a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.
Hiển thị các bài đăng có nhãn SUC KHOE LAM DEP. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn SUC KHOE LAM DEP. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 22 tháng 2, 2024

Sinh Tố K2 cực kỳ quan trọng để phòng ngừa và chữa trị nhiều chứng bệnh của người già



Từ hậu bán thế kỷ thứ 20 đến nay, tuổi thọ của con người đã tăng vọt, trung bình bây giờ là trên 80 tuổi. Với tuổi thọ gia tăng, các thứ bệnh như Ba Cao (Cao Mỡ, Cao Máu, Cao Ðường loại 2), bệnh Suy Thận Mãn Tính, bệnh Tim Mạch, bệnh Xốp Xương và các bệnh Ung Thư cũng tăng theo.

Y học tiến bộ mang đến các thuốc công hiệu giúp bệnh nhân sống lâu hơn như Statin cho Cao Mỡ, thuốc chống angiotensin cho Cao Máu, thuốc Metformin cho Cao Ðường loại 2, v.v.. Tuy nhiên, các chứng Ba Cao về lâu về dài vẫn gây suy thận mãn tính khiến một số không ít bệnh nhân phải cần đến giải phẫu ghép thận hay lọc máu (dialysis) để sống còn. Bất kể điều trị tinh vi và cẩn thận bởi các bác sĩ chuyên về thận đến đâu, nhiều bệnh nhân vẫn bị bệnh mạch vành tim sau khi đã lọc máu hay ghép thận vài năm mà nguyên nhân vẫn chưa được biết rõ. Trong khi đó, các bà sau tuổi tắt kinh bắt đầu mất dần calcium trong người đưa đến chứng xốp xương. Dùng hoóc môn estrogen có thể làm chậm sự lão hóa ấy nhưng có thể tăng nguy cơ bị ung thư vú. Quý bà được bác sĩ khuyên uống thêm calcium và sinh tố D để làm chậm sự tiến triển của xốp xương. Nhưng uống nhiều calcium là một con dao hai lưỡi: ngoài việc gây sạn thận, quá nhiều calcium khiến thành mạch máu bị đóng vôi gây bệnh tim mạch và tăng tử vong, trước đây tưởng chỉ gặp ở đàn ông uống calcium, nhưng gần đây cho thấy phụ nữ cũng bị như vậy.

May thay, trong những năm gần đây khảo cứu cho thấy một loại sinh tố K, gọi là K2, có thể giúp phòng ngừa và chữa việc Calcium đi nhầm chỗ, đóng trên thành mạch máu gây tắc nghẽn, thay vì đóng lên xương giúp xương bớt xốp loãng.

Sinh Tố K2 là gì ? Nguồn ở đâu?

Từ lâu, chúng ta đã biết sinh tố K đóng vai trò quan trọng trong việc cầm máu và đông máu. Thật ra có hai loại sinh tố K: sinh tố K1 (Phylloquinone) chiếm 90% thành phần, là loại cần thiết cho máu đông, có nhiều trong các loại rau xanh như rau dền; 10% còn lại là sinh tố K2 (Menaquinone) đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển calcium từ máu đến đúng mục tiêu ở xương và răng thay vì phân phối bừa bãi khắp nơi gây nên các chứng bệnh đề cập trong phần dẫn đầu của bài này. Sinh tố K2 tổng hợp một số ít từ vi trùng trong ruột nhưng đa số đến từ thịt, sữa, lòng đỏ trứng gà, bơ và phó mát. Vì sinh tố K hòa tan trong mỡ, sữa và phó mát bị lấy mất mỡ sẽ không còn sinh tố K2. Hai thực phẩm có nhiều sinh tố K2 nhất là gan bò và món đậu nành lên men của người Nhật gọi là Natto. Sinh tố K2 có side chain isoprenoid từ MK-4 (chuỗi ngắn) đến MK-14 (chuỗi dài). Chuỗi trung bình MK-7 là loại thông dụng nhất vì dễ được hấp thụ qua đường ruột.

Trong các xứ kỹ nghệ, lượng sinh tố K2 từ thực phẩm chế biến ngày càng giảm thiểu bắt đầu từ thập niên 1950; và cho đến nay hầu như 100% người Mỹ không ăn đủ sinh tố K2 (cần tối thiểu khoảng 32mcg mỗi ngày). Những người Nhật có ăn đều món natto là nhóm dân duy nhất không thiếu K2 và họ sống lâu hơn, mạnh khỏe hơn với ít chứng bệnh lão suy hơn người Âu Mỹ.

Tác dụng của sinh tố K2:

 Trên xương, sinh tố K2 tác động chất osteocalcin từ tế bào tạo xương osteoblast giúp điều động calcium kết với khoáng hydroxyapatite khiến xương thêm chắc và cứng, ngừa được xốp xương ở tuổi già. Trong mạch máu, sinh tố K2 có tác dụng vào chất đạm trên thành mạch máu Matrix GLA Protein (MGP), chống lại sự kết tụ của chất vôi trong mạch máu gây bệnh xơ cứng làm nghẽn tuần hoàn máu, đồng thời chống lại kết tụ calcium trong các mô mềm. Chúng ta có thể ví sinh tố K2 như cảnh sát lưu thông, giúp vận chuyển calcium trong máu đến đúng chỗ ở xương và răng thay vì đi lạc vào thành mạch máu và các mô mềm. Nhờ vậy mà răng và nướu răng cũng tốt hơn với sinh tố K2.

