Các kim tự tháp Ai Cập nổi tiếng - những pháo đài bất động, không thể xuyên thủng tưởng chừng được xây dựng giữa sa mạc khô cằn, nhưng thực tế có phải như vậy?
Những mê cung bằng đá này được người Ai Cập cổ đại xây dựng để tôn vinh người chết và đưa họ sang thế giới bên kia, được xây dựng cách đây khoảng 4.500 năm mà không có công nghệ hiện đại với độ chính xác đáng kinh ngạc .
Một nghiên cứu mới cho thấy các điều kiện môi trường thuận lợi góp phần lớn để xây dựng các kim tự tháp Giza, và một nhánh cổ của sông Nile đóng vai trò như một đường dẫn hàng hải cho việc vận chuyển nguyên vật liệu.
Nghiên cứu mới cũng chỉ ra rằng đã có nhiều con thuyền xuôi ngược quanh khu vực Giza ngự trị này nay một cách hoàn toàn dễ dàng, không có gì phức tạp nhờ sự hiện diện của một hệ thống sông "ma".
"Để xây dựng các kim tự tháp, lăng mộ và đền đài trên cao nguyên, dường như các kỹ sư Ai Cập cổ đại đã tận dụng lợi thế của sông Nile và những trận lũ lụt hàng năm của nó. Học đã sử dụng một hệ thống kênh rạch và lưu vực khéo léo để tạo thành một quần thể cảng dưới chân cao nguyên Giza, "Nhà địa vật lý Hader Sheisha (Đại học Aix-Marseille, Pháp), người dẫn đầu nghiên cứu chia sẻ.
Các nhà nghiên cứu tiến hành kiểm tra các hạt phấn hoa đã hóa thạch từ các lõi khoan trầm tích khu vực xung quanh kim tự tháp Giza để vẽ một bức tranh chi tiết hơn về hệ thống sông hàng thiên niên kỷ trước.
Các hạt phấn hoa được bảo quản trong các lớp trầm tích cổ đại và trong các nghiên cứu khác, chúng được sử dụng để tái tạo lại khí hậu trong quá khứ và các cảnh quan thảm thực vật trông rất khác ngày nay.
Bằng chứng thực vật thú vị này có thể giúp tái hiện lại khí hậu khu vực khi mà kim tự tháp Giza được xây dựng nên, cũng như cảnh quan của thảm thực vật khi đó.
Kết quả là một cảnh quan trông rất khác vùng sa mạc mênh mông mà Giza và quần thể kim tự tháp quanh đó ngự trị ngày nay. Phấn hoa cổ đại này xuất phát từ những thực vật đầm lầy giống cỏ, mọc ở gần mép các hồ nước.
Điều này cho thấy nhánh sông cổ đại Khufu của sông Nile chạy ngang khu vực Giza mà đã từng rất rộng lớn vào khoảng 8.000 năm về trước.
Đến thời của Giza nhánh sông vẫn đủ lớn để duy trì một đồng bằng sông trù phú với thảm thực vật xanh tươi và tuyến đường thủy thuận lợi cho việc vận chuyển nguyên vật liệu xây kim tự tháp.
Sau thời cai trị của pharaoh Tutankhamun (khoảng năm 1349-1338 trước Công Nguyên), nhánh Khufu suy giảm nhanh chóng cho đến khi đạt mức thấp nhất vào cuối triều đại.
Điều này phù hợp với những gì mà các xác ướp Ai Cập trước và sau thời điểm đó thể hiện. Những người sống vào thời điểm mà Khufu bắt đầu biến mất cho thấy họ đã sống trong một môi trường khô cằn hơn nhiều.
Lê Trang (theo Science Alert)
Những bí mật thú vị về loài dơi.
Dơi là một trong những động vật đặc biệt nhất trên thế giới khi là loài duy nhất của động vật có vú biết bay, cùng với khả năng định vị bằng sóng siêu âm và săn mồi trong đêm tối.
Dơi là loài động vật có vú duy nhất có thể bay. Một số loài động vật có vú khác như chồn bay, sóc bay trông có vẻ như có thể bay nhưng thực ra chúng chỉ có thể lượn trong một khoảng cách có giới hạn.
