Khu vực vòng xoay Dân Chủ (quận 10 và 3) từng là nơi chôn 1.831 người già, trẻ bị vua Minh Mạng ra lệnh xử tử trong cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi 180 năm trước.
Ngã sáu Công trường Dân Chủ, đường 3/2, Cách Mạng Tháng 8 là khu vực sầm uất tại TP HCM với nhà cao tầng san sát, xe cộ tấp nập. Nhưng ít người biết trước đây nó từng là nghĩa địa lớn nhất Sài Gòn với tên gọi "đồng mồ mả". Đây cũng là vị trí được cho là có ngôi mộ tập thể (Mả Ngụy) gần 2.000 người già, trẻ, trai, gái bị xử tử vì tội phản nghịch trong cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi vào năm 1833-1835 dưới thời vua Minh Mạng.
Mả Ngụy hay Mả Biền Tru vốn nằm trong vùng đất khá rộng gọi là Đồng Tập Trận - nơi tập trận và diễu binh của nhà Nguyễn (về sau người Pháp đặt tên là Đồng Mồ Mả) ở Gia Định thành ngày xưa. Nhiều câu chuyện ly kỳ, rùng rợn được người xưa đồn đại qua nhiều thế hệ cũng xuất phát từ Mả Ngụy.
Về sự biến Lê Văn Khôi, sử gia Trần Trọng Kim trong cuốn Việt Nam sử lượcghi, khi Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt vừa mất (năm 1832), quan Bố chính có tiếng tham ác là Bạch Xuân Nguyên xưng phụng mật chỉ truy xét và soi mói đời riêng của ông Duyệt (1833), rồi ra lệnh bắt giam con nuôi của ông là Lê Văn Khôi.
Bản đồ người Pháp vẽ năm 1878, Sài Gòn tập trung chủ yếu hai bên đường Impériale (nay là Hai Bà Trưng) về phía rạch Thị Nghè và từ đường Chasseloup Laubat (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) về hướng sông Sài Gòn và rạch Bến Nghé. Phía còn lại của hai con đường này là ranh giới của một khu vực rộng lớn gần như không có người ở, được họ đặt tên là Đồng Mả Mồ (Đồng Tập Trận).
|
Ông Khôi sau đó vượt ngục, tập hợp lực lượng trả thù. Ngày 18/5/1833, ông cùng thuộc hạ vào dinh quan Bố, giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên. Gặp quan tổng đốc là Nguyễn Văn Quế đem người đến cứu, nhóm này cũng giết nốt.
Sẵn đà, Lê Văn Khôi chiếm luôn thành Phiên An (Thành Bát Quái), tự xưng là Đại Nguyên Soái rồi phong quan tước cho các thuộc hạ như một triều đình riêng. Khôi cũng đánh chiếm các tỉnh lân cận. Bị bất ngờ, nên các tỉnh khác nhanh chóng thua trận. Chỉ trong một tháng quân của Khôi đã chiếm được cả 6 tỉnh Nam kỳ lúc đó.
Để bắt Khôi và đám người dưới trướng, triều đình Huế cho hàng chục nghìn quân thủy, bộ vào Nam, bao vây chặt thành Phiên An (do Tả quân Lê Văn Duyệt xây xong năm 1830). Thành xây bằng đá ong, cao và rộng, hào sâu, ở trong thành lại có đủ cả lương thực khí giới nên quan quân đánh thành lần nào cũng bị chết nhiều người, mà không lấy được.
Tháng Chạp năm ấy, Khôi chết vì bệnh phù thủng, con trai là Lê Văn Câu mới 8 tuổi lên thay cha cầm cự. Tuy nhiên, phải vất vả mãi đến 2 năm sau, khi người của Khôi đều đã mệt mỏi, quân triều đình mới hạ được thành và vào bắt giết tất cả 1.831 người, đem chôn vào một chỗ. Sau gọi là Mả Ngụy (giặc, phản loạn) hay Mã Biền Tru. Sáu người cầm đầu thì bị đóng cũi đem về Kinh thành Huế trị tội (án tùng xẻo), trong đó có con trai Lê Văn Khôi.
Sự biến Lê Văn Khôi với kết cục gần 2.000 người bị xử tử (trong khi dân số Sài Gòn lúc bấy giờ còn ít ỏi), chôn cùng một chỗ đã gây kinh hãi cho người dân thành Gia Định suốt một thời gian dài. Khu vực Đồng Tập Trận thường được nhắc lại như một vùng đất của oan hồn, không ai dám bén mảng, dần trở thành một vùng rừng cây rậm rạp rộng lớn giữa trung tâm Gia Định.
