a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Hai, 19 tháng 7, 2021

Pháp: Nghệ thuật cảnh quan Paris, nơi hàm chứa thế giới quan và trật tự xã hội.

 

Công viên Monceau, quận 8 Paris, Pháp. Ảnh chụp ngày 04/07/2021 . © RFI Tiếng Việt
Bùi Uyên
 
22 phút

Dù với mật độ xây dựng dày đặc hàng đầu châu Âu, ở bất cứ khu phố nào của Paris, từ quận trung tâm đến giáp ngoại vi, cư dân và du khách vẫn dễ dàng tìm thấy một ốc đảo xanh mát để dừng chân, thư giãn, nhất là trong những ngày hè nóng nực. Có được điều đó là vì thủ đô Paris sở hữu kho tàng quý giá vườn và công viên đa dạng về phong cách, với lịch sử gần 4 thế kỷ hình thành.

 

Nghệ thuật vườn Pháp cổ điển : Từ vườn Phục Hưng Ý đến phong cách vườn Le Nôtre

Cho đến trước thế kỷ 16, cảnh quan tự nhiên của thành Paris chỉ là những vườn rau quả, đất nông nghiệp, những cánh rừng hay cảnh sắc tự nhiên của các dòng sông, mặt nước. Đến đầu thế kỷ 18, theo nghiên cứu của Viện nghiên cứu quy hoạch Paris (APUR), tính cả các khu vườn tư gia, không gian xanh chiếm đến 73% diện tích toàn Paris. Các khu vườn cảnh trang trí có thiết kế cầu kỳ, bài bản chỉ thuộc khuôn viên của các lâu đài, dinh thự hay nhà thờ, tu viện. Đây thường là những khu vườn khép kín, sau những bức tường đá cao hay là sân trong bao bọc bởi các toà nhà.

Lịch sử các vườn hoa, công viên của Pháp bắt đầu được đánh dấu từ thế kỷ 16. Những khu vườn thượng uyển đầu tiên, như vườn của cung điện Tuileries rồi đến Luxembourg, lần lượt ra đời dưới thời hoàng hậu Catherine de Médicis và thái hậu Marie de Médicis, cả hai đều xuất thân từ là công tước vùng Florence - cái nôi của nghệ thuật vườn Ý. Chịu ảnh hưởng nghệ thuật Phục Hưng Ý, các vườn thượng uyển Paris thời ban đầu mang nhiều phong cách của đất nước này. 

Từ nền tảng đầu tiên đó, thế kỷ 17 chứng kiến sự phát triển rực rỡ của nghệ thuật vườn kiểu Pháp. Kế thừa những nét cơ bản của nghệ thuật vườn Phục Hưng Ý vùng Florence, phong cách vườn kiểu Pháp đã phát triển lên tầm cao mới, có quy mô và ý đồ thiết kế rõ ràng hơn. Người có công đầu và tên tuổi gắn liền với thành công này là nhà thiết kế cảnh quan đại tài André le Nôtre. Nối nghiệp truyền thống ba đời thiết kế vườn hoàng gia, ông là cha đẻ của khu vườn cung điện Versailles được xây dựng dưới thời vua Louis XIV. 

Chính Le Nôtre cũng là người được giao thiết kế lại vườn Tuileries, cùng với hàng loạt khu vườn lâu đài trên khắp nước Pháp, giờ đều trở thành những di sản vườn quý giá, như vườn lâu đài Vaut-le-Vicomte, Chantilly, Saint-Cloud, Sceaux ...  Kiểu mẫu vườn Versailles trở thành mẫu mực, được nhân rộng ra khắp các khu vườn của châu Âu thời bấy giờ. Thậm chí quy hoạch ban đầu của thủ đô Washington, Hoa Kỳ do nhà quy hoạch Pháp Pierre-Charles L’Enfant thiết kế, còn được mô phỏng theo bố cục của quần thể vườn cung điện Versailles. 

Công viên Buttes Chaumont, quận 19, Paris, 11/07/2021. © RFI Tiếng Việt

 

Tầm nhìn mở ra đến tận chân trời

Những khu vườn phong cách Pháp thường đặc biệt chú trọng vào luật phối cảnh và thị giác. Nếu nghệ thuật vườn Phục Hưng Ý, điểm mạnh nằm ở việc hài hoà với khung cảnh xung quanh thì đến nghệ thuật vườn Pháp do Le Nôtre phát triển, không gian tự nhiên, bầu trời, ánh sáng đã thành một phần của bố cục, các giới hạn bị phá bỏ. Cảnh quan vườn trải dài hết tầm mắt, đến cuối đường chân trời. Nghệ thuật vườn Pháp có tính thẩm mỹ và biểu tượng cao, thể hiện tư tưởng con người thời đó : chế ngự, làm chủ thiên nhiên. Với triết lý tư duy con người chiến thắng, chinh phục thiên nhiên hoang dã, cái đẹp nằm trong sự trật tự, tỉ lệ. Vì thế, tính vần luật được áp dụng lên tự nhiên, thậm chí sửa đổi nó. 

Rất nhiều thủ pháp thị giác được đưa vào trong thiết kế của André le Notre, tiêu biểu như thủ pháp « phối cảnh chỉnh sửa ». Ở vườn Versailles, kích thước các hồ nước, thảm cỏ và khối cây được thiết kế rộng dần ra ở phía xa cuối đường chân trời, để từ mỗi vị trí nhìn là những bậc thềm độ cao khác nhau, khung cảnh như được kéo gần lại, không bị hút nhỏ ở phía xa theo luật thị giác thông thường, để vẫn giữ được sự cân xứng song song và tỉ lệ đồng nhất. 

Trả lời phỏng vấn RFI Pháp ngữ, Pierre-André Lablaude, kiến trúc sư trưởng về công trình lịch sử, phụ trách vườn cung điện Versailles, phân tích « đặc trưng đầu tiên của nghệ thuật vườn của Le Nôtre là tính đối xứng, đó là nguyên tắc cho sự hoàn hảo ». Từ trên cao nhìn xuống, trật tự đối xứng của lối đi và mảng khối kỷ hà vừa tương phản, vừa tôn lên sự uốn lượn mềm mại của luống cây. Các trục, tuyến, giao điểm, được bo viền, tạo khối bằng các khối cây cắt tỉa kỹ lưỡng hình khối vuông vắn. Các vòi phun nước hay mặt hồ tạo điểm nhấn và dẫn dắt lối đi dạo. Tất cả kết hợp nhuần nhuyễn tạo thành một bức thảm thêu tuyệt đẹp khổng lồ trải ra giữa đất trời. 

Nghệ thuật vườn Anh Quốc : Trả lại vẻ đẹp tự thân của thiên nhiên 

Về mặt phong cách thiết kế, chính Napoléon đệ Tam là người thúc đẩy đưa phong cách vườn Anh Quốc vào Pháp hồi đầu thế kỷ 18. Nguồn tạo cảm hứng lớn cho Hoàng đế ấn tượng về không khí dễ chịu và vẻ đẹp của những khu vườn nước Anh, trong thời gian ông bị lưu đày trên đảo quốc này. 

Đối lập hoàn toàn với phong cách vườn Pháp, nghệ thuật vườn Anh Quốc ra đời trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp, lại đề cao vẻ đẹp vốn có của tự nhiên. Nó xuất phát từ mong muốn cân bằng với khung cảnh cứng nhắc của các nhà máy, xí nghiệp. Con người thấy dễ chịu trong những vườn cây mọc tự do, không vần luật, không cắt tỉa khô cứng. Các yếu tố địa hình, dòng nước, thực vật được mô phỏng gần gũi với dáng vẻ tự nhiên. Các loại cây và hoa được lựa chọn đa dạng màu sắc, hình dáng, chủng loại … 

Triết lý và phong cách này cũng nhanh chóng được lan rộng ở châu Âu, kéo dài đến đầu thế kỷ 20. Ở Pháp, những khu vườn kiểu Anh mọc lên ngay trong những khu vườn phong cách Pháp cổ điển. Từ Tuileries đến Versailles, một góc vườn hoa được dành thiết kế theo kiểu vườn Anh. Ngày nay, khi đến thăm vườn Versailles, du khách sẽ nhận thấy sự đối lập này khi rời vườn chính, rẽ sang khu vườn Trianon, được thiết kế hoàn toàn theo phong cách tự nhiên, lãng mạn của vườn kiểu Anh. 

Những khu vườn xây mới dưới thời Napoléon trở về sau cũng đều theo phong cách này. Đó cũng là biểu hiện sự biến đổi tư duy trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Thiên nhiên ở đây không phải để chế ngự, mà là để hoà mình trong đó, tận hưởng và thư giãn. 


Công viên Monceau, quận 8 Paris, ngày 04/07/2021 . © RFI Tiếng Việt

Từ vườn dinh thự đơn lẻ đến hệ thống công viên công cộng : Xoá mờ dần những lằn ranh giai cấp 

Về mặt sử dụng, từ thời kỳ Trung Đại và Phục Hưng, những khu vườn này đều thuộc sở hữu riêng của Hoàng cung, giới quý tộc hoặc Giáo hội. Ngay cả các cánh rừng lớn như Boulogne, Vincennes hay Saint-Germain-en-Laye đều thuộc sở hữu của nhà vua, là nơi hoàng tộc nghỉ ngơi và săn bắn.

Dần dần, các khu vườn thượng uyển cũng mở cửa cho công chúng, nhưng có sự chọn lọc và phân biệt với từng tầng lớp khác nhau. Như vườn Tuileries, từ thế kỷ 18, có mở cửa trong tuần cho hoàng tộc, còn giới quý tộc chỉ được đến viếng thăm vào ngày Chủ Nhật. Mỗi năm một lần, vào dịp lễ thánh Louis, vườn thượng uyển mở cửa cho binh lính và người lao động.

Phải chờ đến sau Cách mạng Tư sản Pháp, lật đổ nền quân chủ chuyên chế vào cuối thế kỷ 18, các khu vườn hoàng cung, và nhiều lãnh địa của quý tộc được mua hoặc quốc hữu hoá, để mở đón mọi tầng lớp thị dân. Tuy vậy, sự chuyển đổi này vẫn mang những dấu ấn của phân chia giai tầng trong xã hội. Các giới khác nhau thường lui tới những địa điểm tách biệt. Vườn Tuileries vẫn chia khu vực riêng giữa giới thượng lưu và dân thường ở hai cánh của vườn. 

Giới thượng lưu coi việc đi dạo là một hoạt động có lợi cho sức khoẻ để hưởng không khí trong lành. Nếu vườn Luxembourg là nơi nghỉ ngơi thư giãn với gia đình, yên tĩnh suy tư, đọc sách hay trò chuyện, thì vườn Tuileries hay đại lộ Champs Elysées lại là nơi để giới thượng lưu chưng diện, giao lưu. Giới trung lưu và dân thường lại hay chọn nghỉ ngơi ở những cánh rừng, thảm cỏ rìa thành phố, thường kết hợp với những lễ hội, trò chơi hay tụ họp ở những quán rượu. 

Công viên công cộng trong một tư duy hoạch định hệ thống 

Sang đến thời kỳ Cách mạng công nghiệp thế kỷ 19, vai trò của cây xanh không còn chỉ giới hạn ở trang trí, làm đẹp, mà là một yếu tố của vệ sinh, chất lượng đời sống đô thị. Chính mong muốn xây dựng thủ đô Paris thông thoáng, sạch sẽ hơn, mà Hoàng đế Napoléon đệ Tam đã cho tiến hành cuộc đại quy hoạch lại thủ đô. Trong đường lối chung này, lần đầu tiên các không gian xanh được nhìn nhận không đơn lẻ, mà trong một tổng thể, cấu thành một hệ thống phủ khắp đô thị. 

Phần công việc đồ sộ đầu tiên của Adolphe Alphand - kỹ sư trưởng phụ trách quy hoạch cây xanh, là cải tạo lại hai cánh rừng Boulogne và Vincennes, sửa sang, thiết kế lại và trồng thêm cây ở những vườn hoa, đường dạo hiện có, để mở cho đại chúng. Nhưng di sản cảnh quan lớn mà nhà hoạch định này để lại, là việc thiết kế hai công viên lớn là Buttes-Chaumont ở phía đông bắc và Montsouris ở phía nam. Cùng với đó là 24 vườn hoa mới và các đại lộ được mở rộng và trồng thêm hàng ngàn cây xanh, tạo mạng lưới những điểm và trục xanh rải đều khắp thành phố. 

Cũng như Le Nôtre, một lần nữa, một nhà quy hoạch cảnh quan đã góp phần làm kinh đô ánh sáng Paris trở thành tâm điểm chú ý của quốc tế. Chính Adolphe Alphand là người phụ trách thiết kế khu vực Triển lãm Hoàn Cầu diễn ra tại Paris các năm 1867, 1878 và 1889. Tâm điểm là việc thiết kế ngoạn mục toàn bộ cảnh quan khu vực Champ-de-Mars và Trocadéro trải rộng trên 46 hectare, đón triển lãm đầu tiên năm 1867. 

Từ thành công này, ông đã nâng triển lãm lên tầm thế giới. Hai cuộc triển lãm sau đó, ông tham gia lần lượt vào hội đồng thẩm định rồi tổng giám sát và điều hành xây dựng, thu được thành công vang dội. Lượng khách tham quan và số công ty tham dự cũng ngày càng đông : từ gần 52 ngàn công ty với 15 triệu lượt khách năm 1867 lên 62 ngàn công ty và 32 triệu khách năm 1889 trong vòng 6 tháng triển lãm. Chính ông cũng là người ủng hộ việc xây dựng tháp Eiffel cho Triển lãm Hoàn cầu 1889. Ngày nay, quần thể công viên, quảng trường Trocadéro kéo dài đến Champ-de-Mars và tháp Eiffel đã trở thành biểu trưng không những của Paris mà của cả nước Pháp. 

Như vậy, kế thừa di sản nghệ thuật vườn cổ điển Pháp, với tầm nhìn quy hoạch mạng lưới cây xanh bài bản ở nửa cuối thế kỷ 19, mà kho tàng vườn, công viên của Paris vừa phong phú và có giá trị nghệ thuật cao. Từ đó đến nay, đây đều là những không gian công cộng, không còn ranh giới giai tầng xã hội. Ở đó, thiên nhiên ngày càng được trân trọng, gần gũi và quý báu với sức khoẻ và tinh thần của cư dân đô thị.

BacLieu

Khách sạn sâu trong lòng đất nhưng có giá trên trời...

Khách sạn Sala Silvetmine ở Thụy Điển gây ấn tượng với du khách
bởi nó không nằm trên mặt đất mà nằm sâu 155 mét trong một hầm mỏ.

Hầm mỏ này rất ẩm và tối, không có bất kỳ một tia sáng mặt trời nào xuyên qua được,
thậm chí cả tín hiệu điện thoại di động cũng không có, vì vậy việc xem tivi hay kết nối internet là điều không thể.

Du khách chỉ có thể liên lạc với thế giới bên ngoài thông qua bộ đàm.

Vậy thì một khách sạn thiếu thốn rất nhiều thứ như vậy
có gì khiến cho du khách chấp nhận bỏ ra một số tiền không nhỏ để đến và tá túc lại.

Có lẽ điều duy nhất mà nhiều người hài lòng là dù ở dưới lòng đất nhiệt độ thấp
nhưng khách sạn có thiết bị sưởi ấm, đảm bảo mọi người sẽ không bị cảm lạnh.

Trên thực tế, mục đích của khách du lịch đến với khách sạn này không nhất thiết phải là để tận hưởng,
họ thích cảm giác mới lạ của một khách sạn độc đáo, do đó yếu tố chính thu hút khách du lịch
chính là vị trí của nó nằm sâu dưới lòng đất.

Sưu Tầm.

Nhà bác học Von Braun...


1/ Thuở thiếu thời.
Wernher Von Braun sinh ngày 23 tháng 3 năm 1912 tại Wirsitz, tỉnh Silisie, thuộc miền đông của nước Đức, phần đất này ngày nay đã thuộc về nước Ba Lan. Wernher là con thứ hai trong ba người con trai của Nam Tước Magnus Von Braun. Cha ông là một điền chủ nghiêm nghị, đã từng tham gia vào việc chính trị của nước Đức thời Cộng Hòa Weimar, còn mẹ ông, bà Emmy Von Quistorp, là người rất say mê Thiên Văn Học. Bà thường dẫn các con lên sân thượng vào các buổi tối và chỉ cho các con những hành tinh cùng các vì sao lấp lánh trên bầu trời. Vì vậy Wernher đã ước mơ một ngày kia ông có thể đặt chân lên các thiên thể xa lạ đó.
Mới 13 tuổi, Wernher đã ưa thích chơi pháo. Ông nhồi thuốc súng vào một chiếc xe của trẻ em rồi châm lửa đốt. Chiếc xe chạy thục mạng như một con quái vật, gây kinh hoàng cho khách qua đường và làm cho bầy ngựa bạt vía. Ông bị cảnh sát dẫn về nhà. Ông Magnus nghiêm mặt lại và mắng : “Wernher, mày không được làm mang tiếng tao như vậy. Tao sẽ cho mày vào ở trong ký túc xá của một trường học cách đây 5 cây số để mày hết nghịch ngợm đi”. Thế rồi sang niên học mới, Wernher rời gia đình theo học tại một ngôi trường hẻo lánh tọa lạc trên một hòn đảo miền Frise. Tại nơi đây, ông không chăm chỉ học hành. Đối với các thầy giáo, ông là một học trò kém vì vị Hiệu Trưởng đã phê bình về cậu : “Học trò thiếu chăm chỉ, hoàn toàn dốt về Toán, khó lòng theo học nổi”.\
Vào năm 1925, do tình cờ Wernher Von Braun được đọc một quyển sách về Thiên Văn. Trong cuốn sách này có vẽ một chiếc hỏa tiễn đang bay về hướng mặt trăng, kèm theo là một bài doHermann Oberth viết. Oberth là một trong vài lý thuyết gia đầu tiên về hỏa tiễn, cũng là đồ đệ của Tsiolkovsky, nhà tiên tri người Nga về cách chinh phục không gian. Cuốn sách của Obeth, “Hỏa tiễn trong không gian liên hành tinh”, đã làm ngạc nhiên nhiều người và làm điên đầu Von Braun. Cuốn sách gối đầu giường của dày hơn 100 trang này thật là khó hiểu đối với ông, vì nó chứa đựng rất nhiều phương trình bí hiểm. Ông quyết định xin cha cho học tư về Toán Học và Vật Lý. Có lần Von Braun đã nói “Toán Học rất cần thiết cho việc hiểu biết về cách đi đường trong không gian nên tôi quyết định tìm học”.
Von Braun tiến bộ về Toán Học và Vật Lý đến nỗi ông có thể thay thế giáo sư giảng bài cho các bạn trong lớp mỗi khi giáo sư vắng mặt.Vào năm 1928, Hội Du Lịch Không Gian (Verein fur Raumschiffahrt) được Obeth lập ra. Hội này xuất bản mỗi tháng một tờ báo lấy tên là “Hỏa Tiễn” và tập họp được một số nhà bác học cùng các thanh niên Đức say mê hỏa tiễn. Trong số các độc giả của tờ báo Hỏa Tiễn có một thanh niên 16 tuổi, khổ người cao lớn, mắt xanh, tóc nâu, cằm vuông, biểu lộ nhiều nghị lực, đó là chàng Wernher Von Braun vừa học xong bậc trung học và đã ghi tên vào Viện Kỹ Thuật Berlin.Tới mùa thu năm 1929, Von Braun đến nhà ông Willy Ley và trình bày với ông ta về sở thích của mình đối với sự thám hiểm không gian.
Von Braun lại muốn được ông Ley giới thiệu vào Hội Du Lịch Không Gian mà ông ta là một hội viên sáng lập. Ông Willey Ley liền dẫn Von Braun đi gặp Obeth và bắt đầu từ đó, Von Braun hãnh diện được vác trên vai các hỏa tiễn mà các bậc đàn anh sẽ phóng đi.Thời đó, nhà sản xuất điện ảnh danh tiếng Fritz Lang có ý định quay một cuốn phim về sự chinh phục không gian. Fritz Lang mời Obeth làm cố vấn kỹ thuật. Obeth nhận lời nhưng cũng không quên đòi hỏi một số tiền thù lao đủ để chế tạo một chiếc hỏa tiễn và Obeth dự định phóng hỏa tiễn đó vào ngày cuốn phim bắt đầu chiếu.
Năm đó, cuốn phim “Một người đàn bà trên mặt trăng” của Fritz Lang mang lại đầy thành công trong khi việc phóng hỏa tiễn lại bị thất bại chua cay, trái với lời tán dương rầm rộ của báo chí. Nhưng các hội viên của Hội Du Lịch Không Gian không đến nỗi quá thất vọng. Theo ý họ, sở dĩ họ gặp thất bại về hỏa tiễn bởi vì chưa tìm ra được một thứ nhiên liệu có thể tạo nên một áp suất đủ mạnh cần thiết. Họ liền nhờ các nhà hóa học sáng chế ra một chất cháy mới.
Von Braun vác trên vai các hỏa tiễn (phảỉ)
Tại Reinickendorf, ngoại ô của thành phố Berlin, có một khoảng đất trống. Hội Du Lịch Không Gian liền ký một giao kèo với Hội Đồng Thành Phố vào ngày 27-9-1930 để thuê khoảng đất kể trên với giá là 1,500 đồng trong một năm. Khoảng đất này được đặt tên một cách hãnh diện là “Phi Trường Hỏa Tiễn”. Phi trường này tuy sơ sài thật nhưng chỉ vài tháng sau, đã được khắp thế giới biết đến vì tính cách đặc biệt của nó. Nhiều người đã từ các nước Pháp, Mỹ, Anh… tới thăm. Có kẻ tình nguyện giúp sức vào công cuộc thí nghiệm. Tại nới đây có mặt đầy đủ các nhà kỹ thuật nhiều thiện chí : kỹ sư, thợ máy, hóa học gia, phi công… Hội Du Lịch Không Gian tuy không giàu về ngân quỹ nhưng các hỏa tiễn Mirak loại nhỏ cũng ra đời.
Tính tới năm 1932, Oberth, Ley, Von Braun và các hội viên khác đã thành công trong 85 lần thử và một trong các hỏa tiễn đã lên cao được một dặm, đạt kỷ lục của thời đó.Mùa xuân năm 1932, Von Braun học xong chương trình kỹ sư của Viện Kỹ Thuật Berlin (the Berlin Institute of Technology) rồi hai năm sau, đoạt được văn bằng Tiến Sĩ Vật Lý của Trường Đại Học Berlin. Tuy nhiên, sự học hành không làm gián đoạn công cuộc theo đuổi ngành kỹ thuật hỏa tiễn của Von Braun.

2/ Chế tạo hỏa tiễn.
Vào năm 1931, quân đội Đức tìm kiếm một thứ khí giới mới, có tầm hoạt động xa mà không bị ngăn cấm bởi Hòa Ước Versailles. Hỏa tiễn có thể là thứ khí giới phù hợp với điều kiện trên. Đại úy kỹ sư Walter Dornberger được giao phó trách nhiệm phải viết một bản báo cáo về dự án đó. Ông ta liền tới thăm phi trường hỏa tiễn trong 3 ngày liền, hỏi han các nhà bác học và tham dự các cuộc bắn thử hỏa tiễn. Khi đó, Dornberger đã để ý đến Wernher Von Braun vì nghị lực, vì sự sáng suốt và trí hiểu biết của chàng này. Rồi tất cả kế hoạch về hỏa tiễn được chuyển tới Bộ Tổng Tham Mưu Đức vào mùa thu năm 1932.Vào một ngày của tháng 8 năm 1932, Von Braun được mời đến trung tâm thử hỏa tiễn quân sự đặt tại Kummersdorf. Trung tâm này ẩn náu trong một khu rừng thông ở phía nam thành phố Berlin. Chàng thanh niên 20 tuổi Von Braun trở nên Giám Đốc Kỹ Thuật, Đại Úy Dornberber làm Giám Đốc Quân Sự còn ngân quỹ của trung tâm do Bộ Binh Đức đài thọ.Thời kỳ hỏa tiễn thực sự bắt đầu vào ngày 21 tháng 12 năm 1932 tại Kummersdorf.

Tại trung tâm nghiên cứu này, các tai nạn xẩy ra không phải là ít. Đã có lần Von Braun thoát chết, song quần áo bị rách nát. Ngày 17-5-1933, viên kỹ sư danh tiếng Max Valier đã chết trên vũng máu vì máy điều chỉnh phát nổ trước kỳ hạn và đã phóng một mảnh thép vào ngực ông ta. Ít lâu sau, tiến sĩ Warmke, kỹ sư hóa học, cũng chết tan xác vì thứ thuốc nổ mới phát minh.Tại trung tâm nghiên cứu này, Von Braun đã say sưa làm việc. Người ta thường thấy ông ngủ trên các họa đồ dang dở : Von Braun đang trù tính làm 2 loại hỏa tiễn, một thứ dài 1,40 mét còn thứ kia cao 3 mét.Khi bước chân vào trung tâm hỏa tiễn, Von Braun tưởng rằng Bộ Quốc Phòng Đức sẽ bỏ ra hàng triệu bạc để thực hiện chương trình chế tạo vũ khí này. Nhưng ông đã lầm.

Ngân quỹ đã không cho phép trung tâm tiêu quá một số tiền giới hạn, mọi vật liệu đều thiếu thốn. Mặc dù các trở ngại, hai loại hỏa tiễn kể trên cũng được hoàn thành và đã lên cao được hơn 2,200 mét, thật là một thành công đáng kể. Trung tâm Kummersdorf càng ngày càng trở nên chật chội. Giới quân sự Đức đang tìm kiếm một nơi rộng rãi hơn.Vào một dịp Giáng Sinh, Von Braun và nhóm chuyên viên của ông dự lễ trên một hòn đảo nhỏ hẻo lánh tại miền biển Baltique. Đảo Peenemunde này thực là quá hiu quạnh, lại ở vào một vị trí kín đáo, rất xứng đáng là nơi bắn thử vũ khí bí mật.Từ tháng 8 năm 1936, Bộ Quốc Phòng Đức bắt đầu xây cất trên đảo Peenemunde : đường lộ, cầu cống, sân bay, bãi phóng hỏa tiễn, dinh thự, khách sạn cùng các lô cốt… song từ trên máy bay, rất khó mà nhận thấy các kiến trúc này. Có tới hàng ngàn vật lý gia, hóa học gia, kỹ sư, sinh viên, chuyên viên… hoạt động tại đây. Họ làm việc quần quật từ sáng tới tối. Phương châm của họ được khắc trên mặt tiền của trung tâm nghiên cứu : “Các vật lý gia, kỹ sư, kỹ thuật gia là những người tiền phong của Thế Giới Mới”.
Tại nơi đây, các tai nạn xẩy ra không phải là ít nhưng các nhà khoa học cũng giải quyết được nhiều bài toán mới lạ. Các hỏa tiễn càng ngày càng lên cao hơn nhưng điều đó không khiến cho các tướng lãnh Quốc Xã đặt tin tưởng vào. Hitler chỉ hy vọng ở các chiến xa hạng nặng hơn là thứ khí giới mới lạ này. Đã có lần Hitler tới thăm Trung Tâm Hỏa Tiễn Peenemunde mà không nói quá 10 tiếng rồi ra về chán nản.Sau khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, Von Braun cho ra đời một loại hỏa tiễn lên cao được 7,000 mét. Trung tâm hỏa tiễn gửi phim chụp tới Hitler nhưng không được trả lời. Các tướng lãnh cao cấp Đức cũng bắt chước thái độ im lặng của Hitler mà gọi vào quân đội các kỹ sư của Von Braun. Các phương tiện thiếu dần làm cho kết quả trở nên tại hại. Quân đội Đức lại bắt đầu thua ở khắp các mặt trận, vì vậy Hitler hạ lệnh cấp tốc chế tạo hỏa tiễn nhưng sau hai lần mời các thanh ra quân đội tới dự các cuộc phóng thử, hỏa tiễn vẫn không bay nổi. Người nâng đỡ chính thức của Von Braun tại Berlin, Đại Tướng Becker, được Hitler gọi đến : ông ta được quyền chọn đến trại tập trung hoặc tự sát. Ông Becker đã tự tử. Còn Von Braun, ông biết rằng nếu sau một lần bắn thử hỏa tiễn nữa không thành, ông sẽ bị xử bắn hay bị bọn Gestapo hành hạ.

May mắn thay, lần thử thứ ba đã thành công.Vào ngày 7-7-1943, Von Braun được phong tặng chức Giáo Sư còn Dornberger được thăng chức Thiếu Tướng, rồi hai người được gọi đến Văn Phòng của Hitler. Nhà độc tài Quốc Xã đã tỏ ra hối tiếc rằng nếu có hỏa tiễn từ năm 1939, có lẽ đã không có chiến tranh. Rồi Hitler ra lệnh cấp tốc chế tạo thứ khí giới báo thù, làm sao san phẳng các thành phố London và New York trong một thời gian ngắn.Von Braun trở về đảo Peenemunde và được toàn quyền hành động. Đảo này được tăng cường về mặt quân sự cũng như an ninh. Giám đốc Sở Tình Báo Gestapo đích thân theo dõi sự an ninh trên đảo, các pháo đài canh phòng ngày đêm, chung quanh đảo là các bãi mìn tự động và hàng rào dây kẽm có mắc điện cao thế làm cho hòn đảo trở nên bắt khả xâm phạm. Nhưng vẫn chưa hết, người ta còn gạch tên Peenemunde trên bản đồ và khi gọi, lại dùng tên làng kế cận Karlshagen.Von Braun có 5,000 người dưới quyền.
Tất cả các kỹ thuật gia đều gắng sức làm việc để lấy lại thời gian đã mất. Nhưng thứ khí giới bí mật của Von Braun đã bị gián điệp Đồng Minh biết. Các người dân chài Thụy Điển thường kể lại rằng họ thấy các vật lạ bay rất nhanh và phát ra những tiếng động đinh tai nhức óc. Có người lại nhặt được các mảnh vỡ trong đó có chứa đựng những phụ tùng điện tử.London rất lo lắng. Lệnh oanh tạc hòn đảo Peenemunde được ban ra vào cuối tháng 7 năm 1943. Các pháo đài bay Đồng Minh tập dượt rồi đến ngày 17-8 mới lên đường. Đêm hôm đó, hàng ngàn tấn bom đã đổ xuống hòn đảo. Toàn đảo chìm trong biển lửa. Hàng ngàn người chết. Các xưởng vũ khí bị thiệt hại nặng nề. Sáng hôm sau, khi bay quan sát trên đảo, Von Braun đã phải khóc cho công trình của mình.Một trung tâm hỏa tiễn thứ hai được thiết lập tại Volkenrode trong dãy núi Hartz. Người Đức lại cố gắng làm việc. Loại bom bay được lắp hàng loạt tại hai trung tâm hỏa tiễn. Von Braun cả ngày nghiên cứu loại hỏa tiễn liên lục địa và loại hỏa tiễn phóng đi từ các tầu ngầm.

Tuy nhiên, vào tháng 12 năm 1943, Von Braun cũng bị bắt giam trong nửa tháng : Himmler đã tố cáo ông phá hoại vì ông đã chú trọng đến việc chinh phục không gian hơn là tìm cách tàn phá các thành phố London và New York. Tới khi Đại Tướng Dornberger phải đích thân xin với Hitler, Von Braun mới được trả lại tự doTừ năm 1942, các chuyên viên của Von Braun đều công nhận rằng không có thứ võ khí nào chống lại được bom bay. Ngay cả việc làm cho bom bay đi lạc hướng cũng rất khó khăn. Đô Đốc Canaris, Giám Đốc Sở Phản Gián Đức Quốc, là người lo xa nên đã phái đi 10 gián điệp có nhiệm vụ đặt các máy vô tuyến phát ra làn sóng ngắn, dấu tại nóc những tòa nhà chọc trời tại thành phố New York.

Các máy phát sóng này sẽ hướng dẫn bom bay phóng từ các tầu ngầm Đức nổi tại ngoài khơi Đại Tây Dương.Các bom bay đã được sẵn sàng từ đầu năm 1944 nhưng Hitler chưa ra lệnh dùng tới. Sau khi xẩy ra cuộc đổ bộ của Đồng Minh tại miền Normandie, thứ khí giới bí mật đó mới xuất hiện. Quả bom bay V-1 đầu tiên rơi xuống đất Anh vào ngày 16-6-1944, mở màn cho Chiến Dịch Vergeltung (Báo Thù). Người Đức đã dùng chữ V để đặt tên cho bom bay.Nhiều người đã kể lại rằng vào 4 giờ sáng hôm 16-6, một quan sát viên Anh trông thấy một vật sáng bay lại. Vật càng tới gần, tiếng rú của máy càng được nghe rõ, rồi vật đó rơi xuống ngoại ô của thành phố London với tiếng nổ long trời, tàn phá cả một khu vực chung quanh. Thông thường, trong một ngày có tới 200 quả bom bay V-1 rơi xuống đất Anh.

Người ta tính rằng chỉ trong vòng 3 tuần lễ, thành phố London đã lãnh chịu hơn 3,000 quả bom. Thủ Tướng Churchill kêu gọi phải sửa đổi phương pháp phòng không. Nhưng phải chờ đợi tới 3 tháng sau, người Anh mới tìm ra cách chống đỡ.Tới ngày 8-9-1944, loại bom bay V-2 lại bắt đầu tung hoành. Đây là một thứ võ khí có thể mang 800 kilô chất nổ tới các mục tiêu xa hơn 2,000 dặm, lại bay với tốc độ siêu thanh tức là một dặm trong một giây, trong khi vào thời kỳ đó, chưa có một hệ thống hoàn hảo nào báo động sự lao tới của bom bay. Hơn 3,000 quả bom bay V-2 đã tàn phá thành phố London và nước Hòa Lan cả ngày lẫn đêm. Thứ khí giới tinh sảo này đã đánh dấu một bước tiến trong lịch sử chiến tranh của Nhân Loại. Vài năm sau, trong một cuộc phỏng vấn của Tạp Chí New Yorker, Von Braun đã nói về thứ khí giới đó : “Tôi thành thực hối tiếc rằng hỏa tiễn của chúng tôi được sinh ra vì một lý tưởng, nhưng lại bị áp dụng vào công việc giết người. Chúng tôi đã vẽ ra hỏa tiễn với mục đích mở đường tới các hành tinh khác, chứ không phải để tàn phá chính Trái Đất này”.Ngoài bom bay V-1 và V-2 ra, vẫn chưa phải là hết khí giới bí mật. Người Đức còn định dùng một thứ bom khủng khiếp gấp vạn lần : bom nguyên tử.

Thực vậy, ngay từ năm 1939, nhà vật lý người Đức Otto Hahn đã thành công trong việc bắn vỡ nhân nguyên tử. Tới năm 1942, ông Otto Hahn đã chế tạo được chất Plutonium. Rồi kết quả của công trình khảo cứu của Otto Hahn trong năm 1944 đã khiến ông đoạt Giải Thưởng Nobel về Vật Lý của năm 1945. Tất cả các sự kiện này khiến người ta tin chắc rằng nước Đức đã bắt tay vào việc chế tạo bom nguyên tử.Vào năm 1945, quân đội Đồng Minh tiến dần vào lãnh thổ Đức. Peenemunde sắp rơi vào tay địch. Von Braun và các chuyên viên hỏa tiễn phân vân không biết chọn phe Dân Chủ hay phe Cộng Sản. Khi Hồng Quân còn cách Peenemunde 100 cây số,

Von Braun hạ lệnh tản cư khỏi trung tâm hỏa tiễn : người ta dùng anatol, chất nổ của bom V-2, để phá hủy tất cả các cơ xưởng. Von Braun và đại đa số chuyên viên quyết định tới gặp quân đội Hoa Kỳ. Đoàn xe vận tải chuyển bánh về miền Bavière, băng qua các cánh đồng đầy dân tị nạn. Von Braun, Dornberger và hơn 400 kỹ thuật gia ẩn náu tại miền Allgau, chờ đợi. Lúc đi đường, 5 kỹ thuật gia Đức trốn đi gặp Hồng Quân Liên Xô. 12 năm sau, họ là những người có công đầu trong việc phóng lên không trung vệ tinh Spoutnik. Trong cuộc hành trình di tản, Von Braun bị thương ở cánh tay, phải bó bột nhưng không lúc nào ông rời một gói tài liệu quan trọng, nó chứa đựng một dự án về hỏa tiễn liên lục địa và một dự án về vệ tinh nhân tạo.

3/ Chương trình Không Gian.
Từ tháng 4 năm 1945, Đại Tướng Eisenhower được lệnh thu thập, kiểm soát và gìn giữ mọi giấy tờ, hồ sơ, kế hoạch liên quan tới kỹ nghệ và khoa học cùng các tài liệu khác của các tổ chức Đức phục vụ cho mục tiêu quân sự. Vào tháng 5 năm đó, lệnh trên được nới rộng tới các khoa học gia, kỹ sư và kỹ thuật gia về hỏa tiễn của Đức Quốc. Do Chiến Dịch Paperclip này, hồ sơ các nhà khoa học Đức đã được cứu xét và chọn lựa để dùng vào việc di chuyển các nhà bác học Đức sang Hoa Kỳ.Khi nghe thấy đoàn chiến xa Hoa Kỳ tiến lại gần, Von Braun đã đứng ra thương thuyết. Sau vài ngày, Von Braun và 125 nhân viên dưới quyền đã lên máy bay sang nước Mỹ. Các nhà bác học Đức được chở tới Fort Strong, thuộc tiểu bang Massachusetts vào ngày 20-9-1945 rồi được bí mật đưa tới Aberdeen Proving Ground, Maryland. Tới tháng 5 năm 1948, con số các chuyên viên hỏa tiễn Đức và Aó được đưa sang Hoa Kỳ lên tới 1,136 người. Họ làm việc theo hợp đồng với các bộ Lục Quân, Hải Quân, Không Quân và Thương Mại. Đa số các nhà bác học này về sau đã nhập quốc tịch Mỹ, kể cả Von Braun (1955) và Dornberger.

Công tác đầu tiên của Von Braun tại Hoa Kỳ là chọn lọc và đối chiếu lại các tài liệu khoa học thu thập được từ nước Đức, rồi ông được đưa tới White Sands, gần El Paso trong tiểu bang Texas. Tại miền biên giới Mễ Tây Cơ này, Von Braun thấy lại tất cả các cơ xưởng, đài quan sát như tại Peenemunde khi trước, nhưng ông không khỏi cảm thấy chán nản vì chính phủ Hoa Kỳ đã không chú ý đến chương trình thám hiểm không gian bằng hỏa tiễn. Các bom bay V-2 được cải tiến hơn trước, nhưng khí cụ này không thể bay thật cao và chỉ được dùng vào các công cuộc khảo cứu khí tượng.Tới năm 1947, Von Braun được phép trở lại miền Bavière trong một thời gian ngắn. Tại nơi này, ông kết hôn với cô em họ 18 tuổi tên là Marie Louise Von Quistorp. Để đề phòng ông bị Liên Xô bắt cóc, các thám tử luôn luôn canh chừng ông, ngay cả trong thời kỳ trăng mật.Cuộc chiến tranh Triều Tiên xẩy ra. Năm 1950, các nhà bác học Đức được đưa về Huntsville, Alabama, và được lệnh chế tạo cho Lục Quân một loại hỏa tiễn có tầm hoạt động xa và có thể mang đầu đạn nguyên tử. Von Braun trở nên Giám Đốc Kỹ Thuật của chương trình võ khí phi đạn của Lục Quân Hoa Kỳ (the U.S. Army ballistic-weapon program).

Vào năm 1953, hỏa tiễn Redstone của Von Braun được phóng lên tại Mũi Canaveral khiến cho nhiều người hy vọng rằng chương trình thám hiểm không gian có thể thực hiện được. Mùa hè năm 1954, Von Braun cùng một nhóm kỹ thuật gia tới Washington đề nghị phóng lên không gian một vệ tinh nặng từ 2 tới 3 kilô. Nhưng Trung Tâm Nghiên Cứu Hải Quân cam đoan sẽ phóng một vệ tinh có chứa máy ghi lên quỹ đạo của trái đất mà chỉ dùng tới 88,000 mỹ kim. Người ta quyết định giao cho Bộ Hải Quân vì chương trình Vanguard đẹp về mặt lý thuyết hơn, và vệ tinh sẽ được phóng lên không gian vào Năm Địa Cầu Vật Lý Học (1957-58).

Von Braun và nhóm chuyên gia của ông thực ra là vô địch về phương diện hỏa tiễn, tuy nhiên họ chỉ được phép chế tạo loại hỏa tiễn có tầm hoạt động trung bình. Tháng 9 năm 1956, hỏa tiễn Jupiter-C đã bay được 5,300 km, nghĩa là vượt qua tất cả các loại phi đạn tự động của Hoa Kỳ. Von Braun hy vọng sẽ dùng loại hỏa tiễn Jupiter-C này vào việc phóng vệ tinh. Ông chờ đợi.Bỗng vào ngày 4-8-1957, Liên Xô đã phóng thành công lên không gian vệ tinh Spoutnik, làm cho Thế Giới Tự Do hoảng hốt. Von Braun biết rằng giờ đã điểm. Ông tới Thủ Đô Washington và xin phép phóng một vệ tinh lên quỹ đạo trong 60 ngày. Việc phóng vệ tinh Vanguard của Hải Quân đã thất bại đau đớn. Bây giờ tới lượt Von Braun. Ngày 31-1-1958 tại Mũi Canaveral, hỏa tiễn Jupiter-C 4 tầng đã đặt vào quỹ đạo của trái đất vệ tinh “Thám Hiểm I” (Explorer I) nặng 14 kilô. Một loại hỏa tiễn khác của Von Braun tên là Redstone đã đưa Alan B. Shepard, Jr., phi hành gia đầu tiên của Hoa Kỳ lên quỹ đạo của Trái Đất vào năm 1961.

Vào năm 1958, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật cho phép thành lập một cơ quan liên bang mới gọi tên là Cơ Quan Quản Trị Hàng Không và Không Gian NASA (the National Aeronautics and Space Administration). Nhiệm vụ của cơ quan này là nghiên cứu các kỹ thuật bay trong và ngoài lớp khí quyển của trái đất, chế tạo, thử nghiệm và điều hành các phi thuyền trong không gian, khám phá vũ trụ bằng các phi thuyền không người và có người lái, cộng tác với các quốc gia khác trong nhiều dự án xử dụng không gian vì hòa bình. Trong số các nhân vật đầu tiên được bổ nhiệm vào Cơ Quan NASA có Von Braun, một chuyên gia hàng đầu về hỏa tiễn, giữ chức Giám Đốc Trung Tâm Không Gian George C. Marshall (the George C. Marshall Space Flight Center) tại Huntsville, Alabama.

Trong các năm sau, Von Braun đã giúp công vào 3 chương trình bay trong không trung là Mercury, Gemini và Apollo, chường trình đáp xuống Mặt Trăng. Chính nhờ Von Braun, hỏa tiễn khổng lồ Saturn V đã được chế tạo. Đây là loại hỏa tiễn 3 tầng, cao gần 110 mét (hơn 360 feet), nặng khoảng 3,000 tấn. Khi phóng đi, sức đẩy của hỏa tiễn này là 7,500,000 pounds, đốt cháy hơn 10 tấn nhiên liệu trong mỗi phút đồng hồ. Năm 1969, hỏa tiễn Saturn V đã đưa các phi hành gia lên Mặt Trăng. Các thành công về kỹ thuật của các hỏa tiễn loại Saturn đã là các kỷ lục của thời đại đó.Cuộc chạy đua về thám hiểm không gian giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đã làm cho ngành Hàng Không Liên Hành Tinh tiến vượt mức. Con người từ nay đã có hy vọng vượt khỏi trái đất chậthẹp của mình để đi tìm các thế giới xa lạ.

Vào năm 1975, ông Von Braun tổ chức Viện Không Gian Quốc Gia (the National Space Institute). Đây là một cơ quan tư, có mục đích tìm hiểu và phổ biến các hoạt động khoa học về không gian với sự ủng hộ của đại chúng. Do các đóng góp về kỹ thuật không gian, ông Von Braun đã lãnh được rất nhiều bằng khen, phần thưởng… Ông Von Braun qua đời vào ngày 16-6-1977 tại Alexandria, Virginia.Von Braun tin chắc rằng chỉ trong một thời gian gần đây, con người có thể tới được Hỏa Tinh, hành tinh mà vào thời ông còn trẻ, mẹ ông thường chỉ cho ông thấy qua kính thiên văn vào những đêm quang đãng. Von Braun tin tưởng vào trật tự của Vũ Trụ và cho rằng con người sẽ tới được các thế giới tuy xa xôi nhưng không kém phần đẹp đẽ và huyền bí 
Sưu tầm

 


 























XIN MẸ ĐỪNG BỎ CON.

 


Tháng 2/1994, ở phía Bắc nước Đức tuyết trắng phủ dầy đặc, trại trẻ mồ côi Yite Luo nằm bên ven sông Rhine, tĩnh lặng trong gió tuyết. Sáng sớm hôm ấy, nữ tu sĩ Terri, 50 tuổi ra ngoài làm việc. Lúc vừa ra đến cổng, bà nghe thấy có tiếng trẻ con khóc. Bà liền tìm theo tiếng khóc thì phát hiện một bé trai tóc vàng được đặt trong một bụi cây ở cạnh cổng trại. Nữ tu sĩ này đã đưa cậu bé về trại trẻ nuôi dưỡng và đặt tên cho cậu là Derby.

Bảy năm ở cô nhi viện, cậu bé Derby lớn lên khỏe mạnh và ngoan ngoãn. Cậu bé có tấm lòng lương thiện, nhưng tính cách lại có chút u buồn. Một ngày thời tiết nắng ráo, các nữ tu sĩ đã dẫn bọn trẻ đi qua một rừng cây để đến một đồng cỏ xanh ở ven bờ sông dạo chơi. Những người ở trong thị trấn gần rừng cây đều chỉ vào những đứa trẻ này và nói: “Những đứa trẻ này đều là bị cha mẹ bỏ rơi, nếu con mà không nghe lời, mẹ cũng sẽ đem bỏ con vào cô nhi viện đấy!”

Nghe thấy những lời nói này, Derby cảm thấy vô cùng đau lòng. Cậu bé không nhịn được liền hỏi nữ tu sĩ:“Mẹ ơi! Tại sao cha mẹ con lại không cần con? Có phải là họ ghét con không?” Giọng nói của cậu bé tràn đầy bi thương không hề giống với lời nói của những đứa trẻ khác cùng độ tuổi.

Nữ tu sĩ nghe xong giật mình hỏi Derby: “Tại sao con lại nghĩ như vậy?”

Derby trả lời: “Tại vì con nghe thấy mọi người đều nói như vậy, chúng con đều là những đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi!”

Nữ tu sĩ an ủi cậu bé: “Mặc dù mẹ chưa từng gặp mặt mẹ của con, nhưng mẹ tin rằng nhất định mẹ của con rất yêu thương con. Trên đời này không có người mẹ nào là không yêu thương con của mình cả. Năm đó mẹ của con để con lại, chắc chắn là vì một lý do bất đắc dĩ nào đó thôi”.

Derby nghe xong lặng im không nói lời nào, nhưng từ đó trở đi cậu bé thay đổi rất nhiều. Cậu thường xuyên đứng bên cửa sổ của cô nhi viện nhìn ra dòng sông Rhine. Cậu hy vọng những dòng nước đang chảy trên sông Rhine có thể đem tình cảm của cậu đến với mẹ.

Vào “ngày của mẹ” năm 2003, không khí ấm áp của ngày lễ lại một lần nữa dấy lên khát vọng mãnh liệt được gặp mẹ của Derby. Ngày hôm đó, các kênh truyền hình đều đưa tin về các hoạt động ăn mừng, đăng tải những hình ảnh về tình mẹ con. Có một cậu bé 6 tuổi, mồ hôi chảy đầm đìa trên người đang giúp mẹ cắt cỏ. Mẹ của cậu bé nhìn cậu bé mà cảm động rơi nước mắt. Derby khi xem tới hình ảnh này đã nói với nữ tu sĩ: “Con cũng muốn được làm việc giúp mẹ! Mẹ ơi! Mẹ có biết cha mẹ của con đang ở đâu không ạ?”

Nữ tu sĩ trầm tư, không nói được lời nào, bởi vì suốt mấy năm qua bà không hề nhận được tin tức gì của cha mẹ cậu bé cả. Đột nhiên, Derby chạy ra ngoài đường, cậu cứ chạy, trên đường có rất nhiều người mẹ nhưng lại không có ai là mẹ của cậu bé cả. Derby đau khổ và gào khóc.

Mấy tháng sau, khi Derby được 9 tuổi, cậu bé rời khỏi cô nhi viện để đến học tập ở một ngôi trường gần đó. Một lần lên lớp, thầy giáo kể cho học sinh nghe một câu chuyện: “Thời xưa, có một vị hoàng đế rất yêu thích chơi cờ vây, vì vậy ông liền quyết định ban thưởng cho người phát minh ra trò chơi này. Kết quả, người phát minh này lại mong muốn ban thưởng cho anh ta mấy hạt gạo. Tại ô thứ nhất trên bàn cờ đặt một hạt gạo, ô thứ hai đặt hai hạt gạo, tại ô thứ 3 số hạt gạo gấp lên 4 lần…Theo đó suy ra, đến khi bỏ đầy bàn cờ thì số hạt gạo đã là 18 triệu tỷ hạt”.

Cậu chuyện này làm cho hai con mắt của Derby lập tức sáng lên. Cậu nghĩ nếu như cậu giúp một người, sau đó yêu cầu người đó giúp 10 người khác…Với cách này, Derby hy vọng một ngày nào đó biết đâu người được yêu cầu trợ giúp lại là mẹ cậu. Ý nghĩ này đã khiến Derby vui mừng khôn tả. Từ đó về sau, mỗi lần cậu làm một việc tốt giúp một người nào đó, lúc người đó cảm ơn cậu, cậu đều nói: “Xin cô (chú…) hãy giúp đỡ 10 người khác ạ! Đó là cách cảm ơn lớn nhất đối với cháu!”. Những người này sau khi nghe xong, đều vô cùng cảm kích trước tấm lòng lương thiện của cậu bé. Tất cả họ đều thực hiện lời hứa của mình, mỗi khi họ giúp ai đó họ lại đề nghị người kia giúp đỡ 10 người khác. Cứ như vậy, toàn bộ người dân ở thành phố đó đều âm thầm thực hiện lời hứa của mình.

Sức mạnh của “10 việc tốt”

Derby không thể ngờ mình lại có thể giúp đỡ ông Rick, một người dẫn chương trình nổi tiếng của Đức.

Rick là một người dẫn chương trình nổi tiếng của Đức. Mặc dù ông đã 50 tuổi nhưng với ngôn ngữ hài hước hóm hỉnh của mình, ông vẫn thu hút sự yêu mến của khán giả. Các chương trình của ông gần như đều vạch trần hết những bí mật của những người nổi tiếng. Tuy nhiên, có lẽ là do áp lực từ hãng truyền hình và sự cạnh tranh trong công việc, hơn nữa phải chứng kiến quá nhiều mảng tối của xã hội nên vào năm 2003, ông mắc bệnh trầm cảm và không thể tiếp tục được công việc.

Tháng 10/2003, ông đã xin đài truyền hình cho ông được nghỉ dưỡng một năm. Ông hy vọng trong thời gian nghỉ ngơi, ông có thể thả long để sức khỏe được tốt hơn lên. Một thời gian ngắn sau, ông Rick đã tới thành phố mà Derby đang sinh sống để tham quan. Ông đã bị vẻ đẹp của dòng sông Rhine thu hút. Một lần khi trời chạng vạng tối, đang đi trên bờ sông dạo chơi thì bệnh tim của ông đột nhiên tái phát. Ông chưa kịp lấy thuốc từ trong túi ra uống thì đã ngã ngất xỉu trên mặt đất. Cậu bé Derby lúc ấy đang câu cá trên bờ sông phát hiện ra ông bị ngất xỉu nên đã gọi điện cho xe bệnh viện đến đưa ông đi cấp cứu.

Nhờ được cấp cứu kịp thời, ông Rick đã qua khỏi, ông nắm lấy đôi tay của Derby và nói: “Cháu bé, ông phải làm sao để cảm ơn cháu đây? Nếu như cháu cần tiền, ông có thể cho cháu rất nhiều tiền!”.

Derby nghe xong liền lắc đầu nói: “Nếu như ông có thể giúp đỡ 10 người khác khi họ cần sự giúp đỡ, như vậy chính là ông đã cảm ơn cháu rồi ạ!”.

Ông Rick cảm thấy khó hiểu liền hỏi cậu bé: “Cháu cái gì cũng đều không cần sao?”. Derby cười và lắc đầu.

Ông Rick liền bị cậu bé kỳ lạ này thu hút. Ông đã để lại cách liên lạc cho Derby và đưa cậu bé trở về trường. Trước khi ông Rick rời đi, Derby lại dặn dò ông một lần nữa: “Cháu xin ông nhất định hãy làm đủ “10 việc tốt” ạ!” Ông Rick nhìn qua đôi mắt đang rực sáng của cậu bé, trong lòng ông cảm thấy ấm áp thế là ông nghiêm túc gật đầu.

Từ đó về sau, ông Rick cảm thấy sống vui vẻ hơn và chăm chú giúp đỡ 10 người khác. Mỗi lần giúp đỡ được một người, trong lòng ông lại cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Nhất là những lúc họ nói lời “cảm ơn” với ông, ông cảm thấy bản thân mình có giá trị hơn rất nhiều.

Chưa đến nửa kỳ nghỉ phép, ông Rick đã trở lại đài truyền hình làm việc. Khi ông quay lại làm việc, tất cả mọi người đều ngạc nhiên vì sự thay đổi chóng mặt của ông. Ông trở nên vui tươi, lạc quan và hòa đồng với mọi người hơn.

Ngày 01/12/2003, ông Rick lần đầu tiên lên sóng truyền hình sau kỳ nghỉ dài. Tại đây ông đã nói với khán giả: “Trước đây, tôi đã nói rất nhiều những câu chuyện của người khác, hôm nay tôi sẽ kể câu chuyện của chính mình”. Ông xúc động kể về sức mạnh của “10 việc tốt” trong vòng một tiếng đồng hồ. Cuối cùng, ông nói: “Có lẽ, không ai tin đây là chuyện thật, nhưng chuyện này đã tiếp thêm rất nhiều động lực sống cho tôi. Xin các bạn cũng hãy giúp đỡ 10 người khác khi họ cần giúp, tôi tin rằng bạn cũng sẽ cảm nhận được loại cảm giác kỳ diệu này!”

Thông qua truyền hình, chương trình của ông Rick được phát sóng trên khắp nước Đức. Mọi người đều rất xúc động về câu chuyện này. Đã có rất nhiều người gọi điện cho ông Rick nói rằng họ sẵn lòng làm “10 việc tốt” này. Thậm chí còn rất nhiều khán giả yêu cầu được nghe Derby nói chuyện trên truyền hình bởi vì họ muốn gặp cậu bé lương thiện này.

Tháng 1/2004, Derby đã đến đài truyền hình chia sẻ về câu chuyện của mình. Tại hiện trường, có người đã hỏi cậu: “Tại sao cậu lại có suy nghĩ như vậy?”. Derby cảm thấy do dự, cậu cắn môi đứng lặng một lúc, rồTi mới cất tiếng kể rõ chuyện đời mình. Rất nhiều người đã vô cùng xúc động và bật khóc trước tình yêu vô bờ bến của cậu bé dành cho mẹ mình.

Ông Rick đã ôm chặt lấy thân thể gầy yếu của Derby và nói: “Mẹ của cháu nhất định yêu cháu vô cùng, cháu nhất định sẽ tìm được mẹ!”

Tình yêu của hàng ngàn người mẹ

Sau lần phỏng vấn ấy, toàn bộ người dân biết chuyện này đã đề ra chiến dịch “10 việc tốt”. Trước đây, mọi người đều lạnh lùng thì giờ đây lại đối xử với nhau rất có tình. Mọi người đều mong rằng người mà mình đang giúp chính là mẹ của cậu bé Derby kia.

Derby đã trở nên rất nổi tiếng và đài truyền hình cũng giúp cậu tìm mẹ, nhưng mẹ của Derby mãi vẫn không thấy xuất hiện…

Tháng 2/2004, một sự việc bất hạnh và đau lòng đã xảy ra với Derby. Nơi Derby sinh sống là một khu phố nghèo. Sau khi Derby nổi tiếng, các tay xã hội đen nghĩ rằng cậu bé có nhiều tiền. Đêm ngày 16/02/2004, trên đường trở về trường học, Derby đã bị một nhóm lưu manh vây quanh, nhưng bọn họ không tìm thấy tiền trên người cậu bé, nên đã đâm trọng thương cậu bé.

Cậu bé Derby bị đâm thủng bụng và gan, cậu nằm trên vũng máu mãi đến hai tiếng đồng hồ sau mới được cảnh sát tuần tra pPHOhát hiện. Họ đưa cậu bé vào bệnh viện cấp cứu. Tại bệnh viện, trong lúc hôn mê, Derby một mực gọi “Mẹ! Mẹ! Mẹ!…” mãi không thôi.

Đài truyền hình tiếp sóng trực tiếp tình trạng của Derby. Tất cả mọi người đều cầu nguyện cho cậu. Mấy chục sinh viên đến quảng trường Alexanderplatz, nắm tay nhau thành một vòng tròn và kêu gọi: “Mẹ! Mẹ!…” Những tiếng gọi này làm cảm động những người qua đường, họ liền gia nhập vào nhóm đứng xếp thành hình trái tim. Số người tham gia càng lúc càng đông lên, trái tim cũng càng lúc càng lớn hơn.

Điều cảm động hơn nữa là có hàng trăm người mẹ đã gọi điện đến đài truyền hình xin được giả làm mẹ của Derby. Cô Rita, một giáo sư tại trường đại học Munich đã khóc nức nở và nói: “Derby là một đứa trẻ tốt như vậy, được giả làm mẹ của cậu bé, tôi cảm thấy vô cùng tự hào”. Một phụ nữ khác 35 tuổi gọi điện đến nói: “Tôi từ nhỏ đã không có mẹ. Tôi cũng vô cùng khát khao được gặp mẹ. Tôi có thể hiểu được tâm tình của Derby”.

Có hàng trăm người mẹ đã gọi điện đến để xin được làm mẹ của Derby, nhưng mẹ của Derby thì chỉ có một. Cho nên, đài truyền hình đã thảo luận và chọn cô Judy làm mẹ của Derby. Bởi vì cô ấy sống cùng thành phố với cậu bé, hơn nữa giọng nói của cô ấy cũng giống với giọng của cậu bé, như vậy sẽ càng có cảm giác thân thiết hơn.

Sáng sớm ngày 17/02/2004, sau một thời gian dài bị hôn mê, cậu bé Derby đã mở mắt. Cô Judy đã ôm một bó hoa loa kèn đẹp xuất hiện ở đầu giường của Derby. Cô nắm lấy bàn tay nhỏ bé của Derby và nói: “Con trai Derby yêu quý! Mẹ chính là mẹ của con đây!”. Derby dường như nhìn thấy ánh mặt trời, đôi mắt cậu đột nhiên sáng rực lên, cậu đã rất ngạc nhiên và hỏi:“Mẹ thực sự là mẹ của con sao?”. Cô Judy dùng hết sức ngậm lấy nước mắt và gật gật đầu. Tất cả mọi người có mặt ở đây cũng mỉm cười nhìn Derby và gật đầu. Hai dòng nước mắt nóng chảy ra từ đôi mắt của Derby: “Mẹ ơi, con đã tìm mẹ từ rất lâu lắm rồi! Con xin mẹ đừng bỏ con nữa, được không mẹ?”

Cô Judy gật đầu và nghẹn ngào nói: “Con trai yêu quý của mẹ, con hãy yên tâm đi, mẹ sẽ không bao giờ rời xa con nữa…!”. Trên khuôn mặt tái nhợt của Derby nở một nụ cười. Cậu còn muốn nói nhiều hơn nữa nhưng đã không còn sức lực nữa rồi…

Đây là ngày cuối cùng của Derby ở trên cõi đời này, cậu bé luôn nắm thật chặt bàn tay của mẹ mà không buông ra, cậu cũng không muốn nhắm mắt lại vì muốn được nhìn thấy mẹ nhiều hơn… Tất cả mọi người đều òa khóc, cảm thấy như trái tim mình đang vỡ tan ra.

Hai giờ sáng ngày 18/02/2004, Derby đã nhắm mắt lại, vĩnh viên rời xa thế gian nhưng đôi bàn tay của cậu bé vẫn còn nắm chặt bàn tay của mẹ.

 

Nguồn : Sưu Tầm


 MỘT TÂM HỒN

 

Câu chuyện bình dị này không hư cấu với 90 phần trăm sự thật.

Nhân vật chính của truyện giờ là một Bác sĩ giỏi, với trình độ chuyên khoa cao, và đang giữ vị trí lãnh đạo trong ngành Y tế.

Truyện ngắn “Người học trò đạp xích lô”, mong được chia sẻ với các đồng nghiệp và các thế hệ học sinh những tâm sự về nghề dạy học.

Trân trọng cám ơn bạn đọc.

 

Kết thúc chuyến đi xa  Hà Ni, cô giáo đng nghip vi tôi trong câu chuyn này tr v trên chuyến tàu Thng Nht, đến ga Phan Thiết lúc 12 gi đêm. Cô phát thanh viên đón chào hành khách bng cái ging trm khàn vng vào đêm sâu làm cho c con tàu bng tnh gic. Nim háo hc ca người đi xa, v vi nơi thân thuc gn bó khiến bước chân tôi nhanh nhn l thường.

Thoáng một cái tôi đã ở ngoài phố. Thật yên tĩnh: vườn hoa với những chiếc ghế đá trầm ngâm; con đường thoáng đãng, mải miết chạy dài về phía biển. Tôi gọi xích lô để được về thật nhanh với ngôi nhà ấm cúng, nơi có những đứa con kháu khỉnh, mà những ngày xa lòng tôi nôn nao nhớ. Một người đạp chiếc xích lô tiến lại. Dưới ánh điện vàng vọt, tôi thấy đó là một thanh niên dáng dong dỏng, mặc chiếc áo sẫm màu vá nhiều miếng to, chiếc mũ lá rộng vành sụp xuống mặt. Cậu ta còn quá trẻ, tôi đoán vậy.

-Về phố Trần Hưng Đạo bao nhiêu em?

Tôi hỏi giá, vì nghe nói giá xe ban đêm gấp đôi ban ngày, vả lại túi tôi đã cạn sau chuyến đi dài.

-Dạ mười ngàn .

Chàng trai đáp một cách từ tốn và rất nhỏ. Tôi nghĩ, không phải đi bộ quãng đường hai cây số, mà chỉ mất chừng ấy tiền thì không nên đắn đo. Nhưng tôi có quyền mặc cả cơ mà!

-Năm ngàn nhé!

-Dạ.

Tiếng “dạ” có vẻ nhỏ hơn. Tôi lên xe, thầm nghĩ chàng trai này dễ chịu thật, loại người chăm chỉ đây, chắc hoàn cảnh khó khăn nên mới phải làm lụng đêm hôm vất vả thế này.

Thành phố ngủ say. Không có tiếng động nào ngoài tiếng xích xe nhịp đều đều theo đôi chân mải miết của chàng trai. Những vòm cây, những mái nhà tôi đã bao lần đi qua, dừng lại, ngắm nhìn, vậy mà trong đêm, tất cả trở nên lạ lẫm. Tất cả đột ngột hiện ra rồi lặng lẽ lùi vào vắng vẻ.

Tôi yêu sự yên tĩnh này bằng một cảm xúc mới mẻ như lần đầu tiên tôi nhận ra cái thơ mộng của phố xá lúc đêm khuya. Tôi hít sâu vào lồng ngực, hưởng lấy chút không khí trong lành ẩm ướt hơi sương. Chưa kịp nghĩ ngợi gì thì xe đã dừng lại trước cảnh cổng sắt sơn xanh ẩn giữa bờ hoa giấy. Tôi trả tiền, chàng trai không nhận, chỉ vội vã quay xe, rồi nói, vẫn cái giọng rất nhỏ:

-Cô về nghỉ ạ, em đi.

Bây giờ tôi mới ngẩn nhìn chàng trai:

-Phương!

Tôi thốt lên ngạc nhiên, ngỡ ngàng nhận ra cậu học trò lớp 12A mà tôi đang chủ nhiệm. Không nói được gì thêm, tôi đứng trân trân giữa đường nhìn theo bóng Phương lẫn vào phố vắng. Một cảm giác xấu hổ làm tôi đau nhói. Tôi trách mình sao vô tình đến thế? Sao tôi không nhận ra Phương. Phải vì em mặc chiếc áo vá nhiều miếng to? Tôi lại còn mặc cả tiền bạc nữa chứ !Điều này có vẻ mâu thuẫn với những những gì hay ho mà tôi say sưa rao giảng trên lớp. Những ý nghĩ xót xa dày vò khiến tôi đứng ngoài phố một lúc lâu mới gọi người nhà mở cửa. Đêm ấy tôi trằn trọc cho đến khi đài phát thanh thành phố truyền đi bản nhạc quen thuộc đầu tiên trong ngày.*

Tôi đến lớp với tâm trạng buồn khó tả. Câu chuyện hôm qua giúp tôi hiểu rằng không thể đánh giá học sinh một cách hời hợt, nông cạn. Năm mươi học sinh ngồi đây là năm mươi thế giới bí ẩn. Tâm hồn các em như cầu vồng bảy sắc mà ta bất chợt nhìn thấy nhờ những tia sáng mặt trời.

Phương vẫn ngồi kia, góc cuối lớp, nét mặt không gì đổi khác, mà sao bây giờ tôi mới nhìn kỹ, cái mũi cao thẳng trên khuôn mặt khôi ngô, đôi mắt luôn ngời lên ánh nhìn thông minh và ngay thật. Bao giờ Phương cũng chỉnh tề với mái tóc gọn gàng, áo sơ mi tém trong chiếc quần xanh ngay ngắn.Cái dáng cao và nước da trắng làm nên vẻ thư sinh, khiến tôi không nhận ra em trong “vai” chàng trai đạp xích lô đêm qua.

Tôi nhớ lại những cuộc họp hội đồng giáo dục, nhiều ý kiến phản ánh tình hình học sinh. Để tiếp tục cắp sách đến trường đối với các em không đơn giản chút nào. Có em phải bán trứng luộc trên tàu, bán hàng rong ngoài bờ biển, gánh nước thuê, đạp xích lô… Tôi cho rằng đó là những thực tế không tránh khỏi, nhưng lại đinh ninh rằng lớp tôi không có những trường hợp như vậy, bởi vì ánh mắt các em bình thản, vô tư lắm. Hoá ra lâu nay tôi toàn nhận xét học sinh theo cảm tính. Tôi có biết đâu, đằng sau tiếng cười hồn nhiên của các em là một cuộc sống đầy vất vả, lo toan.

Tôi không thể làm ngơ trước một học trò như Phương được. Tôi phải tìm hiểu hoàn cảnh, tâm tư của em, ý nghĩ đó thúc bách tôi mạnh mẽ. Giờ nghỉ, tôi gọi Phương ra hành lang.

-Hôm qua cô có lỗi là không nhận ra em. Cám ơn em đã đưa cô về nhà, nhưng tại sao em lại có vẻ tránh cô thế nhỉ?

-Thưa cô, Em thực sự không muốn cô phải bận lòng nhiều vì chúng em…

-Sao em phải đạp xích lô ban đêm?

-Dạ, em thuê chiếc xích lô này. Chủ xe đi ban ngày, ban đêm họ nghỉ, cho thuê.

-Đêm nào cũng vậy, còn thời gian nào mà nghỉ ngơi?

-Thường lệ cứ 7 giờ tối, em đi các phố đón khách, sau đó lên ga chờ khách xuống tàu. Em về nhà lúc 2 giờ sáng ngủ đến 5 giờ dậy, đi học.

-Ngủ ít vậy mà cô không thấy em ngủ gật?

-Dạ, em quen rồi.

-Cô còn mắc nợ em đấy, chủ nhật cô đến nhà thăm em được chứ?

Phương “dạ” một tiếng rồi đi vào lớp, hoà trong đám học sinh đang gõ bàn hát ầm ĩ. Tôi nghĩ, em không thể sống vô tư.

*

Phương ở trong hẻm một khu phố lao động. Căn nhà chật chội, với những đồ vật sơ sài sắp đặt không được hợp lý lắm. Tất cả muốn nói rằng cái “hậu phương” của em chẳng có gì là vững chắc. Phương kéo ghế, mời tôi ngồi, cử chỉ chững chạc, lễ độ và tự nhiên, không có sự khúm núm mà tôi thường gặp ở một số học sinh.

Vừa rót nước ra những chiếc ly thủy tinh, em vừa kể:

"Bố em là lính ngụy, mất tích trước giải phóng. Mẹ em cũng mới mất cách đây hai năm. Bệnh hen suyễn đã hành hạ bà suốt cuộc đời. Cho đến giờ em vẫn không thể nào quên hình ảnh mẹ khô gầy, hố mắt trũng sâu, đêm đêm không ngủ được, mẹ phải dựa lưng vào vách, há miệng ra thở những hơi thở khò khè, nặng nhọc. Căn bệnh hiểm nghèo, nên mọi sự chữa chạy đều vô hiệu. Mỗi lần lên cơn khó thở, mẹ co rúm người, vật vã khổ sở. Mẹ bảo chỉ mong chết. Em ước mình là bác sĩ để cứu mẹ. Mẹ mất, cuộc sống chúng em càng khó khăn. Hai đứa em nhỏ cũng đang tuổi ăn học. Mấy lần em tính bỏ học, đi làm kiếm tiền nuôi các em, nhưng xa lớp, xa các bạn, nhớ quá, không chịu nổi. Với lại em ước mơ trở thành bác sĩ nên phải cố gắng cô ạ…”

Bây giờ thì tôi hiểu vì sao Phương học giỏi. Mỗi sự vươn lên để chiến thắng hoàn cảnh, đều có một động lực bên trong. Từ đó, mỗi khi giảng bài, tôi thường nhìn vào mắt em, ở đó niềm hy vọng đang cháy lên và tôi như được tiếp thêm sức mạnh.

*

Bẵng đi một thời gian dài, dễ đến bảy, tám năm, tôi đã là bà giáo thâm niên trong nghề.Bao nhiêu lớp học sinh đi qua cuộc đời, bao nhiêu gương mặt lưu lại trong tâm trí, có những điều bị xoá nhoà, lãng quên, có những niềm vui, nỗi buồn khắc sâu thành kỷ niệm. Tôi bắt đầu ngấm mệt, bắt đầu cảm nhận những bất cập và cả nỗi buồn của nghề dạy học.

Một buổi sáng, sau khi dạy xong bốn tiết văn, tôi bước ra khỏi lớp bỗng thấy đầu choáng váng mắt nhoà đi, cổ họng đau cứng như có vật gì to lắm chẹn lại, ngực tức tựa hồ ai đem đặt vào đó một tảng đá. Tôi ho rũ và khạc ra một cục máu đỏ bầm to bằng đầu ngón tay. Không tin ở mắt mình, tôi nhìn kỹ lại, thì đúng là một cục máu. Tôi bàng hoàng kinh sợ, nghĩ đó là dấu hiệu của bệnh “lao” và rùng mình nhớ đến những đồng nghiệp của tôi đã chết vì lao phổi. Hai mươi năm cầm phấn, viết và nói, tôi đã hít không biết bao nhiêu vi trùng.

Những hạt bụi trắng, li ti mà những người làm thơ, làm nhạc đã tha thiết ngợi ca. Tuổi trẻ vốn tin vào những gì đẹp đẽ. Tôi cũng một thời thi vị hoá bụi phấn. Cứ để mặc cho phấn nhuộm trắng bàn tay như một bông hoa huệ; Cứ để phấn bám đầy quần áo, rắc mịn màng lên tóc, bay vào mũi, vào miệng, đó mới thật sự yêu nghề, xả thân vì đạo. Cứ gào lên mà giảng, chẳng hề băn khoăn về hai lá phổi. Mấy lần thấy đau cuống họng, ngậm vài viên ômai ngòn ngọt, dìu dịu lại nói rất say sưa. Có lúc mệt lử tự dặn mình đừng hăng quá, phí sức, nói nhỏ lại, ít đi, chậm rãi hơn, nhưng gặp chỗ tâm đắc, hứng lên, lại thao thao bất tuyệt. Chợt nhớ mình quá đà thì cổ họng đã sưng tấy lên rồi.

Lần này không thể xem thường, tôi phải đến bệnh viện. Phòng khám khá đông. Tôi lấy cuốn sách “Giáo dục con người chân chính” của Xu-khôm-lin-xki ra đọc, chờ đến phiên mình.

-Chào cô ạ – Một người mặc áo bơ -lu trắng, mang kính cận, nhìn tôi, cười:

-Thưa cô, cô khám bệnh ạ, cô có nhận ra em không?

Trong giây lát, những gương mặt học trò lần lượt hiện lên trong trí nhớ.

-A, Phương! – Tôi khẽ reo lên – Thế ra bây giờ em không tránh cô như dạo trước nữa.

– Dạ. Sau khi tốt nghiệp đại học Y khoa, em về làm việc bệnh viện này. Thưa cô, mời cô vào phòng khám.

Hôm ấy, chính Phương đã khám bệnh cho tôi, đôi mắt em nheo lại, đăm chiêu dõi theo từng nhịp thở của tôi qua chiếc ống nghe. Sự bình tĩnh và thành thạo của Phương làm cho tôi hoàn toàn tin cậy. Tôi đâu còn là cô giáo của em như ngày nào trang nghiêm trên bục giảng. Tôi là bệnh nhân, còn em là thầy thuốc. Phương đưa tôi đến phòng khám tai mũi họng, khoa X quang chụp phổi. Cử chỉ của Phương lẹ làng dứt khoát, tôi chỉ biết phục tùng như một cái máy.

Sau đó, tôi đến ghế đá vườn hoa giữa bệnh viện ngồi chờ kết quả xét nghiệm. Một chiếc lá xanh non khẽ chạm vào tay tôi như một cử chỉ dịu dàng. Chẳng có cơn gió nào giật đi chiếc lá như trong truyện của O. Henry. Vây quanh tôi là muôn nghìn con mắt lá, tràn trề hy vọng. Ngồi ở vườn hoa tôi có thể nhìn toàn cảnh bệnh viện. Một chiếc cáng đưa một bệnh nhân vừa chết xuống Nhà vĩnh biệt, những tiếng khóc dữ dội đi theo.

Một anh thanh niên ngồi ở ghế đá bên cạnh nở một nụ cười sung sướng khi có người đến báo tin vợ anh vừa sinh con trai đầu lòng. Ở đây sự sống và cái chết diễn ra trong khoảnh khắc. Nếu có khi nào ta đứng trong khoảnh khắc ấy sẽ cảm nhận sâu sắc hơn hạnh phúc và khổ đau. Những người thầy thuốc là những chiến sĩ gan góc, họ đang chiến đấu âm thầm, giành lại sự sống, niềm hạnh phúc cho con người, mà sao bây giờ tôi mới thấm thía điều này. Phải chăng, chỉ lúc nào ta là bệnh nhân, bị nỗi đau thể xác dày vò, ta mới suy nghĩ về công lao của người thầy thuốc?

Chị bạn tôi là bác sĩ phàn nàn rằng “nghề Y khổ sở lắm. Mổ bụng người, cắt cả khúc ruột thừa, mà tiền bồi dưỡng không bằng tiền trả cho anh thợ ngồi ở đầu đường vá cái ruột xe”. Ồ, thế thì nghề dạy học của tôi có hơn gì? Tiền bồi dưỡng cho một giờ dạy học ngoài tiêu chuẩn, gọi là giờ phụ trội, chỉ mua được một quả chanh. những chuyện như thế thật vô cùng, làm sao có thể ghi hết bằng vài trang truyện?

Có điều là tôi, chị và tất cả mọi người vẫn sống, vẫn làm việc. Chúng ta là những trí thức không thể lạc quan theo kiểu A-Q (truyện Lỗ Tấn) nhưng chắc chắn còn có một sức mạnh vô hình nào quyết định sự sống của ta. Bát cơm, manh áo, chẳng đơn giản chút nào, nó làm ta chóng mặt. Nhưng đáng sợ hơn khi trái tim ngủ yên, bộ óc ngủ yên…

Có những lúc tôi tưởng mình sắp ngã xuống giữa bục gíảng cao và vững chãi như cái điểm tựa kia. Nhưng rồi lòng tự trọng đã buộc tôi phải đứng lên với một tư thế đàng hoàng. Mỗi giờ dạy thất bại khiến tôi đau đớn hơn cả nỗi đau thể xác. Mỗi một giờ dạy thành công thì niềm hạnh phúc ùa đến ngập tràn, như được hồi sinh. có khác gì niềm vui của người thầy thuốc giành lại sự sống cho người bệnh từ tay thần chết…

Có lẽ tôi sẽ còn nghĩ ngợi miên man nếu Phương chưa trở lại. Em cầm trong tay tấm phim to bằng trang giấy học sinh. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy một phần cơ thể của mình trên hình ảnh, hồi hộp, lo âu. Chỉ một lời nói của Phương lúc này là quyết định phần đời còn lại của tôi. Nếu tôi bị lao phổi có nghĩa là tôi phải vĩnh viễn rời xa bục giảng.

Phương giơ tấm phim lên, chỉ vào từng vùng sáng tối giải thích:

– Thưa cô, kết quả xét nghiệm cho thấy tình trạng sức khỏe của cô hiện thời không đáng lo ngại. Không có dấu hiệu bệnh nguy hiểm. Cô chỉ bị yếu phổi. Hiện tượng ho ra máu là do viêm họng, xung huyết. Cô cần được nghỉ ngơi ít ngày và sử dụng thuốc theo chỉ dẫn, nếu thấy trong người còn mệt cô trở lại đây.

Tôi run run đón lấy tấm phim từ tay Phương, khẽ nói “cám ơn em” mà nỗi xúc động như muốn vỡ òa.

Phương tiễn tôi ra cổng bệnh viện. Quãng đường ngắn không cho phép cô trò nhắc nhiều về kỷ niệm, nhưng hình ảnh cậu học trò mặc chiếc áo vá nhiều miếng to, đạp xích lô và căn nhà chật chội trong hẻm hiển hiện trong tâm trí tôi. Sực nhớ điều gì tôi hỏi:

– Hai em của Phương thế nào?

– Dạ, tốt nghiệp đại học hết cả rồi cô ạ. Một đứa Bách khoa, một đứa kinh tế.

– Ôi trời ! Giỏi quá. Làm thế nào mà nuôi nhau ăn học?

– Dạ, cũng tự lao động kiếm sống thôi ạ. Chật vật, gian nan lắm, nhưng rồi cũng qua.

– Em làm cô bất ngờ quá đấy Phương ạ. Sự thành đạt của các em là bài học làm người.

– Em vẫn nhớ, khi giảng bài, cô thường nói: Hạnh phúc chỉ có thể đạt được bằng nghị lực vươn lên không ngừng.

Tôi tin Phương thành thật, vì em nói điều đó sau những trải nghiệm của chính cuộc đời mình.

Chia tay Phương, tôi ra khỏi bệnh viện trong trạng thái nhẹ nhõm như chưa từng đau ốm. Phần vì Phương đã cho tôi biết tôi không bị lao phổi, nhưng lý do quan trọng hơn khiến tôi trở nên khỏe khoắn là vì tôi vừa được chứng kiến “thành quả” của mình.Người thầy giáo thường mang tâm sự buồn vì nghề dạy học vất vả, âm thầm nhưng chẳng bao giờ được nhìn thấy “sản phẩm”. Thì đây, sản phẩm của nghề dạy học là những con người, những thầy thuốc, kỹ sư, nghệ sĩ, nhà kinh tế, nhà lãnh đạo…

Tôi sung sướng nhận ra, với tôi, không có chỗ đứng nào tốt đẹp hơn chỗ đứng trên bục giảng....

Không một hành động nào cho dù nhỏ nhoi, che đậy, giấu kín tới đâu mà không tạo Nhân và không có Nhân nào mà không gây Quả !! Hãy cẩn thận trước khi làm một điều gì !

Sưu Tầm


Đà Lạt trong ký ức.



Không cần đến câu “khi yêu trái ấu cũng tròn”, cũng thấy giọng nói của người dân xứ lạnh sao dễ thương ấm áp vô cùng, đặc biệt là cách phát âm của những người gốc Huế đã sinh sống lâu năm tại Dalat. Nhẹ hơn giọng của những người “Huế rặt”, âm hưởng ngả về giọng Nam nhiều hơn nên … dễ nghe, nên lẽ dĩ nhiên dễ hiểu hơn, dễ “thân nhau” hơn.

 

Tôi của hơn 40 năm về trước vẫn thường đi lên đi xuống cái thành phố mù sương ấy ít nhất mỗi tháng một lần. Thuở ấy tôi mê Đà Lạt với những căn nhà đầy hoa rực rỡ, những ngọn đồi thoai thoải màu xanh và mê… cả người Đà Lạt.



Chúng tôi vẫn thường lui tới quán cà-phê H.S. ở giữa con dốc đường Minh Mạng. Làm sao quên được những buổi chiều ngồi với nhau nhâm nhi ly trà cúc, rù rì to nhỏ đủ mọi thứ chuyện trên đời? và hình ảnh ông chủ Q.H. với cái khăn foulard đỏm đáng quanh cổ, tay thọc túi quần, nách kẹp tờ báo, đứng trước cửa tiệm bập bập ống pipe? Làm sao quên được những buổi tối đi dạo loanh quanh khu Hòa Bình rồi sà vào mấy hàng xe đẩy ăn tô miến gà cho ấm bụng hoặc nhấm nháp những ly chè đầy ắp tình bạn ngọt ngào?


Đà Lạt của thời sinh viên bay nhảy quả thật vẫn làm mềm lòng mỗi khi nhớ lại.



Giờ đây, tôi đi lang thang qua những con đường cũ mà cảm thấy xa lạ. Suýt nữa đi lạc vì còn mải nghếch mắt nhìn những thay đổi. Không chỉ tên đường đã đổi, mà những căn nhà bé bé xinh xinh cũng chẳng còn, thay vào đó là những tòa nhà nhiều tầng chiếm gần hết hai bên đường. Buồn.

 

Cà-phê H.S. cũng không còn, thay vào đó là một văn phòng du lịch. Tôi đi lên đi xuống con dốc đường Minh Mạng hàng chục lần, ngơ ngác, ngẩn ngơ.

 

Cà-phê Tùng ư? vẫn còn đấy, và khung cảnh vẫn thế. Nhưng có lẽ không khí không còn mời gọi tôi nữa. Ngồi đấy lâu làm gì, thêm buồn.



Có hôm đi ngang qua khu nhà ngày xưa của B., tôi thấy rõ ràng tim đập mạnh, vì chợt nhớ đến những buổi tối B. đưa tôi đến phòng trà (quên mất tên) nơi có ban nhạc chơi khá hay và B. giữ tay trống. Phòng trà bỏ túi này không thể so sánh với quán Hầm Gió trên đường Võ Tánh ở Saigon cuối những năm 60 thỉnh thoảng có nhiều ca sĩ thứ thiệt đến trình diễn. Nhưng không khí tại đây ấm cúng hơn, thân mật hơn và các giọng ca tuy không điêu luyện nhưng hát hò hết mình, sôi nổi, hâm nóng cả gian phòng bé nhỏ và khán thính giả.


Ngày ấy chưa có phòng trà mời khách lên sân khấu hát như bây giờ, nên các ca sĩ vườn “chạy sô” và ban nhạc phải gồng suốt chương trình từ A đến Z. Những bản nhạc được yêu cầu phần lớn là nhạc Mỹ và Tây, ví dụ như Aline, Capri c’est fini, Unchained melody, Smoke Gets In Your Eyes, .v.v… là những bản nhạc ca tụng tình yêu mà giới trẻ khắp nơi trên thế giới say mê, không riêng gì giới trẻ của Saigon.



Là những bản được lặp đi lặp lại nhiều nhất trong chương trình nhạc ngoại quốc yêu cầu của đài Phát Thanh Quân Đội trước 75, với xướng ngôn viên là cô Mỹ Linh (còn có tên là Hồng Phương Lan).

 

Sở trường của B. là drummer nên công tâm mà nói, giọng ca chỉ xoàng xoàng thôi nhưng dư sức làm chân tay tôi rũ riệt khi nghe B. hát bài And I Love Her của Beatles, phụ họa là ánh mắt nhìn chăm chăm về phía tôi… đang ngồi chết lịm!



Với thời gian, mọi sự đều thay đổi, cả lãnh vực văn nghệ của Đà Lạt cũng đã thay đổi. Ca nhạc tại phòng trà Dương Tùng mà tôi được thưởng thức mới đây cũng thế. Phòng trà trở thành “Hát cho nhau nghe”. Ông chủ quán làm MC, chốc chốc lại kiêm luôn vai ca sĩ và nhạc sĩ. Khách cũng được mời lên hát. Khách hầu hết là những người đứng tuổi. Những bản nhạc từ thuở nào chợt nghe lại, thấy xốn xang trong lòng. Hát đâu cần hay, nhưng hát cả nỗi lòng, người ta cảm thấy gần nhau. Gần nhau về ký ức..


Người bạn ở Đà Lạt kể: “Chủ quán là dân Bắc kỳ 54 gặp thiếu nữ Bắc kỳ 75 ở chợ Bến Thành. Họ kéo nhau lên Đà Lạt mướn nhà rông, mở quán làm văn nghệ hát hò. Chủ quán chết cái tên “Phương nhà rông” là vậy. Duyên nợ văn nghệ với Đà Lạt hơn 20 năm, quán dời hết chỗ này đến chỗ nọ như dân du mục, nhưng “nhà rông” vẫn còn bám vào tên ông chủ, “Phương nhà rông”.  Bây giờ quán đậu lại cuối đường Nguyễn Công Trứ.

 

Đà lạt bây giờ nóng và nắng. Cuối tháng Năm lẽ ra có những cơn mưa lớn và dai dẳng, người bạn bảo vậy. Nhưng có lẽ để chiều lòng tôi, trong gần một tuần lễ tôi trở lại xứ ngàn hoa, ông giời chỉ thỉnh thoảng lắc rắc mưa bụi.

 

Con đường quanh bờ hồ vẫn đẹp nhưng sao cứ thấy có cái gì đó thất vọng trong tôi; có phải vì những công trình kiến trúc đồ sộ thi nhau khoe bóng ven hồ, đuổi dần sự thơ mộng mộc mạc của thiên nhiên?

 

Giọng người Dalat gốc cũng trở nên hiếm hoi. Lại cũng buồn.


Khí hậu mát lạnh cũng không còn; tuy không đến nỗi đổ mồ hôi mồ kê nhễ nhại như ở Saigon nhưng vẫn có thể ăn mặc phong phanh, kể cả khi mặt trời đã lặn. Sự quen thuộc còn chăng là trong một vài buổi chiều tắt nắng được nhìn thấy sương mù giăng mắc trên những nóc nhà, ngọn cây.



Lạ một điều, đứng trên balcon của nhà người bạn và phóng tầm mắt nhìn xa xa, thấp thoáng  sau rặng thông của ngọn đồi là trường Couvent des Oiseaux năm nào, bỗng dưng như tìm lại được vẻ đẹp quyến rũ rất Đà Lạt, một chút Đà Lạt thuở xưa.

 

Cho dù thay đổi hay vẫn thế, gì thì gì, tôi vẫn yêu Đà Lạt.

 

Tôi mượn một đoạn văn trên blog của người bạn nói về cà phê Dương Tùng để kết thúc bài viết: Quán nhỏ, nên ấm, bài trí cổ điển. Ai lên Đà Lạt, thấy mình chưa già thì nên tới đó, mà thấy mình đã già cũng nên tới đó luôn. Tới để thành ca sĩ (ruộng), chẳng lẽ “một đời dấu kín, đến khi xuôi tay còn thấy ngậm ngùi” hay sao?


Sưu Tầm