Bệnh nhân suy thận mãn tính uống sinh tố K2 phụ gia mỗi ngày được giảm cả suy thận lẫn bệnh tim mạch có lẽ do tuần hoàn máu đến thận tốt hơn; tác động của MGP khiến máu lưu thông đến da tốt giúp giảm các biến chứng ngoài da của người bệnh thận. Bệnh nhân tim mạch dùng K2 phụ gia sau hai năm thì lượng calcium đóng trong thành mạch máu cũng thuyên giảm đáng kể. Ngoài ra, sinh tố K2 còn có thể chống viêm, chống kháng insulin, và, mặc dù chưa có kết quả lâm sàng, trên lý thuyết có thể giúp ngừa và chữa Tiểu Ðường loại 2.

Gần đây nhất, sinh tố K2 cho thấy khả năng chống ung thư, nhất là ung thư gan, một chứng bệnh không hiếm trên người già gốc Việt. Sinh tố K2 trên lý thuyết có tiềm năng kết hợp với hệ vi sinh vật ở ruột giúp ngừa các bệnh thoái hóa não bộ như Parkinson và Alzheimer nữa.

Cách giản tiện nhất ở Mỹ để bảo đảm có đủ sinh tố K2 mỗi ngày là uống một viên từ 50mcg (micrograms) đến 100mcg Vitamin K2 MK-7 mỗi ngày, được bán trên thị trường mà không cần toa bác sĩ.

Sinh tố K2 cùng với sinh tố D3 là hai phụ gia không thể thiếu để bảo đảm sức khỏe cho tuổi già. Nên bắt đầu dùng từ tuổi 50 trở lên (tuổi trung bình của phụ nữ tắt kinh). Các bệnh nhân bị xốp xương, bị bệnh tim mạch hay suy thận mãn tính nên uống sinh tố K2 ít nhất 100 mcg mỗi ngày để trị bệnh thay vì chỉ ngừa bệnh. Sinh tố K2 không làm giảm ảnh hưởng của thuốc chống đông máu trên các cụ có bệnh tim hay nghẽn mạch máu não. Trong những năm tới, chúng ta sẽ biết nhiều hơn về các lợi ích khác của sinh tố K2 trong tuổi già.

Liem H. Pham, MD Former Jackson T. Stephens Professor and Vice-

Chairman of the Donald W. Reynolds Department of Geriatrics, UAMS










7 PHƯƠNG PHÁP GIÚP BẠN THÔNG THÁI HƠN



1. Đọc sách và ngẫm nghĩ nhiều hơn:
Đọc sách, là khoản đầu tư có lãi nhất của đời người. Sách chính là nguồn sáng soi tỏ con đường đi của những người thành công. Hãy nhìn xem, những vị tỷ phú hàng đầu thế giới như Bill Gates, Mark Zuckerberg, Mark Cuban... đều là những người đam mê đọc sách và luôn dành ít nhất 3 tiếng mỗi ngày để thu nạp tri thức nhân loại.
Nhưng đọc sách không phải để lấy thành tích, mà cần đọc chọn lọc, đ.ào sâu suy ngẫm và biến những lý thuyết khô khan kia trở nên sống động, hiệu quả khi áp dụng vào thực tiễn đời sống.
2. Mạnh dạn và phát biểu ý kiến:
Ngại đưa ra ý kiến cá nhân là hiện trạng của không ít bạn trẻ hiện tại. Vì sợ sai, sợ phô bày sự thiếu hiểu biết của bản thân. Việc "giấu dốt" ấy vô cùng nguy hiểm, có khả năng hủy h.o.ại tương lai của chính bạn. Đừng sợ hãi nói lên tiếng nói, chính kiến của mình, chỉ có trao đổi kiến thức mới giúp mở rộng vốn sống, vốn hiểu biết mà thôi.
3. Tập trung vào những gì đã biết:
"Một nghề cho chín, còn hơn chín nghề". Việc phát huy sở trường, thế mạnh của bản thân rõ ràng tốt hơn việc khởi đầu mông lung với con số 0.
4. Luôn tự chất vấn chính mình:
"Tôi làm việc như vậy đã hiệu quả chưa?", "Làm thế nào để gia tăng năng suất, sản lượng?", "Cần rút lại bài học gì sau cuộc gặp gỡ đối tác ngày hôm nay...", hãy liên tục để đ.ầ.u ó.c vận động, tư duy bằng các câu chất vấn chính mình. Vạch những câu hỏi ấy trong đ.ầ.u và nhất định tự tìm ngay câu trả lời thỏa đáng. Việc tự chất vấn, vừa là cách giúp bạn nhìn nhận lại thiếu sót, rút ra được kinh nghiệm quý báu, mà cũng là cách gia tăng độ linh hoạt cho bộ não.
5. Coi trọng việc học ngoại ngữ:
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên Thế giới phẳng, tất nhiên, ngoại ngữ là tối quan trọng. Ngoài ngôn ngữ toàn cầu là tiếng Anh, các bạn trẻ hãy bỏ túi thêm những ngoại ngữ khác, phụ trợ cho công việc tương lai của mình: tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Pháp, Tây Ban Nha...
6. Bớt phụ thuộc vào công nghệ:
Công nghệ, một mặt nâng tầm đời sống, biến đổi cuộc sống của chúng ta một cách chóng mặt. Nhưng, cũng chính công nghệ khiến mối quan hệ giữa người - người, thậm chí, mối quan hệ của chính bản thể dần trở nên xa cách. Quá phụ thuộc vào công nghệ khiến chúng ta lườ.i tư duy, lười động não... khiến bản thân dễ rơi vào trạng thái thụ động, trì trệ.
7. Kiên trì luyện tập thể dục thể thao:
Là cách vừa nâng cao sức khỏe, tăng cường khả năng sáng tạo. Hãy dành ít nhất 1 tiếng mỗi ngày để vận động, tập thể dục hoặc chơi một môn thể thao nào đó.
Sưu tầm




Những Thay Đổi Trong Cơ Thể Khi Về Già - BS. Nguyễn Ý Đức


Với sự hóa già, sẽ có vài thay đổi về cấu tạo cũng như chức năng của một số cơ quan bộ phận chính trong cơ thể như sau đây :

1- Thay đổi của bộ máy tiêu hóa

Sự tiêu hóa thực phẩm bắt đầu từ miệng.
Thức ăn được răng nhai nghiền nhỏ để có thể nuốt xuống dạ dày, với sự hỗ trợ của nước miếng.
Dạ dày co bóp, chuyển động như cái máy giặt quần áo để biến đổi thức ăn sang trạng thái lỏng, với tác dụng của dịch vị tiết từ bao tử. Một phần lớn chất đạm được tiêu hóa ở đây.
Sau đó thức ăn được chuyển xuống sáu thước ruột non. Nơi đây, hóa chất hữu cơ của tuỵ tạng và ruột non tiếp tục tiêu hoá đạm chất và tinh bột, đồng thời cũng có sự tiêu hóa chất mỡ dưới tác dụng của mật. Cũng chính ở ruột non, việc nuôi dưỡng cụ thể cho con người được thực hiện với sự hấp thụ các chất bổ dưỡng vào mạch máu.
Khi thức ăn vào đến ruột già, nước được hút lại, còn chất bã được phế thải ra ngoài.
Trung bình, sự tiêu hóa thực phẩm từ khi vào miệng tới khi phế thải kéo dài từ 7 đến 12 giờ đồng hồ.
Với tuổi cao, sẽ có vài thay đổi như sau:
Miệng khô vì hạch nước miếng tiết ít nước làm ta nhai khó khăn và giảm thưởng thức vị ngon của thực phẩm.
Dịch vị bao tử giảm khoảng 25% khi ta tới tuổi 60, sự co bóp của bao tử cũng yếu đi chút ít.
Nơi ruột non, sự hấp thụ calcium giảm làm xương yếu; hấp thụ sinh tố B12 kém. Sinh tố này cần cho việc sản xuất hồng huyết cầu cũng như tạo ra sinh lực trong cơ thể.
Trái với quan niệm thông thường, không có thay đổi mấy về chức năng của ruột già khi tuổi tăng. Nhiều người cứ cho là già hay bị táo bón, chứ thực ra sự đại tiện của người cao tuổi đều lành mạnh giống như của người trẻ. Vậy mà việc tiêu thụ thuốc nhuận tràng vẫn rất nhiều ở lớp tuổi cao này.
Khi già, sản suất mật của gan để biến hóa mỡ không thay đổi mấy. Dù có cắt đi 80% lá gan, ta cũng còn đủ mật cần thiết cho cơ thể.
Thành của ruột già trở nên mỏng hơn, vài chỗ phình ra thành túi nhỏ, dễ bị nhiễm trùng.
Nói chung, khi về già không có thay đổi đáng kể trong hệ thống tiêu hóa ngoài vài lủng củng nhỏ mà phần lớn liên hệ tới ăn uống không điều độ, thiếu dinh dưõng, không vận động cơ thể, tác dụng phụ của dược phẩm…
Cho nên ta vẫn thưởng thức được những món ăn mà ta thích từ lúc còn trẻ.

2- Thay đổi cơ quan hô hấp

Bộ phận hô hấp, với nhiệm vụ mang dưỡng khí nuôi cơ thể, gồm hai lá phổi và phế quản.
Phổi gồm cả triệu phế nang, mà khi trải rộng ra có thể bao phủ cả một sân quần vợt. Chính ở những phế nang này mà dưỡng khí được chuyển sang mạch máu nuôi cơ thể và lấy thán khí thải ra ngoài.
Phế quản nom giống như một cái cây lộn ngược, với rất nhiều nhánh nhỏ để dẫn không khí vào phế nang.
Nhịp thở trung bình khi nghỉ là 15 nhịp một phút, nhanh khi cơ thể họat động mạnh hoặc thán khí trong máu lên cao.Trong mỗi nhịp thở có khoảng 1/2 lít không khí ra vào phổi.
Khi sự hô hấp ngưng chừng 5 phút thì não bộ đã chịu những tổn thất vĩnh viễn, trầm trọng vì não bộ liên tục cần oxygen.
Với tuổi cao, không có thay đổi đáng kể về hô hấp, ngoại trừ trong phế nang dưỡng khí ít mà thán khí lại cao. Do đó dưỡng khí trong máu giảm, làm cho cơ thể chóng mệt khi hoạt động mạnh.

 3-Thay đổi hệ tuần hoàn

Hệ tuần hoàn gồm bộ phận bơm đẩy là trái tim và mạng lưới mạch máu lớn nhỏ chạy khắp cơ thể.
Tim được ví như toà nhà song lập hai tầng với hai tâm nhĩ ở trên, hai tâm thất ở dưới ngăn cách nhau bằng một chiếc van để hướng dẫn máu lưu thông một chiều từ trên xuống dưới.
Mạng lưới mạch máu gồm mạch máu phổi bắt nguồn từ tâm thất phải, đưa máu nhiều thán khí lên phổi để trao đổi lấy dưỡng khí. Còn mạng mạch máu tổng quát thì đưa máu đỏ nhiều oxy từ tâm thất trái đi nuôi dưỡng khắp châu thân.
Mỗi ngày tim bơm khoảng 7000 lít máu vào hơn 100,000 cây số mạch máu lớn, nhỏ. Nhịp tim bình thường là 70-80 / một phút. Một tế bào máu chạy từ tim xuống ngón chân rồi trở lại tim mất 12 giây.
Khi tới tuổi cao, sẽ có một vài thay đổi về chức năng cũng như cấu tạo của hệ tuần hoàn.
Cách đây 5 thế kỷ, Leonardo da Vinci đã quả quyết là sự dầy cứng của mạch máu làm ta già, ngăn cản sự lưu thông của máu và làm giảm sự nuôi dưỡng cơ thể.
Khoa học ngày nay đồng ý một phần nào với da Vinci, nhưng nêu câu hỏi là những thay đổi đó có phải do tuổi già hay do lối sống của con người mà ra.
Thay đổi quan trọng nhất là vách tâm nhĩ trái dầy lên, cứng, kém đàn hồi, làm giảm sức bơm của tim, máu đi nuôi cơ thể ít oxy và dưỡng chất.
Mạch máu cũng cứng, dầy kém đàn hồi vì có nhiều chất vôi và collagen đóng lên vách mạch máu, khiến cho máu lưu thông khó khăn, chậm chạp.
Nói chung, với tuổi già, chỉ có một chút giảm sự lưu thông của máu trong cơ thể, giảm cung cấp dưỡng khí khiến ta mau mệt khi hoạt động mạnh.
Còn thắc mắc là tỷ lệ tử vong do bệnh tim ở người già rất cao, thì đó là vì con người mắc bệnh tim do tập quán ăn uống, lối sống, môi trường xấu … chứ không phải do sự hoá già mà ra.

 4-Thay đổi Xương Khớp

a-Xương
Bộ xương giúp cơ thể đứng vững, di chuyển, che trở các bộ phận cốt yếu và là nơi dự trữ calci.
Xương được cấu tạo bởi một hỗn hợp gồm khoáng chất (nhất là calci 45%), cơ mềm với mạch máu, tế bào (30%) và nước (25%).
Có ba loại xương: xương dài cứng; xương ngắn mềm và xương dẹp.
Xương được liên tục tu bổ để thay thế xương cũ bằng xương mới. Khoáng chất calci giữ vai trò rất quan trọng trong việc tạo xương. Khi về già, calci trong máu giảm, vì ruột non không hấp thụ calci tốt như khi còn trẻ và vì khẩu phần không có cân bằng calci. Do đó xương trở nên yếu, ròn, dễ gẫy lại lâu lành.
Thêm vào đó, khi calci trong máu xuống thấp, cơ thể lại lấy calci ở xương ra để thỏa mãn các nhu cầu khác như hoạt động của hệ thần kinh, làm đông máu, hoạt động của cơ thịt.
Khối lượng xương cũng giảm, nhất là ở nữ giới khi hết kinh vì kích thích tố nữ estrogen ít đi.

b-Khớp xương
Khớp là nơi hai mặt xương tiếp giáp với nhau.
Có 3 loại khớp chính:
-khớp cử động tự do như khớp xương đầu gối, cổ tay
-khớp cử động có giới hạn như xương sống và
– khớp không cử động như khớp xương sọ.
Sở dĩ khớp cử động êm ả là nhờ hoá chất nhờn và sụn nằm độn giữa khớp, như một cái bao, bọc hai đầu xương, đồng thời cũng để tránh sự cọ xát của mặt xương.
Khớp được giữ ở đúng vị trí để cử động nhờ những dây chằng như gân, nối xương với bắp thịt, dây chằng nối hai xương với nhau.
Khi về già, hóa chất nhờn và sụn giảm, gân và dây chằng ít đàn hồi làm cho sự co-ruỗi của khớp bị giới hạn.
Với thời gian, khớp cũng gặp những thương tích tuy nhẹ nhưng tích luỹ, khiến khớp hay bị đau nhức và cử động khó khăn.

5-Thay đổi cơ bắp.

Trong cơ thể, cơ bắp chiếm gần nửa trọng lượng toàn thân.
Đó là cơ ở trái tim, thành mạch máu, bao tử, ruột, nhất là cơ thịt ở bộ xương gồm những mô nối vào xương và khớp qua gân, dây chằng. Sự kết nối này giúp con người cử động, di chuyển một cách rất tài tình mỗi khi cơ co giãn hay đàn hồi theo ý muốn của ta.
Cử động không những là nhu cầu sinh hoạt cho cơ thể mà còn để duy trì cơ thịt. Vì nếu không vận động, cơ thịt sẽ teo đi, và được thay thế bằng mô mỡ, nước.
Khi hoạt động, cơ cần năng lượng do dưỡng khí và chất dinh dưỡng cung cấp, đồng thời nó cũng thải ra chất bã như lactic acid. Khi tích tụ nhiều, acid sẽ làm cơ đau nhức, mau mệt và ta cần hít thở để oxy đốt acid này.
Chất dinh dưỡng chính của cơ bắp là thức ăn do máu cung cấp như tinh bột, đạm chất, chất béo.
Với tuổi già, khối bắp thịt nhỏ dần do sự giảm kích thước nhất là giảm số lượng những tế bào thịt.

Tế bào thịt, cũng như tế bào thần kinh, khi giảm đi sẽ không được thay thế. Sinh ra, ta đã có một số cơ thịt nhất định và số lượng này được dự trù là sẽ hiện diện suốt đời nguời.
Khi không được sử dụng, kém dinh dưỡng hay không tiếp nối với hệ thần kinh, cơ sẽ teo đi. Sự vận động cơ thể không làm tăng số cơ thịt nhưng làm chúng to hơn.
Ở người cao tuổi, đã ít tập dượt lại sống quá tĩnh tại, chức năng bắp thịt thay đổi rõ rệt. Sức mạnh bắp thịt giảm chút ít vào tuổi 40, 50; giảm 20% ở tuổi 50; giảm 40% khi tới tuổi 70-80. Sự suy yếu này xẩy ra ở chân nhiều hơn ở tay.
Ngoài ra, chức năng cơ thịt người già cũng giảm vì sự thoái hóa, mất tính đàn hồi của gân và dây chằng.

 6- Thay đổi não bộ

Nặng chừng 1, 5 kí lô, não bộ của người trưởng thành là một khối mềm như bột gạo ướt với cả ngàn tỷ tế bào thần kinh mầu xám nhạt.
Mỗi tế bào thần kinh nối kết với nhau theo nhiều cách, tạo ra một mạng lưới có tác dụng sinh học rộng lớn để điều hòa mọi sinh hoạt của cơ thể.
Sanh ra, ta có số tế bào thần kinh nhất định, không tăng hay tái tạo, nhưng lại mất dần với tuổi tác. Mỗi ngày có từ 50,000 tới 100,000 tế bào chết đi ở những vũng não khác nhau. Cho tới tuổi 65 thì hầu như 1/10 tổng số tế bào thần kinh sẽ bị tiêu hủy vĩnh viễn, không được thay thế.
Câu hỏi thường được đặt ra là tế bào mất tới mức độ nào thì sẽ gây ra sự thay đổi các chức năng của não?
Có nhận xét khoa học cho là, khi một tế bào thần kinh chết đi thì tế bào kế cận sẽ phát ra một hệ thống nối tiếp mới, để hoạt động thay thế tế bào đã mất. Nhờ đó não vẫn hoạt động đều hoà cho tới khi con người đi vào khâu tử, ngoại trừ khi não mang thêm những tổn thất gây ra do bệnh tật, thương tích.
Khi hóa già, có những thay đổi sau đây:

a- Cuống não.
Cuống não chịu một phần trách nhiệm trong việc điều hoà nhịp thở của phổi, nhịp đập của tim, sự đi đứng, ngủ nghỉ.
Tế bào cuống não ít bị tiêu hao, ngoại trừ ở phần kiểm soát sự ngủ. Do đó người cao tuổi thường hay có khó khăn khi ngủ, nghỉ.

b- Tiểu não.
Tiểu não điều khiển tư thế, tác phong con người, như đi, đứng, ngồi, chạy, bằng cách kiểm soát chức năng của cơ thịt, gân, khớp xương. Tiểu não đặt một giới hạn cho các động tác cơ thể.
Khi về già, tế bào tiểu não bị tổn thất rất nhiều, nên người cao tuổi mất thăng bằng khi đi đứng, cử động khó khăn, đôi khi không phối hợp nhịp nhàng với nhau được.

c-Thông não.
Thông não nằm sâu trong não bộ, kiểm soát và điều hoà một phần cảm xúc như sợ hãi, tức giận; một số khả năng ngửi mùi vị, nghe âm thanh; điều hoà thân nhiệt, huyết áp.
Thông não thay đổi rất ít với tuổi cao.

d-Hệ viền.
Bộ phận chính của hệ viền (limbic system) là hải mã (hippocampus), có nhiệm vụ quan trọng trong việc ghi nhận trí nhớ, nhất là chuyển trí nhớ ngắn hạn sang trí nhớ dài hạn. Ngoài ra hệ viền còn điều hòa khứu giác, khả năng học hỏi, cảm xúc vui, sợ, giận dữ.
Hệ viền bị ảnh hưởng rất nhiều vì tuổi cao. Tại vài nơi của hệ viền, có tới 30% tế bào mất đi, gây trở ngại cho sự học cũng như ghi nhận trí nhớ.

e- Não.
Não là hai khối hình bán cầu, mà phần chính là vỏ não với 75% tổng số tế bào thần kinh.
Vỏ não được chia làm nhiều vùng với nhiệm vụ riêng biệt cũng như chịu những tổn thất khác nhau vì sự hóa già.Vùng kiểm soát cử động mất từ 20 tới 50%; vùng thị giác mất 50%, vùng thính giác mất 30-40%; vùng trí nhớ hầu như không bị thất thoát gì.
Ngoài ra, với tuổi cao, máu đưa tới não bộ giảm, dưỡng khí và chất dinh dưỡng ít đi. Não thay đổi hình dáng, có nhiều hóa chất có mầu như lipofuscin được tạo ra, bám vào tế bào não, gây ra một số trở ngại cho nhiều chức năng cuả hệ thần kinh.
Nhưng nói chung, não là cơ quan duy nhất trong cơ thể mà khi về già vẫn tiếp tục cải tiến, nâng cao kiến thức, kinh nghiệm, sự khéo léo, sức sáng tạo, sự xét đoán, độ nhậy cảm và sự khôn ngoan của con người.

 7-Thay đổi tính miễn dịch

Khi sanh ra, con người đã được tạo hoá ban cho những hệ thống phòng thủ chống lại bệnh tật, trong đó có khả năng miễn dịch.
Khả năng này được thực hiện qua hai loại bạch huyết cầu T-cells, B-cells. Chúng tạo ra kháng thể đặc biệt để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh và ngăn ngừa sự tái phát của bệnh đó trong tương lai. Chúng cũng rất công hiệu trong việc tiêu diệt tế bào ung thư.
Lúc mới sanh, các huyết cầu này được tuyến ức (Thymus) nằm sau xương ức sản xuất, huấn luyện để chống tác nhân gây bệnh. Đáng tiếc là tuyến thoái hóa với thời gian.
Sau đó thì các huyết cầu miễn dịch sẽ được tủy sống, các hạch và lá lách sản xuất. Nhưng vì không được sự điều khiển, huấn luyện của tuyến ức nên việc phòng vệ cơ thể kém phần hiệu nghiệm. Người già do đó dễ bị các bệnh nhiễm trùng cũng như ung thư.

Kết luận

Nói chung, các thay đổi nội quan cũng không gây ra nhiều khó khăn cho sinh hoạt của người cao tuổi, nhất là khi họ duy trì được một nếp sống lành mạnh, tích cực và yêu đời./.

 

 Bác sĩ Nguyễn Ý Đức


Thứ Bảy, 4 tháng 11, 2023

Diếp cá: Chất kháng sinh tự nhiên


Rau Diếp cá (ngư tinh thảo) là một vị thuốc Trung y thường được sử dụng, có thể gọi là chất kháng sinh tự nhiên, có tác dụng kháng khuẩn tiêu viêm, thanh nhiệt giải độc, tiêu phù lợi tiểu, rất hiệu quả trong điều trị viêm đường hô hấp, viêm đường tiết niệu, cảm mạo. Sở dĩ loại cây này có tên như vậy là vì thân và lá của nó khi bị nghiền nát thì có mùi tanh như cá.


Tác dụng của rau Diếp cá




Trung y cho rằng, rau Diếp cá có vị cay tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu phù trị lở loét, lợi tiểu trừ thấp, kiện vị tiêu thực, có thể trị các chứng nhiệt như nhiệt độc, viêm sưng phổi, lở loét, phù nề, trĩ và loét dạ dày.


Mặc dù rau Diếp cá tính hàn, nhưng có thể tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể, tăng khả năng thực bào của bạch cầu, thúc đẩy quá trình tái tạo mô, mở rộng mao mạch, tăng lưu lượng máu lưu thông.


Rau Diếp cá là một loại kháng sinh tự nhiên, mùi hương đặc biệt và hơi khó chịu của nó có nguồn gốc từ Decanoyl acetaldehyde. Đây là thành phần kháng khuẩn rất quan trọng, có tác dụng ức chế mạnh đối với các loại vi khuẩn rất độc như vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), Phế cầu khuẩn (Pneumococcus).



Rau Diếp cá chứa Quercetin, có khả năng ức chế virus, có tác dụng lợi tiểu tiện. Tính kháng viêm của rau Diếp cá rất mạnh, hiệu quả trong điều trị các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp như viêm phế quản, viêm phổi, viêm cổ tử cung, ho gà, viêm kết mạc, nhiễm trùng đường tiết niệu. Ngoài ra, nó cũng chứa lượng vitamin A và vitamin C rất cao.


Cách dùng rau Diếp cá và những chú ý kiêng kỵ




Khi chọn rau Diếp cá nên chọn những cây có lá màu xanh đậm, có hoa, mùi vị nồng đậm. Rau Diếp cá có thể được làm món xào hoặc làm món gỏi, thậm chí có thể được chế biến ướp ngâm thành món dưa muối, có vị chua thơm giòn mát, rất ngon miệng.


Nếu bị cảm mạo do phong nhiệt, bị bệnh mụn rộp nước (do nhiễm Herpes virus) hoặc nhiễm trùng đường tiết niệu, thì nên ăn sống rau Diếp cá; nếu cơ thể tương đối yếu thì nên nấu chín rau Diếp cá rồi dùng sẽ tốt hơn.



Hầu hết mọi người sử dụng Diếp cá như một loại rau để chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, rau Diếp cá không thích hợp dùng lâu dài, vì sẽ gây suy nhược, tổn hại dương khí, tiêu hao tinh tủy. Người bị chứng hư hàn không đề nghị ăn.


4 loại cây trồng trong phòng ngủ vừa tốt cho da, vừa có giá trị làm đẹp cao, đem đến giấc ngủ yên bình.


Lựa chọn những cây nên đặt trong phòng ngủ dưới đây sẽ giúp thanh lọc không khí, loại bỏ khí độc, để có một căn phòng thông thoáng, trong lành, từ đó giúp bạn có giấc ngủ ngon hơn, tăng chất lượng sức khỏe và kéo dài tuổi thọ.

Cây dây nhện



Đây được ví như chiếc máy lọc không khí tự nhiên, sẽ loại bỏ khoảng 90% formaldehyde hóa có khả năng gây ung thư có trong bầu không khí bị ô nhiễm. Loại cây này còn loại bỏ tạp chất carbon monoxide và các chất ô nhiễm như benzen và xylen.

Đặt cây dây nhện trong phòng ngủ sẽ giúp giấc ngủ sâu hơn nhờ không khí trong lành. Bạn nên đặt 1, 2 chậu cây dây nhện trong phòng để chúng giúp cung cấp thêm khí O2 và hấp thụ các chất ô nhiễm, thanh lọc không khí. Ngoài ra, cây này còn hấp thụ cả chất nicotine trong khói thuốc lá.

Cây nha đam


Cây nha đam với vẻ ngoài xanh mướt, căng mọng cùng tác dụng hấp thu ẩm hiệu quả. Lô hội hay nha đam được biết tới là loại thực vật không chỉ dùng để chế biến các món ăn mà còn dùng để làm đẹp.

Ngoài ra, cây nha đam có tác dụng tốt trong việc cải thiện giấc ngủ của bạn bởi nó hoạt động hiệu quả trong việc thanh lọc không khí loại bỏ amoniac, formaldehyde, toluene và xylene. Đó là một tác dụng không thể phủ nhận của cây nha đam, góp phần cải thiện giấc ngủ.

Cây dành dành


Bên cạnh việc trồng hoa nhài có tác dụng tốt đối với giấc ngủ của chúng ta thì việc trồng một chậu cây cảnh dành dành trong không gian phòng ngủ cũng giúp cho bạn thư giãn, giảm đau đầu và dễ đi sâu vào giấc ngủ hơn. Trồng dành dành có hoa màu trắng trông cũng rất đẹp mắt và có hương thơm vô cùng dễ chịu.

Khi nói đến việc chăm sóc chúng, điều quan trọng là phải giữ cho đất ẩm và đảm bảo cây nhận được nhiều ánh sáng mặt trời.

