a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.
Hiển thị các bài đăng có nhãn SUU TAM. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn SUU TAM. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 18 tháng 2, 2024

Những điều ít biết về Lũy Thầy


 

 


Trong lịch sử quân sự Việt Nam có một hệ thống thành lũy khá lợi hại. Dân gian vẫn gọi là Lũy Thầy. Nhờ có Lũy Thầy mà nhà Nguyễn mới tồn tại chín chúa, mười ba vua. Nhưng tại sao lại có tên là Lũy Thầy?

Sở dĩ thành lũy trên vùng đất Quảng Bình có tên Lũy Thầy là do sự tôn kính của các chúa Nguyễn và người dân địa phương đặt tên công trình phòng thủ này mà  “Thầy” Đào Duy Từ, một nhà chiến lược thiên tài giúp chúa Nguyễn và cũng là tổng công trình sư tạo ra ở nơi đây.

Trong bối cảnh cuộc chiến Trịnh Nguyễn phân tranh đầu thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn có công mở cõi về phương Nam và đương đầu với quân Trịnh nên Đào Duy Từ đã thành lập hệ thống thành lũy dựa vào địa thế hiểm trở để ngăn chặn. Đôi bờ sông Gianh vì thế đã trở thành ranh giới đàng Trong-đàng Ngoài nhiều năm, trước khi giang sơn thu về một mối ở thời Tây Sơn và thời Nguyễn. Tìm hiểu về hệ thống thành lũy này để có thể hiểu được tri thức quân sự thời cổ của cha ông ta.

Lũy Thầy được Đào Duy Từ khởi công đắp vào năm Tân Hợi (1631), ở Đồng Hới, Quảng Bình. Lũy cao 12 thước, dài 10 dặm, trải dài từ núi Đầu Màu đến cửa sông Nhật Lệ đổ ra biển, có hình cong như hình cầu vồng. Mặt lũy khá rộng, có thể đi lại được. Cứ mỗi đoạn 40 thước lại xây một pháo đài, đặt súng Thần công án ngự. Từ đó, chiến tranh Trịnh-Nguyễn thực sự xảy ra. Sông Gianh (còn gọi là Linh Giang) là giới hạn. Khi Đào Duy Từ qua đời, chúa Nguyễn truy tặng ông là Trụ Quốc Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Lộc Khê Hầu.

Năm Minh Mạng thứ 12 (1841), Lũy Thầy được sắc phong làm “Định Bắc Trường Thành” và Đào Duy Từ được truy phong làm Khai Quốc Công Thần.

Mặc dù Lũy Thầy được đắp bằng đất, nhưng là một công trình phòng thủ khá bề thế, kết hợp với con hào tự nhiên là con sông Gianh, vì thế nơi đây trở thành một phòng tuyến quân sự lợi hại. Ngay từ thời các chúa Nguyễn đã có câu ca về thành cao, hào sâu này:

“Lũy Thầy ai đắp mà cao

Sông Gianh ai bới, ai đào mà sâu”.

Chính cái vị trí đắc địa của phòng tuyến kết hợp giữa thiên nhiên và nhân tạo này đã phát huy tác dụng triệt để. Mảnh đất phía Bắc Quảng Bình hẹp, một bên dựa vào dãy Trường Sơn hiểm trở, một bên là Biển Đông, chỉ còn một lối tiến công là dải đồng bằng. Vì thế phòng tuyến giăng ngang giữa hai đầu núi biển đã như một cánh cửa đóng chặt con đường vào Nam giống như cái thế đất eo “cổ chai”, bảo vệ vùng đất có dinh các chúa Nguyễn ở Quảng Trị. Công trình thành lũy phòng thủ này lợi hại đến nỗi mà:

“Khôn ngoan qua được Thanh Hà

Dẫu rằng có cánh khó qua Lũy Thầy”.

Thực ra, Lũy Thầy là một hệ thống lũy, có thể kể ra như sau:

Lũy Trường Dục dài 2.500 trượng, tức khoảng 10km, chạy từ chân núi Thần Đinh dọc theo hữu ngạn sông Rào Đá (Long Đại) đến ngã ba sông Nhật Lệ, men theo bờ Nam qua các làng Xuân Dục, Cổ Hiền, Trường Dục, Quảng Xá đến vùng động cát của phá Hạc Hải. Lũy Trường Dục được đắp bằng đất sét cao 3m, chân lũy rộng 6m. Bên trong lũy có doanh trại, công sự, kho lương thực.

Sau đó, một lũy khác được đắp bổ sung ở vùng Động Hải (Quảng Bình), được gọi là lũy Đầu Mâu, cách lũy Trường Dục gần 20km về phía Bắc. Lũy này được đắp cao khoảng 6m, cao gấp đôi lũy Trường Dục; phía ngoài lũy đóng cọc gỗ lim, phía trong đóng cọc tre, đổ đất lên 5 tầng cấp, voi và ngựa có thể đi trên thành lũy. Trên lũy cứ cách 12m đến 20m lại xây một pháo đài đặt súng thần công, cách 4m đặt 1 súng phóng đá. Chiều dài của lũy khoảng 12km từ động Ông Hồi dưới chân núi Đầu Mâu chạy men bờ Nam sông Lệ Kỳ đến cầu Dài ở phía Nam Đồng Hới.

Tiếp theo, lũy Trấn Ninh cũng được xây dựng. Lũy này tiếp nối với lũy Đầu Mâu, chạy từ Cầu Dài, vòng sang phía Tây thành Đồng Hới, bọc lấy làng Đồng Phú, qua Hải Thành ra đến cửa sông Nhật Lệ. Phía ngoài lũy còn được đào hào vây quanh. Lũy Đầu Mâu hợp với lũy Nhật Lệ được gọi là lũy Động Hải (Đồng Hới) hay Trấn Ninh. Kiến trúc của lũy đã lợi dụng địa thế các bãi lầy và kinh rạch để ngăn các cuộc tấn công của đối phương rất hiệu quả.

Trên chiều dài khoảng 17km từ Đầu Mâu đến Nhật Lệ lũy Động Hải còn lại 3 cửa, trong đó có cửa vào dinh Quảng Bình, còn gọi là Quảng Bình Quan nay vẫn đứng sừng sững bên đường Quốc lộ 1A, vốn xưa là con đường Thiên Lý xuyên Việt, như chứng nhân của lịch sử Quảng Bình suốt hàng trăm năm.

Lịch sử đã ghi lại hệ thống Lũy Thầy là một tuyến phòng thủ kiên cố. Năm 1633, Trịnh Tráng khởi binh đánh chúa Nguyễn đã phải dừng bước ở cửa sông Nhật Lệ, bị quân Nguyễn phục kích đánh úp, quân tướng hoang mang rệu rã phải lui về bờ Bắc sông Gianh. Năm 1634, chúa Nguyễn lại cho đắp thêm lũy Trường Sa, dài 7km chạy từ Sa Động đến Huân Cát, hữu ngạn sông Nhật Lệ. Năm 1648, quân Trịnh tấn công lũy Trường Dục nhưng không phá được đoạn thành này, lại bị đẩy lui xuống vùng đầm lầy Võ Xá và bị sa lầy tại đấy nên phải rút quân về Bắc, để lại 3 tướng và 3.000 quân bị bắt làm tù binh.

Trận đánh ác liệt nhất trong cuộc chiến Trịnh – Nguyễn vào năm 1672 đã chứng tỏ sự lợi hại của hệ thống thành lũy. Quân Trịnh liên tục tấn công mặt lũy Trấn Ninh nhưng không hạ được thành, phải rút lui, chấm dứt cuộc chiến gần 50 năm và mở ra hơn một thế kỷ hòa hoãn.

Có thể nói, góc độ quân sự, hệ thống Lũy Thầy đã phát huy sức mạnh tối đa. Với nhiều lớp thành đất phòng thủ liên hoàn, tổng cộng 34km kết hợp với địa thế thiên nhiên đã đứng vững qua 7 cuộc tấn công của quân chúa Trịnh. Có lẽ trong lịch sử cổ đại nước ta, Lũy Thầy là một hệ thống thành lũy đơn giản, dễ thi công, nhưng lại phát huy tốt nhất chức năng phòng thủ. Đội quân của chúa Trịnh với nhiều binh hùng tướng mạnh cũng đã phải dừng bước trước hệ thống Lũy Thầy lợi hại.

Dạo bước giữa phố phường của thành phố Đồng Hới ngày nay, du khách không khỏi bâng khuâng khi tìm dấu tích xưa của Lũy Thầy quanh cửa sông Nhật Lệ. Đây đó vẫn còn một vài gò đất cao hay đoạn thành thấp ở phường Phú Hải hay tấm bia đá ven đường còn ghi sự tích Lũy Thầy. Ngày nay, Lũy Thầy đã được xếp hạng là Di tích quốc gia. Nơi Lũy Thầy ngày xưa nay đã là phố xá, dọc ven sông Nhật Lệ đã sừng sững tượng đài “Mẹ Suốt anh hùng” chèo đò qua sông Nhật Lệ thời chống Mỹ. Lũy Thầy bây giờ chỉ còn một chút di tích, thư tịch ghi lại và những câu ca dao truyền đời.

Thêm nữa, Lũy Thầy lại càng nổi tiếng bởi đi vào bài hát quen thuộc “Bình Trị Thiên khói lửa” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương với đoạn ca: “Ai đã qua đèo Ngang, đã sang Ba Rền. Mến dòng sông Gianh, biết danh Lũy Thầy”.

Không những nổi tiếng, Lũy Thầy còn là di sản văn hóa vật thể chứng minh cho sự sáng tạo trong lịch sử quân sự Việt Nam.

Theo các nhà khảo cổ học, đến nay dấu tích Lũy Thầy chỉ còn lại vài đoạn thành đất cao khoảng 1m và dài khoảng 1km, bên trên còn một số cây to ở khu vực xã Hiền Ninh (huyện Quảng Ninh, Quảng Bình). Đến thời Nguyễn, giang sơn đã thống nhất, hệ thống Lũy Thầy đã không còn tác dụng. Mảnh đất xưa của lũy Trấn Ninh được xây thành Đồng Hới vào năm 1812 cũng là thành đất. Sau đó, dưới thời Minh Mạng, thành Đồng Hới mới được quy hoạch lại và xây bằng gạch theo kiến trúc Vô băng, thành có hình múi khế, nay vẫn còn nhiều đoạn rêu phong và là nơi thu hút khách du lịch trong và ngoài nước của tỉnh Quảng Bình.

Tác giả: PGS.TS Trịnh Sinh


Người phụ nữ trong hình chính là mẹ của tỷ phú giàu nhất thế giới Elon Musk. Bà là người mẫu 72 tuổi Maye Musk, cho tới nay vẫn rất đắt giá vì các chương trình biểu diễn và chụp hình.
Bà vốn là mẹ đơn thân có 3 con, ngoài tỷ phú còn có đạo diễn phim Tosca Musk và chủ nhà hàng doanh nhân Kimbal Musk. 3 con của bà rất thành công.
Maye Musk, sinh năm 1948, là người gốc Canada nhưng di cư sang Nam Phi cùng cha mẹ bằng một chiếc máy bay cá nhân. Theo New York Times, vào năm 1952, khi mới chỉ 4 tuổi, bà đã cùng cha mẹ bay 22.000 dặm vòng quanh thế giới. Lớn lên, Maye và gia đình đã đi lang thang trên sa mạc Kalahari để tìm kiếm "Thành phố đã mất". Cũng chính nhờ những bậc cha mẹ thích phiêu lưu mạo hiểm này, bà đã tìm thấy sự tự tin của mình để theo đuổi sự nghiệp trong thế giới thời trang.
15 tuổi, bà trở thành người mẫu, thi Hoa hậu Nam Phi và lọt vào vòng chung kết. 6 năm sau, 21 tuổi, bà rơi vào tiếng sét ái tình với kỹ sư Errol Musk và từ bỏ tất cả để trở thành vợ của ông. Trong vòng 10 năm, bà sinh 3 con. Nhưng hôn nhân tan vỡ khi bà mới 31 tuổi. Bà trắng tay mặc dù gia đình chồng rất giàu có.
Từ giã Nam Phi, bà một thân một mình đưa ba con về Toronto, Canada. Đây cũng chính là quãng thời gian khó khăn nhất trong cuộc đời của Maye. Đã có khi bà phải làm cùng một lúc 5 công việc để kiếm tiền nuôi dạy các con: từ làm thêm tại tiệm tạp hóa và giặt ủi, nhân viên nghiên cứu cho Đại học Toronto, dạy học tại trường dinh dưỡng cho đến làm người mẫu. Maye từng nói với Huffington Post rằng: "Sau khi ly hôn, tôi phải vật lộn để kiếm sống và nuôi 3 đứa trẻ. Nghèo đói khiến bạn làm việc chăm chỉ."
Khi Maye 41 tuổi, nghề người mẫu lúc ấy không còn "hot" nữa, bà phải vất vả kiếm tiền thuê nhà và học phí cho các con bằng nhiều cách khác nhau. Quãng thời gian này, gia đình bà thậm chí còn chẳng có tiền để mua thịt cho bữa cơm tối.
Khi đó, một người khách hàng của Maye, chủ một lò mổ gia súc đã thương cảm cho hoàn cảnh của bà và quyết định cung cấp cho gia đình bà một khoanh thịt khổng lồ vào mỗi tháng. Bà Maye sẽ cắt khoanh thịt thành 4 miếng để ăn trong 4 tuần.
Trong khi đó, các con của bà cũng làm một phần để hỗ trợ gia đình. Tosca làm việc tại một cửa hàng tạp hóa cao cấp khi còn đi học và Maye Musk đã giúp Elon có một công việc tại Microsoft.
Dù vậy, bà vẫn rất kiên nhẫn dạy con nên người. Cùng lúc, bà đi học . Bà theo học ngành dinh dưỡng tại Đại học Pretoria ở Nam Phi và được trao hai bằng thạc sĩ, một từ Đại học Orange State, Nam Phi và một của Đại học Toronto, Canada.
Kết quả từ sự nỗ lực không ngừng của bà, 3 con bà rất thành đạt, trong đó có tỷ phú giàu nhất thế giới. Và dù già, ở tuổi 72 bà vẫn tiếp tục hành nghề người mẫu vì yêu thích và muốn được trẻ trung.
Người phụ nữ này luôn thử thách những điều mới mẻ và không bao giờ bị tuổi tác cản trở. Chính tinh thần đó không chỉ làm nên cuộc đời Meyer mà còn trở thành ánh sáng của 3 đứa con. "Hãy để trẻ đủ can đảm khám phá cuộc sống của chúng". Người phụ nữ này cũng cho rằng cách giáo dục hữu ích nhất cho trẻ là để chúng thấy rằng bố mẹ đang nỗ lực để trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình. "Đó là cách tốt nhất để giáo dục con cái"
Một người mẹ xứng đáng của những đứa con xứng đáng
Sưu tầm



Cô gái Chùa Hương sống mãi tuổi 15

Những người yêu nhạc hẳn nhiều người sẽ biết đến bài hát “Em Đi Chùa Hương” của nhạc sĩ Trung Đức, phổ thơ Nguyễn Nhược Pháp với những câu hát quen thuộc: 
    Hôm nay em đi chùa Hương, hoa cỏ còn mờ hơi sương…

Bài thơ “Chùa Hương” của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp cũng đã được giáo sư Trần Văn Khê phổ thành một bài hát dài mang tên Đi Chơi Chùa Hương từ thập niên 1940.

Thi phẩm “Chùa Hương” ra đời trong hoàn cảnh rất kỳ thú. Hội Chùa Hương năm 1934, nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp cùng nhà văn Nguyễn Vỹ và hai người bạn nữ sinh Hà thành đi trẩy hội. Đến rừng mơ, hai văn nhân gặp một bà mẹ cùng cô gái độ tuổi trăng rằm vừa bước lên những bậc đá vừa niệm phật “Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Đại Từ Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát”.

Vẻ đẹp thánh thiện mang nét chân quê của cô gái đã hớp hồn hai chàng thi sĩ khiến họ trân trân nhìn quên cả hai bạn gái cùng đi.

Nguyễn Nhược Pháp lại gần hỏi:

“Tại sao trông thấy chúng tôi cô lại không niệm phật nữa?”

Cô gái bối rối, thẹn thùng như muốn khóc. Nguyễn Nhược Pháp thấy vậy liền cố bắt chuyện để an ủi cô gái. Câu chuyện vẩn vơ đã diễn ra cùng họ cho đến chùa Ngoài. Mải chuyện với người đẹp, Nguyễn Nhược Pháp và Nguyễn Vỹ bị hai cô bạn gái đi cùng bỏ rơi lúc nào không hay.

Không tìm được hai cô bạn trong đám đông trẩy hội, đêm ấy hai chàng bèn ngủ lại trong chùa Hương cùng hai mẹ con cô bé quê.

Sáng hôm sau gặp lại hai cô bạn, Nguyễn Vỹ phải xin lỗi mãi, còn Nguyễn Nhược Pháp chỉ tủm tỉm cười. Về đến Hà Nội được mấy hôm, Nguyễn Nhược Pháp sáng tác nên bài thơ “Chùa Hương”.

Trong bản chép tay đầu tiên, bài thơ có tên là “Cô Gái Chùa Hương”.

Bài thơ dài 34 khổ 136 dòng, lấy cuộc gặp gỡ lý thú của tác giả với cô gái quê ở Chùa Hương làm đề tài và tưởng tượng thêm.

Điều đặc biệt là dưới tên bài thơ, Nguyễn Nhược Pháp mở ngoặc đơn dòng chữ “Thiên ký sự của một cô bé ngày xưa”.

Cuối bài thơ còn ghi thêm: “Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người sẽ lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô gái còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện”.

Trong bài thơ Chùa Hương, chàng thi sĩ 20 tuổi đã thể hiện tình cảm của mình với cô bé 15 tuổi thanh tao đến thánh thiện, đằm thắm mà không ủy mị, nồng cháy mà vẫn thanh lịch, trữ tình mà tinh tế, cả tâm hồn và hiện thực hòa quyện vào nhau hài hòa khiến Chùa Hương có vị trí xứng đáng trong thi đàn.

Trước năm 1945, bài thơ đã được nhạc sĩ Trần Văn Khê phổ nhạc thành bài hát “Đi Chơi Chùa Hương”, bài hát này khá dài, chỉ có ca sĩ Mộc Lan ở Huế hát tthành công nhất, được nhiều người hâm mộ nhất.

Giữa những năm 1980, nhạc sĩ Trung Đức phỏng theo mấy đoạn thơ phổ thành bài hát “Em Đi Chùa Hương” và được phổ biến rộng rãi hơn vì nó mộc mạc chân thành, đậm chất dân ca xứ Nghệ, dễ hát và dễ nhớ.

Nhưng nếu Nguyễn Nhược Pháp sống lại để nghe bài hát này, chắc ông sẽ lại tủm tỉm cười khi thấy câu thơ “Chân đi đôi dép cong” của ông đã bị đổi thành “Chân em đi đôi guốc cao cao” bởi vì đi Chùa Hương phải leo dốc, xuống hang rất ghập ghềnh, đi guốc cao thì làm sao mà đi nổi.

Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp là một trí thức con nhà dòng dõi. Cha ông là nhà văn, nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh, từng dịch tập thơ “Ngụ ngôn” của La Fontaine ra tiếng Việt rất đặc sắc.

Nguyễn Nhược Pháp sinh năm 1914 tại Hà Nội, đỗ bằng Tú tài Tây, làm thơ từ năm 16 tuổi. Ngoài ra, ông còn sáng tác kịch, truyện ngắn và viết báo. Ông viết báo tiếng Pháp khá nhiều, năm 1935 xuất bản tập thơ “Ngày xưa”, trong đó có bài thơ “Chùa Hương” rất nổi tiếng. Nhưng tiếc thay, thi sĩ tài danh Nguyễn Nhược Pháp mất đột ngột khi mới 24 tuổi, vào năm 1938.

Đến nay, bài thơ Chùa Hương đã tròn hơn 70 tuổi, Nguyễn Nhược Pháp đã qua đời được 70 năm, song Chùa Hương cùng tên tuổi nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp vẫn sống mãi với thời gian.

Mời bạn đọc lại bài thơ này:

Hôm nay đi Chùa Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương.
Cùng thầy me em dậy,
Em vấn đầu soi gương.

Khăn nhỏ, đuôi gà cao,
Em đeo giải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới,
Tay cầm nón quai thao.

Me cười: “Thầy nó trông!
Chân đi đôi dép cong,
Con tôi xinh xinh quá!
Bao giờ cô lấy chồng?”

Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm,
Nhờ mối mai đưa tiếng,
Khen tươi như trăng rằm.

Nhưng em chưa lấy ai,
Vì thầy bảo người mai
Rằng em còn bé lắm!
(Ý đợi người tài trai.)

Em đi cùng với me.
Me em ngồi cáng tre,
Thầy theo sau cưỡi ngựa,
Thắt lưng dài đỏ hoe.
Thầy me ra đi đò,

Thuyền mấp mênh bên bờ.
Em nhìn sông nước chảy
Đưa cánh buồm lô nhô.
Mơ xa lại nghĩ gần,

Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa lẹ bước,
Em thấy một văn nhân.
Người đâu thanh lạ thường!

Tướng mạo trông phi thường.
Lưng cao dài, trán rộng.
Hỏi ai nhìn không thương?
Chàng ngồi bên me em,

Me hỏi chuyện làm quen:
“Thưa thầy đi chùa ạ?
Thuyền đông, trời ôi, chen!”
Chàng thưa: “Vâng thuyền đông!”

Rồi ngắm trời mênh mông,
Xa xa mờ núi biếc,
Phơn phớt áng mây hồng.
Dòng sông nước đục lờ.

Ngâm nga chàng đọc thơ.
Thầy khen: “Hay! Hay quá!”
Em nghe rồi ngẩn ngơ.
Thuyền đi, Bến Đục qua.

Mỗi lúc gặp người ra,
Thẹn thùng em không nói:
“Nam Mô A Di Đà!”
Réo rắt suối đưa quanh.

Ven bờ, ngọn núi xanh,
Nhịp cầu xa nho nhỏ.
Cảnh đẹp gần như tranh.
Sau núi Oản, Gà, Xôi,

Bao nhiêu là khỉ ngồi.
Tới núi con Voi phục,
Có đủ cả đầu đuôi.
Chùa lấp sau rừng cây.
(Thuyền ta đi một ngày.)

Lên cửa chùa em thấy
Hơn một trăm ăn mày.
Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,

Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàu.
Thầy me đến điện thờ,
Trầm hương khói tỏa mờ.

Hương như là sao lạc,
Lớp sóng người lô nhô.
Chen vào thật lắm công.
Thầy me em lễ xong,

Quay về nhà ngang bảo:
“Mai mới vào chùa trong.”
Chàng hai má đỏ hồng
Kêu với thằng tiểu đồng

Mang túi thơ bầu rượu:
“Mai ta vào chùa trong!”
Đêm hôm ấy em mừng.
Mùi trầm hương bay lừng.

Em nằm nghe tiếng mõ,
Rồi chim kêu trong rừng.
Em mơ, em yêu đời!
Mơ nhiều… Viết thế thôi!

Kẻo ai mà xem thấy,
Nhìn em đến nực cười!
Em chưa tỉnh giấc nồng,
Mây núi đã pha hồng.

Thầy me em sắp sửa
Vàng hương vào chùa trong.
Đường mây đá cheo veo,
Hoa đỏ, tím, vàng leo.

Vì thương me quá mệt,
Săn sóc chàng đi theo.
Me bảo: “Đường còn lâu,
Cứ vừa đi ta cầu

Quán Thế Âm Bồ Tát
Là tha hồ đi mau!”
Em ư? Em không cầu,
Đường vẫn thấy đi mau.

Chàng cũng cho như thế.
(Ra ta hợp tâm đầu.)
Khi qua chùa Giải Oan,
Trông thấy bức tường ngang,
Chàng đưa tay lẹ bút

Thảo bài thơ liên hoàn.
Tấm tắc thầy khen: “Hay!
Chữ đẹp như rồng bay.”
(Bài thơ này em nhớ,
Nên chả chép vào đây.)
Ô! Chùa trong đây rồi!

Động thắm bóng xanh ngời.
Gấm thêu trần thạch nhũ,
Ngọc nhuốm hương trầm rơi.
Me vui mừng hả hê:

“Tặc! Con đường mà ghê!”
Thầy kêu: “Mau lên nhé!
Chiều hôm nay ta về.”
Em nghe bỗng rụng rời

Nhìn ai luống nghẹn lời!
Giờ vui đời có vậy,
Thoảng ngày vui qua rồi!
Làn gió thổi hây hây,

Em nghe tà áo bay,
Em tìm hơi chàng thở.
Chàng ôi, chàng có hay?
Đường đây kia lên trời,

Ta bước tựa vai cười.
Yêu nhau, yêu nhau mãi!
Đi, ta đi, chàng ôi!
Ngun ngút khói hương vàng,

Say trong giấc mơ màng,
Em cầu xin Trời Phật
Sao cho em lấy chàng…

( Sưu tầm )

Thân mến
TQĐ



Thứ Ba, 6 tháng 2, 2024

Thật may mắn cho ai đó sống qua 65 tuổi


Cảm ơn ai đã tổng hợp số liệu thống kê này! Đọc để hiểu chúng ta may mắn như thế nào nếu đã lên tuổi 65 và có nhà, có đủ ăn và đủ mặc.

Dân số hiện tại của Trái đất là khoảng 7,8 tỷ người. Tuy nhiên, ai đó đã cô đọng 7,8 tỷ trên thế giới thành 100 người, và sau đó thành các thống kê tỷ lệ phần trăm khác nhau. Kết quả phân tích tương đối dễ hiểu hơn nhiều.

* Trong số 100 người có: 11 ở Châu Âu, 5 ở Bắc Mỹ, 9 ở Nam Mỹ, 15 người ở Châu Phi và khủng khiếp khi có tới 60 người ở Châu Á.

* Trong số 100 người: 49 sống ở nông thôn và 51 sống ở các thị trấn / thành phố

* Trong số 100 người: 77 có nhà riêng và 23 không có nơi ở.

* Trong số 100 người: 21 người được nuôi dưỡng quá mức; 64 có thể ăn no; 15 người thiếu dinh dưỡng.

* Trong số 100 người: Chi phí sinh hoạt hàng ngày cho 48 người là dưới US $ 2.

* Trong số 100 người: 87 có nước uống sạch, 13 hoặc thiếu nước uống sạch hoặc tiếp cận với nguồn nước bị ô nhiễm.