Dơi dành nhiều thời gian để ngửi những bông hoa, tìm kiếm những con bọ để ăn và lấy mật hoa để uống.
Dơi có thể được tìm thấy ở khắp nơi trên thế giới. Có hơn 1.400 loài dơi được biết đến trên Trái đất, với môi trường sống trải dài từ Đông Nam Á, Trung Mỹ, Australia, Canada.
Loài dơi lớn nhất là dơi quạ, có thể được tìm thấy trên khắp Nam Thái Bình Dương.
Loài dơi nhỏ nhất trên thế giới là dơi nâu nhỏ. Trên thực tế, đây cũng là loài động vật có vú nhỏ nhất thế giới. Có nguồn gốc từ Thái Lan và đôi khi được gọi là dơi ong nghệ, những sinh vật nhỏ bé này có thể nặng chưa bằng một đồng xu.
Dơi nổi tiếng sống về đêm, nhưng không phải lúc nào chúng cũng hoạt động trong bóng tối. Nhiều loài dơi sống trong môi trường không có động vật ăn thịt, thường là trên các hòn đảo, đã được nhìn thấy bay trên cao và săn tìm côn trùng vào ban ngày.
Các nhà khoa học cho rằng loài dơi đã phát triển thói quen sống về đêm để lẩn trốn những kẻ săn mồi ban ngày và tránh sự cạnh tranh của các loài động vật ưa côn trùng khác.
Hơn một nửa số loài dơi có nguồn gốc từ Bắc Mỹ đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
Ngoài gấu, dơi có lẽ là loài ngủ đông nổi tiếng nhất thế giới. Vào mùa đông, những con dơi tập trung trong hang và ngủ suốt gần hết mùa, chỉ thỉnh thoảng thức dậy để kiếm ăn.
Dơi là loài bay rất nhanh, có thể đạt tốc độ đáng kinh ngạc. Thông thường loài dơi có thể đạt tốc độ lên đến hơn 95km/h. Một số nghiên cứu thậm chí còn cho rằng một số loài dơi có thể đạt tốc độ gần 160km/h.
Trái với suy nghĩ của nhiều người, dơi không hoàn toàn mù. Mặc dù chúng chủ yếu dựa vào khả năng định vị bằng sóng siêu âm nhưng mắt của hầu hết các loài dơi đều hoạt động tốt. Ngoài ra, chúng có thể cực kỳ nhạy cảm với ánh sáng.
Các nhà khoa học đã quan sát thấy mối tương quan giữa kích thước của một con dơi với khả năng định vị. Những loài dơi nhỏ hơn được cho là phụ thuộc nhiều nhất vào khả năng định vị bằng sóng siêu âm, trong khi những loài dơi lớn hơn như dơi quạ gặp ít khó khăn hơn khi điều hướng bằng tầm nhìn./.
Mai Trang/VOV.VN Theo Stars Insider
Rùng mình những vụ mất tích khó hiểu nhất lịch sử nhân loại.
Trong lịch sử có những vụ mất tích xảy ra một cách bí ẩn khiến nhà chức trách dù cố gắng thế nào cũng không thể tìm ra dấu vết.
Ngày 2/12/1919, ông trùm nhà hát Ambrose Joseph Small hoàn thành những công việc cuối cùng tại văn phòng của mình trong Nhà hát lớn Grand Opera House, nằm ngay tuyến đường trung tâm thành phố Toronto, Canada trước khi trao trả nó cho người khác. Trước đó, Ambrose bất ngờ có một quyết định khó hiểu, bán toàn bộ tài sản mình sở hữu và thu về một khoản tiền khổng lồ thời điểm đó.
18h, khi mọi việc hoàn tất, Small rời văn phòng và mua một tờ báo từ người bán hàng rong. Khoác vào người chiếc áo choàng, Ambrose biến mất vào màn đêm lạnh lẽo của mùa đông và không bao giờ được nhìn thấy lần nữa. Trong nhiều năm sau đó, vụ mất tích không một dấu vết của Ambrose Small đã trở thành một trong những sự kiện gây chấn động nhất Canada.