Một phần nhỏ của Đồng Mồ Mả được người Pháp chụp lại.
|
Dân Sài Gòn thời bấy giờ mỗi khi cúng cô hồn thường làm bánh màu xanh, đỏ dành cho "đầu lĩnh" Lê Văn Câu mới tròn 8 tuổi và trẻ con bị chết oan bởi binh biến Phiên An. Đến tận ngày nay nhiều người già vẫn còn truyền miệng mấy câu thơ về sự biến này. "Chiều giông Mả Ngụy cũng giông/ Hồn lên lớp lớp bềnh bồng như mây/ Sống thời gươm bén cầm tay/ Chết thời một sợi lông mày cũng buông/ Thương thay Mả Ngụy mưa tuôn...".
Nguyên nhân là mỗi khi trời chạng vạng, lập lờ giữa ánh sáng và bóng tối, do có nhiều cây cối rậm rạp, hoang vu nên cả khu vực Mả Ngụy mờ đục như bị phủ một lớp sương. Người xưa đồn đại đó là vong hồn của gần 2.000 người bị chôn tập thể, bắt đầu trồi lên để sống phần của người cõi âm.
Trong cuốn Địa lý lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh in trong Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (Tập 1, phần lịch sử), Mả Ngụy được nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu xác định khoảng gần Mô Súng, tức Ngã sáu Công trường Dân Chủ ngày nay.
Ngoài ra, còn một số ý kiến khác về vị trí Mả Ngụy được học giả Vương Hồng Sển dẫn lại trong cuốn Sài Gòn năm xưa. Như ý kiến của ông Lê Văn Phát trong quyển Khảo về Tả quân Lê Văn Duyệt (xuất bản năm 1924 tại Sài Gòn) cho biết Mả Ngụy ở gần trường đua ngựa cũ, thuộc làng Chí Hòa, tại góc đường Thuận Kiều (nay là Cách Mạng Tháng Tám) và Général Lizé (nay là đường Điện Biên Phủ).
Ngoài ra, theo nhận định của ông Đặng Văn Ký cũng được học giả Vương Hồng Sển dẫn lại, Mả Ngụy ở khoảng bệnh viện Bình Dân (thuộc quận 3), từ đường Lê Văn Duyệt (nay là Cách Mạng Tháng Tám) vào Chợ Lớn (thuộc quận 5) nằm phía tay phải đường Điện Biên Phủ ngày nay, tức phía đối diện với bệnh viện.
Dù còn nhiều ý kiến khác nhau về vị trí, song nhìn chung Mả Ngụy cũng chỉ quanh quẩn ở khu vực Ngã Sáu Công trường Dân Chủ - giới hạn bởi 3 con đường Cách Mạng Tháng 8, 3 tháng 2 và Điện Biên Phủ.
Vòng xoay Dân Chủ ngày nay là giao lộ của các tuyến đường Võ Thị Sáu - Lý Chính Thắng - 3/2 - Cách Mạng Tháng Tám - Nguyễn Phúc Nguyên - Nguyễn Thượng Hiền. Ảnh: VOV giao thông
|
Trong khi đó, theo nhà văn Sơn Nam - Ông già Nam Bộ - tên gọi Mả Nguỵ có thể do buổi đầu dân còn sợ vua Minh Mạng. Nhưng lịch sử đã qua hơn 150 năm, người chết rồi thì ai cũng như ai, xoá bỏ đi những bất đồng, tranh chấp. Về sau, không ai còn gọi "Mả Nguỵ" nữa mà gọi là Đồng Mả Lạng, theo nghĩa mất dấu vết vì thời gian. Xưa kia, người Pháp gọi "cánh đồng mồ mả" vì có quá nhiều mồ mả (Plaine des Tombeaux).
Cũng theo cố nhà văn, trên đường Cao Thắng (quận 10), dân địa phương tự phát đề cao một ngôi đình làng (không được sắc phong) nhằm mục đích hương khói, thờ cúng những người chết đã dám đứng vào hàng ngũ của Lê Văn Khôi. Ngày xưa, các vị đó rơi vào hoàn cảnh khó xử đã chết, không bia mộ, mồ mả tập thể bị san bằng, vị trí không rõ ràng, thân nhân thời ấy cũng chẳng biết nơi đâu mà tìm.
Vì vậy, ngôi đình này có thể được xây để thờ những người chết vì tham gia dưới trướng Lê Văn Khôi, nên việc cúng tế cũng khá long trọng, trống chiêng vang rền. Tuy đất đai chật hẹp, những đồng bào lân cận vẫn chừa ra một khoảng đất khá rộng, giữ thể diện xứng đáng với ngôi đình. Bản chất tốt đẹp của người Việt Nam khi đã yêu kính lẫn nhau thì không bao giờ thắc mắc những điều vụn vặt.
Cho tới hôm nay, vẫn chưa có bằng chứng nào chắc chắn để có thể xác định vị trí chính xác của Mã Ngụy. Nhưng qua nhiều tư liệu lịch sử, nhận định của các nhà nghiên cứu có thể khẳng định dưới nền những khu phố đông đúc tại khu vực vòng xoay Dân Chủ ngày nay. Và Mả Ngụy vẫn còn là một huyền thoại không mấy thơ mộng, trường tồn với dòng lịch sử của vùng đất Sài Gòn.
Trung Sơn
Chợ nổi Cái Bè.
Những điều bạn chưa hề biết về "từ và nghĩa từ" trong Tiếng Việt
Hẳn bạn sẽ ngớ người khi biết rằng, có vô số từ ngữ bạn đang dùng sai chỉ vì thói quen khó bỏ đấy!
Là một ngôn ngữ có thời gian phát triển lâu và trải qua nhiều thời kỳ, tiếng Việt sở hữu lượng từ lớn hơn nhiều so với những gì chúng ta đang sử dụng trong thời kỳ hiện nay.
Bởi lẽ tiếng Việt là sự tổng hợp từ nhiều ngôn ngữ - bao gồm tiếng Việt, Hán, Nguồn, Mường, Sách, Mày, Rục... Thêm vào đó, dựa vào vị trí địa lý và lịch sử, rất nhiều từ đã bị biến đổi về ngữ nghĩa tùy theo vùng miền và chiều dài lịch sử.
Bài viết sau đây mong muốn giới thiệu cho bạn đọc một cái nhìn sơ qua về “từ” và “nghĩa của từ” trong tiếng Việt để từ đó có thể hiểu hơn về tiếng mẹ đẻ của mình.
Thêm một nghĩa của “Cái”...
Có thể nói, một trong những thành tố thường xuyên và hay sử dụng nhất trong tiếng Việt hiện đại là “cái”. Thông thường, “cái” có một vài nghĩa sau: để chỉ một vật (cái bàn, cái ghế) hay để chỉ giống (con cái, giống cái), hoặc không là để chỉ một vật gì đó lớn (đường cái).
Tuy vậy, có một điều rất thú vị đó là có nhiều địa danh trong Nam Bộ có “Cái” đứng đầu, ví dụ như: Cái Cát, Cái Cối, Cái Chanh, Cái Muối, Cái Trầu, Cái Bè… Đối với địa danh, nhất là những địa danh ở Việt Nam, thông thường tên của địa danh luôn đi kèm với một ý nghĩa nào đó.
Nếu như tra cứu, bạn sẽ thấy rằng phần lớn các địa danh trên gắn liền với rạch và sông, vậy liệu “Cái” có nghĩa như vậy hay không?
Câu trả lời là có, tuy vậy, nghĩa “cái” này hiện nay không phổ biến. Trong từ điển Việt - Pháp cũ (Dictionaire Annamite – Francais) có giải thích từ “cái” này theo nghĩa là rạch ngang nhỏ.
Thêm vào đó, do văn hóa Nam Bộ có sự quan hệ mật thiết với văn hóa Khmer nên ngôn ngữ cũng chịu sự ảnh hưởng, nhất là với những địa danh Khmer cũ. Cuối thế kỷ XIX, Trương Vĩnh Ký có lập bảng đối chiếu mối quan hệ này và một số yếu tố “cái” tương ứng với “prêk” - nghĩa là con rạch.
Cụ thể, Cái Cát: Prêk Khsắc (rạch cát); Cái Cối: Prêk Thbai (rạch cối xay) hay Cái Trầu: Prêk Ambil (rạch muối). Còn yếu tố đứng sau thường dùng để chỉ người, vị trí, tính chất, cây cối...
Nếu nghiên cứu thêm về địa danh Nam Bộ, các bạn sẽ thấy nhiều hơn những sự tương đồng này ở các từ khác như: “Cổ” (với nghĩa là “đảo”: Cổ Cong, Cổ Tron), “Ngả” (với nghĩa là “nhánh sông”: Ngả Cạy, Ngả Tắt, Ngả Bát), “Xẻo” (với nghĩa là “lạch nhỏ”: Xẻo Sầm, Xẻo Nga)…
Và sự biến đổi từ - nghĩa từ theo địa lý, lịch sử
Ý nghĩa của một từ có thể khác nhau tùy theo thời kỳ và thay đổi suốt dọc theo quá trình lịch sử. Có nhiều từ ngữ mà hiện nay nghĩa gốc đã bị mất, thay vào đó là cách dùng phổ biến trong thời kỳ này.
Và “khốn nạn” là một từ như thế. Theo Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh và Từ Điển Hán Việt của Nguyễn Lân, “khốn nạn” có nghĩa là khó khăn, cùng khổ, gặp tai vạ (“nạn” có nghĩa là tai vạ).
Tuy vậy, hiện nay chúng ta phần lớn sử dụng “khốn nạn” theo nghĩa hèn mạt, đáng khinh. Nếu như nói “Anh chàng kia thật khốn nạn” thì ngay lập tức người nghe sẽ hiểu đối tượng được nói đến là loại đáng khinh, chứ không phải đang gặp cảnh khốn cùng.
Hay “nghèo” cũng là một từ mà nghĩa gốc bị mất. “Nghèo” trước đây được dùng với nghĩa “nguy hiểm, quẫn bách” và từ đồng nghĩa với “nghèo” hiện nay là “ngặt”.
Ví dụ: Trong Quốc âm thi tập - bản của Trần Văn Giáp có nói:
"Lòng người tựa mặt ai ai khác
Sự thế bằng cờ bước bước nghèo"
Hai câu này vốn chỉ sự thay đổi ở con người và thế sự, khiến cho người nói cảm thấy khó khăn, nguy hiểm. Từ “nghèo” ở đây không thể hiểu với nghĩa là thiếu thốn về mặt vật chất, bởi như vậy câu thơ thứ hai sẽ không có nghĩa. Nghĩa “nghèo” cũ nay chỉ còn trong những từ như “hiểm nghèo”, “ngặt nghèo” mà thôi.
Có lẽ chưa bao giờ các bạn nghĩ “phản động” theo nghĩa tốt. Thế nhưng trước thời 1945, từ này hoàn toàn không mang nghĩa tiêu cực. “Phản” có nghĩa là “chống lại”, “động” có nghĩa là “không đứng yên”, “phản động” trước kia được sử dụng với nghĩa “động tác phản ứng lại”.
Ví dụ:
“Sự phản động đầu tiên của chính phủ trước sự tăng giá toàn thể là quy định cho mỗi hóa vật một giá tối cao”. (Đỗ Đức Dục - Tạp chí Thanh Nghị - 1942).
Hiện nay, nếu tra từ điển Tiếng Việt, “phản động” được định nghĩa như sau: Có tư tưởng, lời nói hoặc hành động chống lại cách mạng, chống lại trào lưu tiến bộ. Trên thực tế, từ này đã bị “chết nghĩa” (không thể có nghĩa khác) nên hiện tại chúng ta đã bỏ cách dùng theo nghĩa gốc.
Địa lý cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến nghĩa của từ. Có những từ ở vùng này không có nghĩa gì xấu nhưng khi dùng rộng rãi, hay dùng ở vùng khác thì lại có nghĩa xấu.
“Ả” ở vùng Nghệ Tĩnh chỉ một người con gái bình thường. Thậm chí Nguyễn Du cũng dùng từ này với nghĩa hoàn toàn bình thường trong câu “Đầu lòng hai ả tố nga”.
Nhưng hiện tại, trong tiếng nói phổ thông và đặc biệt vùng Bắc Bộ, “Ả” đồng nghĩa với không đứng đắn, sai trái, và thậm chí liên quan đến pháp luật (Từ “Ả” được dùng để chỉ tội phạm nữ trong báo chí pháp luật).
Hay như “Cả” là một từ không xuất hiện ở vùng Nam Bộ, bởi đây là từ phạm húy, một trong những tội rất nặng trong thời phong kiến.
Theo bài “Tị Húy trong sinh hoạt của người Việt Nam của Phạm Văn Bân” thì: “Khi bị Pháp chiếm làm thuộc địa, cơ quan cai trị ở mỗi xã miền Nam được gọi là Hội Đồng Tề, trong đó người đứng đầu được gọi là Hương Cả”.
Thế nên gọi “Cả” để chỉ người anh/chị lớn trong nhà rất dễ bị kị húy, và bởi vậy, người Nam Bộ thay “Cả” bằng “Hai” và có: anh Hai, chị Hai, bà Hai,…
Vậy đấy, đây là một trong những bài đầu tiên người viết muốn giới thiệu đến độc giả những khía cạnh thú vị của “từ” và “nghĩa của từ” trong tiếng Việt.
Đây là một phạm trù rất rộng nên chỉ dám trích lục một phần nhỏ và đơn giản để diễn giải. Trong những bài viết tới, người viết sẽ đề cập kỹ hơn đến thổ ngữ (cách dùng địa phương) - một trong những khía cạnh rất thú vị khác của ngôn ngữ nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung.
*Bài viết trên đây là dựa trên quan điểm và sự nghiên cứu của riêng tác giả, các tài liệu tham khảo gồm có:
- Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á của Viện Ngôn Ngữ Học
- Từ hội học - Giáo trình Việt Ngữ của Đỗ Hữu Châu
- Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh, Từ Điển Hán Việt của Nguyễn Lân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét