a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT MÙA GIÁNG SINH VÀ NĂM MỚI 2025 AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM MỚI 2025 VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.
Hiển thị các bài đăng có nhãn SUU TAM. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn SUU TAM. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

ALBERT EINSTEIN

 



Vợ của Albert Einstein thường khuyên ông phải ăn vận cho chỉn chu hơn khi tới chỗ làm. Ông luôn phản bác lại rằng:
- “Tại sao nhỉ? Mọi người ở đó đều biết tôi mà”.
Khi Einstein tới dự một cuộc họp lớn, bà lại nài nỉ ông hãy mặc những bộ đồ đẹp đẽ hơn. Ông lại bảo:
- "Tại sao chứ? Ở đấy có ai biết tôi đâu!".

Người ta thường yêu cầu Albert Einstein giải thích thuyết tương đối. Ông phân trần:
- "Bạn giơ tay trên bếp lò, một phút dài như một giờ. Bạn ngồi với một cô nàng xinh đẹp, một giờ chỉ như một phút. Ấy chính là sự tương đối!”.

Một hôm, hồi còn làm việc tại đại học Princeton, khi đang trên đường về, ông quên mất địa chỉ nhà mình. Tài xế taxi không nhận ra ông. Ông hỏi anh ta có biết nhà của Einstein không? Anh ta đáp rằng:
- "Ai mà không biết địa chỉ của Einstein chứ nhỉ? Ai ở Princeton này chả rõ. Ông muốn gặp ông ấy à?"
Và Einstein nói:
- “Tôi là Einstein đây. Tôi quên địa chỉ nhà mình rồi, anh chở tôi về đó được không?”
Tài xế chở ông về và còn chẳng lấy tiền cước xe.

Có lần, Einstein đi tàu hỏa từ Princeton và người soát vé đi xuống để bấm vé của các hành khách. Khi anh ta tới chỗ Einstein, ông tìm trong túi áo vest. Chẳng thể nào mò ra được tấm vé, ông chuyển sang túi quần. Không thấy, ông lại tìm trong cặp nhưng cũng không có luôn. Và rồi tiếp đến, ông tìm cả chiếc ghế bên cạnh mình. Vẫn chẳng thấy gì. Người soát vé nói:
- “Tiến sĩ Einstein, tôi biết ngài mà. Chúng tôi đều biết ngài. Tôi chắc rằng ngài đã mua vé rồi. Xin đừng lo lắng gì cả”.
Einstein gật đầu một cách lịch sự. Người soát vé tiếp tục đi tới những hàng ghế phía sau. Lúc sắp sang toa khác, anh ta quay lại và thấy nhà vật lý vĩ đại của chúng ta vẫn đang loay hoay quỳ xuống tìm tấm vé. Anh ta vội vã đi tới và bảo:
- “Thưa tiến sĩ Einstein, xin đừng lo mà, tôi biết ngài là ai mà. Không vấn đề gì đâu. Ngài không cần vé đâu. Tôi tin là ngài đã mua vé rồi”.
Einstein nhìn anh ta và nói:
- "Chàng trai à, tôi cũng biết tôi là ai mà. Nhưng tôi quên béng mất mình đang đi đâu rồi”.

Khi Einstein gặp Charlie Chaplin:
Einstein nói:
- "Tôi rất ngưỡng mộ nghệ thuật của ông, nhất là sự phổ quát trong ấy. Ông chẳng cần nói gì... Vậy mà cả thế giới vẫn hiểu được."
Charlie Chaplin đáp lời:
- “Đúng vậy. Nhưng danh tiếng của ông còn vĩ đại hơn mà. Cả thế giới ngưỡng mộ ông, dù chẳng ai hiểu được ông nói gì!".

•Nhung Nguyen sưu tầm từ Internet.
--------------------

Gần 100 năm sau cuộc gặp gỡ giữa 2 thiên tài Einstein và Charlie Chaplin, thế giới này chưa xuất hiện rõ nét người thứ ba. Người ta chỉ để ý tới những người nắm quyền lực, những người giàu có vì quyền lực hay công nghệ. Để ý sẽ thấy 2 thiên tài của thế kỷ XX chẳng ai giàu có cả, đó cũng là một sự may mắn cho loài người, bởi những gì họ để lại hơn hẳn tờ giấy bạc mới cứng. Tiền có thể in ra được, còn đóng góp của các thiên tài chỉ có thể được sinh ra đời từ chính họ. Và lịch sử thế giới cũng cho thấy (?) những kẻ lo kiếm tiền hầu như chẳng để lại cái gì giá trị cho nhân loại.


1055. Năm 1928, Nikola Tesla đã đăng ký Bằng sáng chế Hoa Kỳ số 1.655.144 cho một cỗ máy bay không theo quy ước.
Ông thậm chí còn phác thảo thiết kế cơ bản cho dự án. Tesla đặt mục tiêu tạo ra phương tiện bay tối ưu, một phương tiện được cung cấp năng lượng bởi năng lượng tự nhiên hiện diện xung quanh chúng ta.
Trước khi qua đời, Tesla đã phát triển các kế hoạch chi tiết cho hệ thống đẩy của máy bay, mà ông gọi là "SPACE DRIVE"—một hệ thống đẩy điện từ.
Công nghệ chống trọng lực của Tesla nhằm mục đích cho phép tạo ra một đĩa bay mang tính cách mạng—một tàu vũ trụ có thể khai thác các trường điện từ để cất cánh từ mặt đất và bay lên bầu trời với tốc độ và sự dễ dàng đáng kinh ngạc.
Tiếc là mọi thứ mới chỉ là trên giấy và Tesla đã ra đi trước khi có thể biến cỗ máy này thành hiện thực.
---------------------------------------------------------
Ai đã xây dựng các công trình vượt xa công nghệ hiện tại?
📂 Truy cập link để lấy tài liệu: bianvn. com/ebook
📡 Tele: khamphabianvn | Nhóm: chatkhamphabian 


Đây là người phát minh ra ốc vít nở, thứ đảm bảo cho ốc vít bám chặt vào tường, thường dùng trong xây dựng.
Ông ấy chính là Artur Fischer (1919 - 2016), một nhà phát minh người Đức đã tạo ra rất nhiều sản phẩm có ích cho xã hội. Ngoài ốc vít nở thì ông còn phát minh ra đèn flash cho nhiếp ảnh. Sau khi nhận thấy mối nguy hiểm của việc sử dụng ánh sáng flash từ việc đốt c háy magnesium vốn có thể gây ra hoả hoạn nên vào năm 1949, Artur Fischer đã khám phá ra cơ chế đồng bộ giúp kích hoạt đèn flash khi chụp ảnh.
Đến lúc cuối đời (vào năm 2016), ông đã làm việc chăm chỉ và cống hiến cho thế giới 1.100 bằng sáng chế trong suốt sự nghiệp. Số lượng phát minh của ông đã vượt cả Thomas Edison, người đã có 1.093 bằng sáng chế.

SƯU TẦM




Năm 2009, thợ lặn huyền thoại người Ý Enzo Maiorca đang lặn cùng con gái mình, Rossana, ngoài khơi bờ biển Syracuse.
Bất chợt, ông cảm thấy một cái chạm nhẹ sau lưng. Khi quay người lại, ông thấy một con cá heo. Nhưng nó không đến để chơi đùa – ánh mắt nó như đang cầu xin một điều gì đó.

Con cá heo lao mình xuống sâu dưới lòng biển, và Enzo lập tức bơi theo. Ở độ sâu khoảng 15 mét, ông phát hiện ra một con cá heo khác đang bị mắc kẹt trong một tấm lưới đánh cá bỏ hoang. Không chút do dự, ông ra hiệu cho con gái đưa mình một con dao. Và vào đúng khoảnh khắc cuối cùng, ông đã giải thoát được chú cá heo tội nghiệp.

Con vật kiệt sức đến mức không thể tự bơi nổi. Enzo kể lại rằng, vào giây phút được giải cứu, nó phát ra một âm thanh "gần như tiếng người", đầy xúc động và nghẹn ngào.

Khi họ cùng nhau nổi lên mặt nước, một điều kỳ diệu đã xảy ra: chú cá heo vừa được cứu chính là một con cá heo cái đang mang thai – và chỉ vài phút sau, nó đã sinh một chú cá heo con ngay giữa lòng đại dương.

Con cá heo ban đầu – người bạn đồng hành, người đã đi tìm người giúp đỡ – bắt đầu bơi vòng quanh họ, rồi nhẹ nhàng tiến lại gần Enzo, chạm nhẹ vào cằm ông bằng chiếc mỏ mềm của mình – như một lời cảm ơn sâu sắc, không lời. Sau đó, cả gia đình cá heo lặng lẽ bơi xa, tan vào màu xanh thẳm của biển cả.

Sự kiện ấy để lại trong Enzo một chấn động tâm hồn sâu sắc. Sau này, ông chia sẻ:

"Chừng nào con người còn chưa học được cách tôn trọng thiên nhiên và biết lắng nghe các loài sinh vật khác, thì chừng đó, con người vẫn chưa thật sự hiểu được vai trò của mình trên Trái Đất này.

Sưu tầm 





Thứ Hai, 22 tháng 9, 2025

Nông dân hợp sức tiêu diệt một loài vật, gần 100 con bị bắt chỉ trong một đêm Hoài Thương

 


Loài vật này đã trở thành nỗi ám ảnh của nông dân khi gây thiệt hại nghiêm trọng cho mùa màng.

Vùng đất Vạn Đan (Đài Loan), nơi được mệnh danh là "quê hương của đậu đỏ" đang đứng trước một mối đe dọa lớn từ sự bùng phát quá mức của cự đà xanh (Green Iguana). Loài sinh vật ngoại lai này đã trở thành nỗi ám ảnh của nông dân mỗi mùa gieo hạt, khi chúng xuất hiện dày đặc và gây thiệt hại nghiêm trọng cho mùa màng.

Theo báo cáo, văn phòng nghị viên Hong Zongqi đã tiếp tục duy trì "Đội săn rồng" - lực lượng chuyên trách thành lập từ năm ngoái để đối phó với cự đà xanh. Trong một đêm, nhóm có thể đến nhiều điểm nóng khác nhau và bắt giữ gần 100 con, chất đầy thùng xe tải nhỏ. Hình ảnh những con cự đà xanh to lớn, thân dài gần bằng chiều cao một phụ nữ trưởng thành, nằm chồng chất trên xe đã gây sốc dư luận

Cự đà xanh vốn là loài thú cưng được nhập về Đài Loan, nhưng khi trưởng thành có thể dài trên 1 mét, nhiều chủ nuôi không thể chăm sóc và đã thả bỏ. Không có thiên địch tự nhiên, lại sở hữu khả năng sinh sản nhanh, chúng đã phát triển mạnh ở miền Trung và miền Nam Đài Loan. Ngoài việc ăn hoa màu như đậu đỏ, ngô, rau xanh, cự đà xanh còn đào hang ở bờ đê và ao nuôi, khiến công trình thủy lợi, hạ tầng nông nghiệp bị phá hỏng. Tác động kép này không chỉ làm giảm năng suất nông sản mà còn gây ra nguy cơ sạt lở, ảnh hưởng lâu dài đến môi trường sinh thái.


Hiện nay, Pingtung sắp bước vào mùa gieo hạt đậu đỏ - cây trồng chủ lực của địa phương. Nỗi lo mất mùa vì cự đà xanh ngày càng lớn. Nông dân cho biết, chỉ cần một đàn cự đà xanh xuất hiện trong đêm, cả ruộng đậu có thể bị phá sạch. Trước tình hình đó, nghị viên Hong Zongqi đã kêu gọi bà con nếu phát hiện cự đà xanh, cần nhanh chóng báo qua đường dây nóng để "Đội săn rồng" xử lý. Đây được xem là giải pháp khẩn cấp nhằm hạn chế phần nào thiệt hại trước mắt.

Vấn đề iguana ở Pingtung phản ánh thực trạng chung mà nhiều địa phương khác tại Đài Loan cũng đang phải đối mặt: sự xâm lấn của sinh vật ngoại lai. Các chuyên gia cho rằng chỉ dựa vào bắt giữ thủ công sẽ khó giải quyết tận gốc, bởi số lượng loài này vẫn tăng nhanh. 

Hình ảnh hàng trăm con cự đà xanh bị bắt chỉ trong một đêm tại Vạn Đan là minh chứng rõ ràng cho mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Nếu không có biện pháp mạnh mẽ, nguy cơ mất cân bằng sinh thái, sụt giảm sản lượng nông nghiệp, thậm chí ảnh hưởng đến an toàn cơ sở hạ tầng là điều khó tránh khỏi.


Sự việc tại Pingtung không chỉ là nỗi đau riêng của nông dân trồng đậu đỏ, mà còn là lời nhắc nhở cho toàn xã hội về hậu quả của việc thả bỏ sinh vật ngoại lai. Bảo vệ mùa màng và môi trường sinh thái cần sự chung tay của cả cộng đồng, để "quê hương đậu đỏ" không còn bị bao phủ bởi làn sóng xanh của cự đà xanh.

Bài viết HOÀI THƯƠNG

Bắt gặp con vật quý cuộn người ngủ trên cây, cảnh tượng hiếm khiến người dân kinh ngạc

Hoài Thương

Khoảnh khắc của con vật này thu hút sự quan tâm lớn trên mạng xã hội.

Một khoảnh khắc hiếm thấy của loài tê tê Sunda đang ngủ trên cây giữa ban ngày tại Singapore đã gây sốt mạng xã hội, thu hút hàng nghìn lượt tương tác và khiến nhiều người yêu động vật không khỏi ngỡ ngàng.

Theo đó, vào sáng ngày 11/7, tại rìa Khu bảo tồn thiên nhiên Central Catchment, nhiếp ảnh gia trẻ tuổi Jamie Allott (17 tuổi) đã vô tình ghi lại được hình ảnh đáng yêu và hiếm gặp của một con tê tê đang ngủ say trên cành cây. Chia sẻ với MS News, Jamie cho biết người bạn đồng hành của mình là Ethan Lai là người đầu tiên phát hiện ra con vật khi nó đang tìm nơi nghỉ ngơi, trước khi leo lên cây và cuộn mình lại như một quả thông. "Khi tôi nhìn thấy nó, nó ở ngay trên đầu tôi, có lẽ đang cố gắng tìm chỗ thoải mái để ngủ", Jamie kể lại.


Theo Jamie, loài tê tê Sunda có tập tính sinh hoạt về đêm, do đó ban ngày là thời điểm chúng nghỉ ngơi. Cả hai đã cố gắng giữ khoảng cách để không làm phiền đến giấc ngủ của con vật, dù vị trí của nó nằm ngay sát một con đường đông đúc - điều càng nhấn mạnh nguy cơ mà động vật hoang dã phải đối mặt tại các đô thị như Singapore. "Thật sự rất đáng suy ngẫm khi chứng kiến một loài động vật cực kỳ nguy cấp như thế này vẫn có thể hiện diện ở môi trường đô thị", Jamie bày tỏ.

Tuy nhiên, giấc ngủ của con tê tê không hề yên bình. Một đàn kiến dệt vải liên tục quấy rối khiến nó phải tỉnh giấc và có những động tác phản kháng. Ngay cả Jamie và Ethan cũng bị kiến cắn khi cố gắng tiếp cận gần hơn để chụp ảnh, buộc họ phải giữ khoảng cách an toàn.

Jamie sau đó đã chia sẻ bức ảnh lên nhóm Facebook "Singapore Wildlife Sightings", nhanh chóng thu hút hơn 1.300 lượt thích và hàng trăm bình luận. Nhiều cư dân mạng bày tỏ sự kinh ngạc và ghen tị khi anh có cơ hội chứng kiến khoảnh khắc hiếm hoi này giữa ban ngày. "Một phát hiện tuyệt vời! Tôi luôn tự hỏi tê tê ngủ ở đâu", một người dùng viết. Người khác thì gọi Jamie là "may mắn hiếm có" vì đã được tận mắt thấy một cá thể tê tê sống ngoài tự nhiên.

Tê tê Sunda là loài đang bị đe dọa nghiêm trọng, từng bị săn bắt tràn lan vì bộ vảy và thịt của chúng. Việc một cá thể tê tê xuất hiện gần khu dân cư tại Singapore là minh chứng cho những nỗ lực bảo tồn đang phát huy hiệu quả, đồng thời cũng là lời nhắc nhở về việc con người cần cẩn trọng hơn trong việc chung sống hài hòa với thiên nhiên.

Hoài Thương

Phát hiện loài vật phát sáng rực rỡ trong đêm, ai nhìn cũng kinh ngạc

Thanh Phúc

Hình ảnh về loài vật kỳ lạ đang khiến nhiều người xôn xao.

Một khám phá nhiếp ảnh đầy bất ngờ đã vén màn bức màn bí ẩn về một loài động vật hoang dã, tưởng chừng chỉ tồn tại trong truyền thuyết: những sinh vật có khả năng phát sáng trong đêm, được mệnh danh là "mèo phát sáng". Nhiếp ảnh gia động vật hoang dã Ben Alldridge, trong một chuyến cắm trại ở vùng hẻo lánh phía tây nam Tasmania vào năm ngoái, đã vô tình ghi lại khoảnh khắc ngoạn mục này, hé lộ một khía cạnh chưa từng thấy của tự nhiên.

Ảnh: IG @benjaminalldridge.

Theo ghi nhận của The Dodo, Alldridge đã bắt gặp một đàn sinh vật nhỏ nhắn, có bộ lông nâu điểm đốm trắng, trông tựa như những chú mèo nhà. Điều kinh ngạc nhất là khả năng phát ra ánh sáng kỳ ảo trong bóng tối. Với ánh vàng, ánh đào lung linh và thậm chí là quầng sáng đỏ rực rỡ, mỗi cá thể đều tỏa ra một màu sắc riêng biệt, khiến Alldridge không khỏi ngạc nhiên. Nhanh chóng chớp lấy cơ hội, anh đã kịp ghi lại những hình ảnh tuyệt đẹp và chia sẻ chúng trên tài khoản Instagram cá nhân của mình, @benjaminalldridge.

Những sinh vật phát quang sinh học mà Alldridge chụp được chính là Eastern Quoll, một loài thú có túi đặc hữu của Úc. Với kích thước tương đương mèo nhà, chúng còn được trìu mến gọi là "mèo con phát sáng". Loài này có bộ lông màu nâu xám hoặc đen đặc trưng, điểm xuyết những đốm trắng nổi bật và là loài hoang dã chỉ tìm thấy ở Tasmania.

Ảnh: IG @benjaminalldridge.

Lý giải cho khả năng phát sáng kỳ diệu này nằm ở hiện tượng "sinh huỳnh quang" (biofluorescence). Bảo tàng Úc giải thích rằng đây là quá trình các protein trên bề mặt cơ thể động vật hấp thụ ánh sáng và tái phát xạ dưới dạng màu sắc có thể nhìn thấy bằng mắt thường, thường là xanh lá cây, xanh dương hoặc đỏ tươi. Tuy nhiên, mắt người không thể trực tiếp quan sát hiệu ứng này. Chính nhờ việc sử dụng đèn flash cực tím, Alldridge đã ghi lại được những bức ảnh ấn tượng này.

Alldridge bày tỏ sự kinh ngạc khi xem lại những bức ảnh: "Thật đáng kinh ngạc khi bộ lông xám của loài chồn ecmin miền đông lại có màu vàng óng và màu đào, với quầng đỏ cực kỳ rực rỡ". Anh đã từng chụp những bức ảnh tương tự tại Khu bảo tồn Động vật Hoang dã Bonorong, nhưng những bức hình lần này được chụp trong môi trường tự nhiên, mang lại độ nét và chân thực hơn. Chúng có thể là những hình ảnh quý giá đầu tiên ghi lại hiện tượng sinh huỳnh quang của loài Eastern Quoll hoang dã.

Ảnh: IG @benjaminalldridge.

Hiện tượng sinh huỳnh quang không chỉ tồn tại ở Eastern Quoll mà còn được tìm thấy ở nhiều loài sinh vật khác. Tuy nhiên, do con người không thể nhìn thấy ánh sáng này bằng mắt thường, các nghiên cứu về chúng còn rất hạn chế. Các nhà khoa học vẫn chưa thể xác định liệu hiện tượng phát quang này có chức năng bảo vệ, truyền tải thông tin hay liên quan đến sinh sản. Vẫn còn rất nhiều nghiên cứu trong tương lai cần được thực hiện để làm rõ ý nghĩa của nó.

Đáng tiếc, Eastern Quoll hiện đang được liệt kê là loài có nguy cơ tuyệt chủng. Các mối đe dọa như biến đổi khí hậu, mất môi trường sống và tai nạn giao thông đã khiến số lượng loài này suy giảm đáng kể. Do đó, Alldridge hy vọng rằng những bức ảnh anh chụp sẽ góp phần khơi dậy sự chú ý và nâng cao nhận thức của cộng đồng về việc bảo tồn loài động vật bí ẩn và quý hiếm này, để những "mèo phát sáng" vẫn có thể tiếp tục tỏa sáng trong đêm ở Tasmania.

Thanh Phúc


Sextant là chiếc “đôi mắt” của người đi biển trong nhiều thế kỷ, cho phép họ xác định vị trí giữa đại dương bao la chỉ bằng ánh sáng và đường chân trời. Cấu tạo cơ bản gồm cung chia độ hình vòng cung 60° (tương ứng 1/6 hình tròn nên gọi là sextant), gương di động, gương chân trời, ống ngắm, bộ micrometer và thấu kính phóng đại để đọc số đo. Tia sáng từ thiên thể phản chiếu qua gương di động rồi đến gương bán trong suốt, cho phép ảnh của Mặt Trời hoặc sao hiện chồng lên đường chân trời thật. Khi căn chỉnh để hai hình ảnh khớp nhau, góc hiển thị chính là độ cao của thiên thể so với mặt biển.

Điểm then chốt của sextant nằm ở phản xạ kép: góc quay của gương được nhân đôi trên cung chia độ, nhờ đó sextant đo được góc tới 120° dù khung chỉ có 60°. Người thủy thủ cầm sextant, hướng ống ngắm vào chân trời, rồi xoay cần chỉ góc để đưa ảnh Mặt Trời hay ngôi sao hạ dần xuống cho tới khi chạm đúng đường nước. Khi điểm chạm hoàn hảo, góc đọc trên cung là “độ cao thiên thể”. Ghi lại thời điểm bằng đồng hồ chronometer, hiệu chỉnh sai số (độ cao mắt so với mặt nước, khúc xạ khí quyển, bán kính Mặt Trời), đối chiếu với Niên giám Hàng hải (Nautical Almanac), thủy thủ có thể tính ra vĩ độ và kinh độ. Một lần đo vào giữa trưa cho biết vĩ độ, nhiều lần đo vào các thời điểm khác nhau giúp xác định kinh độ. Trong tay những hoa tiêu dày dạn, sextant có thể định vị con tàu sai lệch chỉ vài hải lý, đủ để vượt hàng ngàn dặm biển mà vẫn cập bến an toàn.

Từ thế kỷ XVIII, sextant được chế tác từ đồng thau, gỗ quý, cung khắc thủ công trên ngà voi hoặc bạc để đảm bảo độ chính xác. Sang thế kỷ XIX, các vật liệu như đồng và thép giúp tăng độ bền, thang chia được khắc tinh vi hơn. Ngày nay sextant hiện đại thường làm từ hợp kim nhôm hoặc đồng mạ crôm, nhẹ mà cứng, thấu kính quang học phủ lớp chống phản xạ, gương tráng bạc hoặc nhôm để phản chiếu tốt trong môi trường biển khắc nghiệt. Một sextant tốt có thể đo chính xác đến vài phần mười phút cung, nghĩa là sai số vị trí chỉ vài hải lý giữa đại dương mênh mông.

Trong lịch sử, sextant phát triển từ nguyên mẫu octant của John Hadley và Thomas Godfrey, rồi được mở rộng thang đo đến 120°. Nó từng là công cụ sống còn trên mọi con thuyền, từ các đoàn hải hành của James Cook, những chuyến vượt Đại Tây Dương cho đến các cuộc thám hiểm cực địa của Amundsen hay Shackleton. Trong Thế chiến II, sextant là vật dụng tiêu chuẩn của hải quân các cường quốc. Thậm chí hàng không tầm xa cũng từng dùng “astro-sextant” gắn trên buồng lái để định vị bằng sao khi bay qua đại dương.

Nếu so sánh sextant cổ với sextant hiện đại, sự khác biệt hiện lên rõ rệt. Các sextant cổ thế kỷ XVIII thường có khung gỗ dáng dày, cung khắc tay trên ngà voi, nặng nề và dễ bị ảnh hưởng bởi thời tiết ẩm mặn. Sang thế kỷ XIX, đồng thau trở thành chất liệu chủ đạo, mang lại độ bền và sự chính xác cao hơn. Những sextant hiện đại thì nhẹ, bền, dễ sử dụng, có kính lọc ánh sáng để quan sát Mặt Trời an toàn, thang đo micrometer tinh vi và khả năng chống chịu trong điều kiện khắc nghiệt. Tuy vậy, dù được làm bằng gỗ, đồng hay hợp kim, mục tiêu của sextant luôn là một: biến ánh sáng thành tọa độ và đưa con người qua những hành trình biển cả.

Ngày nay, GPS đã trở thành công cụ định vị phổ biến, nhưng sextant vẫn được giảng dạy trong hải quân như phương án dự phòng khi điện tử gặp sự cố. Nó còn là món đồ sưu tầm quý giá và biểu tượng của nghệ thuật hàng hải truyền thống. Sextant không chỉ là một dụng cụ đo, mà là minh chứng cho trí tuệ và bản lĩnh con người khi biết nhìn lên bầu trời để tìm đường, biến ánh sáng thành tọa độ, biến những vì sao thành người bạn đồng hành trên hành trình chinh phục biển cả.

SƯU TẦM









Thứ Năm, 11 tháng 9, 2025

Đ0ẠN ĐƯỜNG LA MÃ CỔ ĐẠI.


Vào năm 2014, một phát hiện khảo cổ học đầy bất ngờ đã xảy ra tại thị trấn Marino, ngay bên ngoài thành phố Rome, Ý. Trong quá trình xây dựng một nhà hàng McDonald's mới, các công nhân đã tình cờ phát hiện ra một đoạn đường La Mã cổ đại được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Đoạn đường này có niên đại từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên và được cho là một phần của mạng lưới đường bộ rộng lớn từng phục vụ cho việc vận chuyển quân lính, hàng hóa và người dân khắp lãnh thổ La Mã.


Thay vì lấp lại hoặc chuyển giao cho viện bảo tàng, McDonald's đã quyết định giữ lại và tích hợp di tích khảo cổ này ngay trong không gian nhà hàng. Một sàn kính được xây dựng bên trên phần đường cổ, giúp thực khách có thể vừa thưởng thức bữa ăn, vừa chiêm ngưỡng những phiến đá hàng nghìn năm tuổi ngay dưới chân mình – một trải nghiệm độc đáo đưa lịch sử đến gần với đời sống hiện đại.

Bên cạnh đó, nhà hàng còn bố trí các bảng thông tin và khu trưng bày nhằm giới thiệu về tầm quan trọng của con đường cổ và hệ thống giao thông đã góp phần mở rộng và duy trì sức mạnh của Đế chế La Mã. Câu chuyện về con đường xưa giờ đây được kể lại ngay tại nơi người ta đến để ăn uống, làm sống lại một phần quá khứ huy hoàng trong không gian thường nhật.

Việc bảo tồn di sản trong lòng một nhà hàng hiện đại như vậy đã tạo nên điểm đến thu hút cả du khách yêu thích lịch sử lẫn người dân địa phương. Đây là minh chứng cho cách một thương hiệu toàn cầu có thể kết nối với văn hóa bản địa và tôn trọng chiều sâu lịch sử của nơi mình hiện diện.

Pane e Vino

Con tàu biến mất năm 1913 bất ngờ lộ diện ở hồ Huron

Một thợ săn tàu đắm đã khám phá được vị trí của xác tàu SS James Carruthers bị đắm ở hồ Huron trong trận bão tuyết kinh hoàng năm 1913.


Vào tháng 11/1913, một trận bão tuyết kinh hoàng được gọi là "Bão Trắng" đã quét qua Ngũ Đại Hồ. Hậu quả là hàng chục tàu thuyền bị chìm trong cơn bão với số người thiệt mạng ít nhất là 250 người. Trong số này, tàu chở hàng của Canada mang tên SS James Carruthers chìm ở hồ Huron. Ảnh: Brendon Baillod/Facebook.


Tàu SS James Carruthers đã biến mất sau thảm kịch kinh hoàng trên. Toàn bộ 22 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng. Ảnh: Detroit Free Press/YouTube.


Mới đây, thợ săn tàu đắm David Trotter cho biết đã tìm thấy con tàu đắm trên, nâng tổng số tàu mà ông đã tìm thấy lên hơn 100 chiếc kể từ những năm 1970. Ảnh: Public Domain.


Ông Trotter và nhóm của mình tại Hiệp hội Nghiên cứu Dưới biển đã tìm thấy xác tàu đắm SS James Carruthers mất tích hơn 100 năm vào tháng 5/2025. Họ phát hiện xác tàu sau 5 năm tìm kiếm. Ảnh: Public domain via Wikimedia Commons.


Cụ thể, khi đang lập bản đồ lòng hồ Huron bằng máy quay dưới nước, nhóm của ông Trotter phát hiện "một thân tàu khổng lồ xuất hiện trên màn hình". Ảnh: Public domain.


Nhóm của ông Trotter nhanh chóng nhận ra đã tìm thấy tàu SS James Carruthers vì không có con tàu nào có kích thước tương tự mất tích ở hồ Huron. Ảnh: ATI.



Tàu SS James Carruthers dài 150m bị lật úp dưới đáy hồ Huron sâu khoảng 58m. Ông Trotter cho hay thành công tìm thấy xác tàu SS James Carruthers là nhờ phương pháp tìm kiếm độc đáo, bao gồm việc lập bản đồ "các khu vực có khả năng cao" ở Ngũ Đại Hồ thay vì tìm kiếm những địa điểm mà ông cho là có xác tàu đắm cụ thể. Ảnh: Detroit Free Press.


SS James Carruthers là con tàu cuối cùng trong số 8 chiếc được biết tới là đã chìm ở hồ Huron trong trận bão tuyết mang tên "Bão Trắng". Những xác tàu này đã được tìm thấy từ năm 1913 - 2015. Ảnh: Detroit Free Press


Hiện vẫn còn nhiều tàu khác bị chìm ở Ngũ Đại Hồ trong trận bão tuyết mang tên "Bão Trắng" nhưng chưa tìm thấy. Do đó, những người săn tìm xác tàu đắm cố gắng xác định vị trí của chúng, bao gồm tàu SS Leafield bị đắm ở hồ Superior. Ảnh: Detroit Free Press.

Tâm Anh (theo ATI)


Giải mã bí ẩn của Tam giác quỷ Bermuda

(Dân trí) - Một nhà khoa học tuyên bố đã giải thích được bí ẩn về Tam giác quỷ Bermuda, nơi xảy ra nhiều vụ đắm tàu, rơi máy bay và hiện tượng siêu nhiên trong hơn 500 năm.

Tiến sĩ Simon Boxall, nhà hải dương học tại Đại học Southampton (Anh), nhận định vùng biển này ở Đại Tây Dương từ lâu là tâm điểm của nhiều suy đoán siêu nhiên, thực chất chịu ảnh hưởng bởi những hiện tượng tự nhiên khắc nghiệt.


Khu vực được gọi là Tam giác Bermuda, đôi khi được gọi là Tam giác quỷ, là nơi diễn ra nhiều bí ẩn đau thương và những lời đồn đoán về hiện tượng siêu nhiên trong hơn 500 năm qua (Ảnh: Getty Images).

Tiến sỹ Boxall cho rằng những "con sóng lớn" nuốt chửng người cao khoảng 30 mét hình thành từ sự kết hợp của các cơn bão trong khu vực đã nhấn chìm tàu thuyền và xóa sạch bằng chứng bằng sức mạnh tuyệt đối của chúng.

"Có những cơn bão ở phía nam và phía bắc, chúng kết hợp với nhau", Tiến sĩ Boxall giải thích, "và nếu có thêm những cơn bão khác từ Florida, đó có thể là một đợt sóng dữ dội có khả năng làm chết người. Thay vì một con sóng 10 mét, bạn sẽ có một con sóng 20 mét. Nếu ba hệ thống sóng khác nhau kết hợp lại, bạn có thể có một con sóng cao 30 mét".

Để chứng minh quan điểm này, Tiến sỹ Boxall và nhóm nghiên cứu của ông đã tái hiện lại xác tàu USS Cyclops, một tàu sân bay đã mất tích khi đang đi qua vùng được gọi là Tam giác Quỷ vào năm 1918, khiến toàn bộ 309 hành khách thiệt mạng mà không để lại dấu vết.

"Nếu bạn có thể tưởng tượng một con sóng dữ với đỉnh ở hai đầu, thì chẳng có gì bên dưới thuyền cả, nên nó sẽ gãy làm đôi. Và khi điều đó xảy ra, con tàu có thể chìm trong vòng hai đến ba phút", ông khẳng định.

Trong thí nghiệm tái hiện “sóng độc”, những bức tường nước dựng đứng nâng đỡ con tàu ở cả mạn trái và đuôi tàu mạnh đến mức đáy tàu lơ lửng trên không.

Tiến sỹ Boxall khẳng định rằng áp lực đó tác động lên con tàu đã khiến nó bị sụp đổ và chìm nhanh chóng.

Ông cho rằng sóng thần có thể là nguyên nhân dẫn tới khoảng 20 vụ máy bay mất tích khi bay qua khu vực, trong đó có cả phi vụ huấn luyện của Hải quân Mỹ năm 1945, khi một máy bay ném bom cùng chiếc cứu hộ được điều động sau đó đều biến mất.

Hàng chục tàu thuyền và máy bay đã biến mất khỏi vùng biển Đại Tây Dương khi cố gắng đi qua Tam giác quỷ Bermuda (Ảnh: stock.adobe.com).

Tam giác quỷ Bermuda là tên gọi không chính thức của vùng biển nằm giữa Bermuda, Puerto Rico và Miami, vốn gắn liền với vô số đồn đoán kể từ chuyến hải trình của Christopher Columbus vượt Đại Tây Dương.

Năm 1492, trong nhật ký, Columbus ghi rằng ông cùng thủy thủ đoàn nhìn thấy “những ánh sáng nhảy múa kỳ lạ trên đường chân trời”, đồng thời phát hiện hiện tượng la bàn lệch hướng bất thường.

Theo ghi nhận, đã có hàng trăm người thiệt mạng trong các vụ tai nạn xảy ra tại khu vực này. Đáng chú ý, năm 1970, phi công Bruce Gernon khẳng định mình từng thoát chết trong một trải nghiệm siêu nhiên.

Ông điều khiển chiếc Beechcraft Bonanza từ Bahamas sang Florida và bất ngờ đi vào một màn sương mù lạ. Gernon kể lại, máy bay dường như xuyên qua một “hố sâu trên bầu trời” ngay phía trên vùng biển bí ẩn ấy.


Theonypost.com




LINH MỤC EUGEfNENIO - ÔNG TỔ ĐỘNG CƠ ĐỐT TRONG

Cha Eugenio Barsanti (1821-1864) cùng với Felice Matteucci là những người đầu tiên sáng tạo ra động cơ đốt trong.

Cha Barsanti sinh ra ở Pietrasanta, Tuscany. Gầy gò và vóc dáng thấp bé, ông theo học tại một viện thiên về khoa học Công giáo gần Lucca, ở Tuscany.

Năm 1841 Barsanti bắt đầu giảng dạy tại Collegio San Michele (Trường Cao đẳng Tổng lãnh thiên thần Mi-ca-e). Tại đây, trong một bài giảng mô tả vụ nổ hỗn hợp hydro và không khí, ông đã nhận ra tiềm năng sử dụng năng lượng giãn nở của khí cháy trong động cơ.

Sau đó, khi giảng dạy tại một học viện cấp đại học ở Florence, ông đã gặp Matteucci. Matteucci đánh giá cao ý tưởng về động cơ và hai người đàn ông đã làm việc cùng nhau trong suốt quãng đời còn lại của họ.

Vào ngày 12 tháng 6 năm 1854, họ đã được cấp bằng sáng chế cho phát minh của mình ở London.

Động cơ mới là một cải tiến lớn so với động cơ hơi nước; nó an toàn hơn, ít cồng kềnh hơn và vận hành nhanh hơn. Mục tiêu chính là cung cấp năng lượng cơ học trong các nhà máy và cho động cơ đẩy của tàu thuỷ.

Năm 1856, Barsanti và Matteucci phát triển động cơ hai xi-lanh công suất 5 mã lực và hai năm sau họ chế tạo động cơ hai piston hoạt động ngược chiều.

Sưu tầm