Điều kỳ lạ là số tài sản ấy vẫn còn nguyên vẹn, chẳng hề có dấu hiệu bị cướp phá. Sau 2 tuần nỗ lực tìm kiếm không có kết quả, vợ ông – bà Theresa Small mới chính thức gửi đơn tới cảnh sát báo chồng mình mất tích.
Vào ngày 4/12/1960, cảnh sát Toronto đã chính thức đóng tập hồ sơ dày gần 1 mét liên quan đến sự mất tích bí ẩn của ông trùm Ambrose Small sau nhiều thập kỷ không thể tìm ra manh mối, với giả thuyết ông này đã mất trí nhớ và tự ở ẩn với mọi người. Về phần số tiền của Ambrose, nó đã được quyên tặng tất cả cho nhà thờ.
Joseph Force Crater là một thẩm phán nổi tiếng ở New York thập niên 30 của thế kỷ XX. Ông làm việc tại Tòa án tối cao New York và được Franklin D. Roosevelt (người trở thành tổng thống Mỹ sau đó) vô cùng trọng dụng. Tuy nhiên, Joseph lại mất tích bí ẩn đúng vào lúc đỉnh cao của sự nghiệp.
Cuối tháng 7/1930, sau chuyến nghỉ hè với vợ ở Belgrade, Joseph nhận được một cuộc điện thoại kỳ lạ mà không hề cho vợ biết nội dung của nó. Sau đó, ông đi tới Atlantic với tình nhân Sally Lou Ritz. Ông báo cho vợ biết, mình sẽ trở về New York giải quyết công việc và hứa sẽ về nhà vào ngày sinh nhật mùng 9/8 của vợ mình.
Sáng ngày 6/8, Joseph dành nguyên 2 tiếng trong phòng làm việc tại tòa án, sau đó ông rút 70.777 USD (khoảng 1,4 tỷ VNĐ) trong quỹ cá nhân ra. Tối đó, sau khi xem xong chương trình ở nhà hát Belasco và ăn tối cùng vài người bạn, ông đột nhiên mất tích.
Nhưng thật kỳ lạ, 10 ngày sau khi Joseph mất tích, vợ ông mới phát giác và đi báo cảnh sát. Không dấu vết, không bằng chứng, cuối cùng hồ sơ về vụ mất tích này chính thức khép lại. Không ai biết giờ này Joseph Force Crater còn sống hay đã chết nên người dân New York gọi ông là “The Missingest Man in New York” (tạm dịch là: Người đàn ông mất tích bí ẩn nhất New York).
Nữ phi công Amelia Earhart là người đầu tiên nhận được huân chương Distinguished Flying Cross của Hoa Kỳ, chứng nhận là người phụ nữ đầu tiên bay xuyên Đại Tây Dương. Không chỉ thế, bà còn là một nhà văn, người đi đầu trong tổ chức các phi công nữ The Ninety -Nines của Mỹ.
Với tính cách ưa phiêu lưu, mạo hiểm, năm 1937, Amelia tuyên bố sẽ bay vòng quanh Trái đất với chiếc Lockheed Model 10 Electra. Nói là làm, ngay trong năm đó, cuộc hành trình của nữ phi công bắt đầu. Tuy nhiên, bà đã mất tích khi đang bay ở trung tâm Thái Bình Dương, gần đảo Howland.
Nghi ngờ bà đã tử nạn, chính quyền Mỹ đã bỏ ra rất nhiều công sức và tiền bạc để tìm kiếm thi thế bà cùng chiếc máy bay. Song tất cả đều không thu được gì, dù là một dấu tích nhỏ nhất. Năm 1939, người ta chính thức thông báo Amelia Earhart đã tử nạn.
Tháng 12/2010, câu chuyện về Amelia lại một lần dậy sóng khi một đoàn sinh viên đại học tìm thấy hài cốt của một phụ nữ trẻ trên đảo Nikumaroro (Phoenix, Kiribati). Người ta đã tiến hành xét nghiệm AND, tuy nhiên, họ vẫn không đủ chắc chắn để kết luận xem đó có phải là Amelia Earhart nổi danh hay không. Do đó, tung tích của Amelia vẫn là điều bí ẩn.
Thùy Dung (T.H)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét