạo của Trái Đất vào năm 1961.Vào năm 1958, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật cho phép thành lập một cơ quan liên bang mới gọi tên là Cơ Quan Quản Trị Hàng Không và Không Gian NASA (the National Aeronautics and Space Administration). Nhiệm vụ của cơ quan này là nghiên cứu các kỹ thuật bay trong và ngoài lớp khí quyển của trái đất, chế tạo, thử nghiệm và điều hành các phi thuyền trong không gian, khám phá vũ trụ bằng các phi thuyền không người và có người lái, cộng tác với các quốc gia khác trong nhiều dự án xử dụng không gian vì hòa bình. Trong số các nhân vật đầu tiên được bổ nhiệm vào Cơ Quan NASA có Von Braun, một chuyên gia hàng đầu về hỏa tiễn, giữ chức Giám Đốc Trung Tâm Không Gian George C. Marshall (the George C. Marshall Space Flight Center) tại Huntsville, Alabama.Trong các năm sau, Von Braun đã giúp công vào 3 chương trình bay trong không trung là Mercury, Gemini và Apollo, chường trình đáp xuống Mặt Trăng. Chính nhờ Von Braun, hỏa tiễn khổng lồ Saturn V đã được chế tạo. Đây là loại hỏa tiễn 3 tầng, cao gần 110 mét (hơn 360 feet), nặng khoảng 3,000 tấn. Khi phóng đi, sức đẩy của hỏa tiễn này là 7,500,000 pounds, đốt cháy hơn 10 tấn nhiên liệu trong mỗi phút đồng hồ. Năm 1969, hỏa tiễn Saturn V đã đưa các phi hành gia lên Mặt Trăng. Các thành công về kỹ thuật của các hỏa tiễn loại Saturn đã là các kỷ lục của thời đại đó.Cuộc chạy đua về thám hiểm không gian giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đã làm cho ngành Hàng Không Liên Hành Tinh tiến vượt mức. Con người từ nay đã có hy vọng vượt khỏi trái đất chậthẹp của mình để đi tìm các thế giới xa lạ.Vào năm 1975, ông Von Braun tổ chức Viện Không Gian Quốc Gia (the National Space Institute). Đây là một cơ quan tư, có mục đích tìm hiểu và phổ biến các hoạt động khoa học về không gian với sự ủng hộ của đại chúng. Do các đóng góp về kỹ thuật không gian, ông Von Braun đã lãnh được rất nhiều bằng khen, phần thưởng… Ông Von Braun qua đời vào ngày 16-6-1977 tại Alexandria, Virginia.Von Braun tin chắc rằng chỉ trong một thời gian gần đây, con người có thể tới được Hỏa Tinh, hành tinh mà vào thời ông còn trẻ, mẹ ông thường chỉ cho ông thấy qua kính thiên văn vào những đêm quang đãng. Von Braun tin tưởng vào trật tự của Vũ Trụ và cho rằng con người sẽ tới được các thế giới tuy xa xôi nhưng không kém phần đẹp đẽ và huyền bí
Sưu tầm