Hoa oải hương


Loại hoa trồng trong chậu này rất đẹp, lá màu xanh bóng, hoa tươi và đẹp, quan trọng nhất là sau khi nở hoa có mùi thơm thoang thoảng, có thể cải thiện chất lượng giấc ngủ của chúng ta. Trong thời kỳ sinh trưởng nên bổ sung thêm một số phân bón phức hợp và giúp cây được nhiều ánh nắng mặt trời, sự hấp thụ của cây sẽ tốt hơn.


Cho một thìa bột này vào nước, lá cây phát lộc sẽ xanh tươi, trồng một năm không thấy lá vàng, thật là đẹp.


Cây trúc phát tài là loài cây lá xanh quanh năm, có nhiều chủng loại, mang ý nghĩa tốt đẹp về sự thịnh vượng, bình an, vì cành của nó mọc cao hơn theo từng đốt nên nó còn mang ý nghĩa trường sinh.

Lá trúc phát lộc có màu xanh như tre, thuộc loại cây thanh nhã phóng khoáng nên nhiều người thích chưng một chậu trúc phát lộc ở nhà hoặc trên ban thờ.

Chất lượng môi trường trong nhà không thể tách rời khỏi bối cảnh của hoa và cây cối, nếu đặt một hoặc hai chậu hoa và cây cối trong nhà cũng sẽ khiến môi trường trở nên rực rỡ hơn, trong nháy mắt cải thiện không khí trong nhà.

Trúc phát lộc là loài được nhiều người ưa thích, lá màu xanh ngọc bích còn có thể tô điểm thêm cho môi trường.


Tuy nhiên, khi trồng phát lộc cũng rất hay vàng lá, cây trúc bị vàng lá sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến hình thức bên ngoài, bạn có thể cho một thìa bột năng vào trong lọ thủy canh.


Loại bột này là sắt sunfat, có thể làm cho nước có tính axit, bổ sung các ion sắt để thúc đẩy quá trình quang hợp, ngăn ngừa lá bị vàng và bổ sung chất dinh dưỡng để thúc đẩy quá trình sinh trưởng. Tỷ lệ pha là 1:300, mỗi tháng dùng được một lần, hiệu quả rất tuyệt vời, mà cả năm không thấy vàng lá, lại còn nở hoa nữa.


Thật ra có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến cây phát lộc vàng lá, ví dụ khi đặt nó bên cạnh thiết bị điện, làm cho lá của cây phát lộc chuyển sang màu vàng.









Thời gian dài không được tiếp xúc với ánh sáng cũng là một trong những nguyên nhân khiến lá phát tài bị vàng, vì vậy cần thỉnh thoảng cho cây phát triển dưới ánh nắng mặt trời để cây phát triển tốt hơn.

Autran (Theo Bảo Vệ Công Lý)



Thiếu ánh sáng mặt trời cũng nguy hiểm tương tự như hút thuốc

 


Nghiên cứu có nhan đề: “Tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời là yếu tố nguy cơ với các nguyên nhân chính gây tử vong: Phân tích rủi ro về ung thư da của các đoàn hệ miền Nam Thụy Điển” thực hiện trên một nhóm dân cư gồm 29,518 phụ nữ.


Các tác giả đã đánh giá sự khác biệt về mức độ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời như một yếu tố nguy cơ đối với tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân trong vòng 20 năm.

Các kết quả đáng chú ý gồm có:


1. Nhng ph n có thói quen tiếp xúc vi ánh nng mt tri có nguy cơ bnh tim mch và t vong không do ung thư/không do bnh tim mch thp hơn so vi nhng người tránh tiếp xúc vi ánh nng mt tri.




2. Do t l sng sót tăng lên nên t l t vong do ung thư tương đ nhng ph n này cũng tăng lên.


Phát hiện thứ hai có thể hơi khó hiểu, vì vậy hãy xem xét kỹ hơn một chút.


Bởi vì nguy cơ ung thư tăng lên cùng với tuổi sinh học nên càng sống lâu thì nguy cơ ung thư càng cao. Do đó, vì việc tăng cường tiếp xúc với ánh sáng mặt trời thực sự làm tăng tuổi thọ nên cũng sẽ làm tăng nguy cơ ung thư. Nhưng điều này không nhất thiết có nghĩa là ánh sáng mặt trời về bản chất là “chất gây ung thư,” vốn là điều thường được giả định.


Bởi vì bệnh tim là kẻ giết người số 1 ở các nước phát triển và vì ánh sáng mặt trời làm giảm nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong sớm này nên ngay cả khi ánh sáng mặt trời làm tăng nguy cơ gây tử vong số 2 (ung thư) thì tác động thực sự của việc tiếp xúc với ánh sáng mặt trời là bạn vẫn sẽ sống lâu hơn, điều này giúp bối cảnh hóa và vô hiệu hóa “nguy cơ ung thư gia tăng” thường thấy.


Cũng nên nhớ rằng một lượng lớn các bệnh ung thư được chẩn đoán và điều trị quá mức nhưng không được cơ sở y tế thừa nhận một cách đầy đủ, mà nguyên nhân gây bệnh hiếm khi được giải quyết. Những “căn bệnh ung thư” này đã thổi phồng số liệu thống kê lên rất nhiều. Với hàng triệu cái gọi là ung thư giai đoạn đầu như thế này đặc biệt là ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư tuyến giáp, ung thư phổi và ung thư buồng trứng được chẩn đoán và điều trị sai, sự phức tạp của chủ đề này khiến cho việc xác định vai trò của việc tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và nguy cơ ung thư trở nên khó xác định hơn.


3. Tiếp tc quan đim v đc tính kéo dài tui th ca ánh sáng mt tri được thúc đy mnh m bi quan sát chính th ba này:






“Những người không hút thuốc tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời có tuổi thọ tương tự như những người hút thuốc trong nhóm tiếp xúc với ánh nắng mặt trời cao nhất, cho thấy rằng việc tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời là một yếu tố nguy cơ gây tử vong ở mức độ tương tự như hút thuốc.”


Đây là một phát hiện mạnh mẽ với ý nghĩa sâu sắc. Nói rằng “tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời là một yếu tố nguy cơ gây tử vong ở mức độ tương tự như hút thuốc” cho thấy việc tiếp xúc với ánh sáng mặt trời là điều cần thiết cho sức khỏe của chúng ta, chứ không phải là mối đe dọa chết người thường xuyên như vốn có, là việc bôi kem chống nắng tổng hợp trên khắp cơ thể mà hầu như bảo đảm là sẽ gây hại do tiếp xúc với chất độc.”


Trên thực tế, theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) thì hút thuốc lá là nguyên nhân gây ra 6 triệu ca tử vong không cần thiết mỗi năm và “tỷ lệ tử vong chung của cả nam và nữ hút thuốc ở Hoa Kỳ cao hơn khoảng ba lần so với tỷ lệ tử vong ở những người tương tự nhưng không bao giờ hút thuốc.”


Với tất cả những điều đó, việc tiếp xúc với ánh sáng mặt trời có thể là một thành phần thiết yếu mạnh mẽ đối với sức khỏe đến mức có thể bị coi là phi đạo đức về mặt y tế nếu không cung cấp khả năng tiếp cận với ánh sáng mặt trời hoặc không khuyên bạn nên tiếp xúc với ánh sáng mặt trời thường xuyên hơn.


4. Quan sát th tư và cũng là quan sát cui cùng ca nghiên cu là:




 “So với nhóm tiếp xúc với ánh nắng mặt trời cao nhất thì tuổi thọ của những người tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời đã giảm 0.6-2.1 năm.”


Ánh sáng mặt trời đạt được trạng thái vốn có trước đây như một phần không thể thiếu của sức khỏe.


Mặc dù có thể nói rằng thiếu ánh sáng mặt trời góp phần gây ra hậu quả chết người ngang với việc hút thuốc nhưng cũng có thể diễn đạt lại thông tin một cách tích cực bằng cách khẳng định rằng mặt trời và ánh sáng mặt trời quan trọng đối với sức khỏe như thực phẩm hoặc nước sạch.


Trên thực tế, nghiên cứu hấp dẫn này cho thấy rằng năng lượng từ mặt trời thúc đẩy năng lượng sinh học tế bào của bộ máy sinh học trong cơ thể thông qua các quá trình phụ thuộc non-ATP [adenosine triphosphate] (ATP được hiểu là các phân tử mang năng lượng, cung cấp năng lượng sinh học cần thiết cho cơ thể).


Hãy xem xét công trình của tiến sĩ Gerald Pollack là tác giả của “Pha thứ 4 của nước” (xem video bên dưới) và là người giải thích cách năng lượng hồng ngoại của mặt trời tích điện cho các phân tử nước trong cơ thể chúng ta (99% phân tử trong cơ thể là nước) giống như hàng nghìn tỷ pin phân tử.


Ngay cả một thứ phổ biến trong thực đơn ăn uống của con người như chất diệp lục gần đây đã được phát hiện đóng vai trò như một phương tiện để tăng cường các đặc tính thu nhận ánh sáng của tế bào động vật. Trên thực tế, gần đây chúng tôi đã báo cáo về một nghiên cứu cho thấy việc sản xuất ATP được gia tăng thông qua một chất trung gian là các chất chuyển hóa chất diệp lục kết thúc trong ty thể của các tế bào của chúng ta sau các quá trình tiêu hóa qua trung gian hệ vi sinh vật.


Những người ủng hộ sức khỏe tự nhiên đã ca ngợi ánh sáng mặt trời đối với sức khỏe từ thời xa xưa. Trong khi ở thời hiện đại, chứng sợ ánh sáng mặt trời có mặt ở khắp mọi nơi, với việc các bậc cha mẹ thuộc các dân tộc có làn da sáng hơn đặc biệt buộc con cái của họ phải mặc đồ bảo hộ toàn thân như bộ đồ du hành vũ trụ, cùng với việc phun hoặc bôi lên người các chất dẫn xuất hóa dầu cực kỳ độc hại và kim loại hạt nano có khả năng gây ung thư thì ngày càng có nhiều người đánh giá cao rằng chúng ta cần mặt trời như một dạng thức ăn, năng lượng và thông tin.


Nghiên cứu này có thể mở đường cho sự hiểu biết sâu sắc hơn về những gì con người cần để thực sự khỏe mạnh, với việc thiếu ánh sáng mặt trời là một ví dụ điển hình cho những gì sai lầm nhất về hiện thân hiện đại của chúng ta với tư cách là những sinh vật chủ yếu tập trung trong nhà, dẫn đến sự thoái hóa về thể chất và tinh thần của chúng ta.


Khi các mô hình mới về năng lượng sinh học tế bào xuất hiện, có tính đến khả năng cơ thể thu hoạch trực tiếp hoặc gián tiếp các bước sóng ánh sáng khác nhau của mặt trời thì việc tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời hàng ngày có thể được coi ít nhất là một bước quan trọng như việc “uống vitamin” hoặc tập thể dục để duy trì sức khỏe.


Ngược lại, việc thiếu và/hoặc ít tiếp xúc ánh sáng mặt trời có thể sẽ bị coi là nguy hiểm hoặc gây chết người như hút thuốc.




Sayer Ji  _  Công Thành