* Trong số 100 người: 75 có điện thoại di động và 25 không có.

* Trong số 100 người: 30 người có quyền truy cập internet, 70 không có điều kiện lên mạng.

* Trong số 100 người: 7 nhận được giáo dục đại học và 93 đã không được học đến bậc đại học.

* Trong số 100 người: 83 người có thể đọc còn lại 17 người mù chữ.

* Trong số 100 người: 33 người theo đạo Thiên chúa, 22 người theo đạo Hồi, 14 người theo đạo Hindu, 7 là Phật tử, 12 là các tôn giáo khác và 12 người không có tín ngưỡng tôn giáo. Như vậy Phật tử chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ và tỷ lệ này ngày càng giảm. Ngạc nhiên chưa!

* Trong số 100 người: 26 sống dưới 14 năm, 66 người chết từ 15 đến 64 tuổi, 8 người trên 65 tuổi. Bạn thật may mắn khi đã sống trên 65 tuổi.

KẾT LUẬN:

Nếu bạn có nhà riêng của mình,

Ăn đầy đủ các bữa và uống nước sạch,

Có điện thoại di động,

Có thể lướt internet,

Bạn đang ở trong một lô đặc quyền nhỏ (trong danh mục chỉ dưới 7% nhân loại được hưởng.)

Trong số 100 người trên thế giới, chỉ 8 người có thể sống hoặc vượt quá 65 tuổi. Nếu bạn trên 65 tuổi, Hãy bằng lòng và biết ơn. Bạn đã là người có phúc giữa nhân loại.

Hãy chăm sóc sức khỏe của chính mình thật tốt vì không ai quan tâm tới bạn hơn chính bạn. 

Kaycee

(Sưu tầm)


Ăn Cơm Mới, Nói Chuyện Cũ - Vương Hồng Sển (1902-1996)




Học giả Vương Hồng Sển với sách của ông

Người Tàu sống chung với dân ta từ nhiều thế kỷ, nhưng các bạn có biết người Triều Châu sống ra sao? Người Quảng Đông sống thế nào? Và người Phước Kiến làm ăn cách nào? Muốn biết hãy chịu khó theo tôi tìm hiểu. Từ ngàn xưa phương pháp vẫn không đổi. Có đổi là đổi danh từ, thay vì gọi Tàu, Chệt, Khách, thì gọi thanh bai hơn là "người Việt gốc Hoa". Chớ làm sao đổi được lòng người? 

Phương pháp ấy là nuôi mộng: ban đầu là một cái lều con ở tận mũi Cà Mau xa mú tí tè, mặc cho đỉa đeo muỗi đốt, tụ tiểu thành đa, cách vài chục năm sau dời cái lều lên Chợ Lớn biến thành một cái lầu chọc trời có máy lạnh và có nhạc lùm tùm xùm. 


1. Người Phước Kiến: có vẻ thanh bai nhứt. Uống trà quạu, mà hút nha phiến cũng đậm. Hòn Vũ Di Sơn (ở Nam Bình, phía bắc tỉnh Phúc Kiến bên Tàu) là của họ, mà giao thiệp đầu tiên với bọn nha phiến Ăng-lê bên Tàu cũng là họ.  

Ở đây họ chuyên nghề mua lúa chà ra gạo. Ở tỉnh thì làm chủ chành lúa, ở Chợ Lớn - Bình Tây thì nhà máy xay của họ là phần nhiều. Người họ mảnh mai, vóc cao mà ốm. Gần hết đều sói đầu, không sói thì đầu phải có chốc. Xưa họ dám tự hào: "Không chốc trên đầu, chưa phải là người tỉnh Phước, chưa phải con cháu dòng Minh Thái Tổ, lên ngôi xưng hiệu là "Hồng Võ" (1368-1398). Nhưng ngày nay tắm gội mỗi ngày có mỹ nhơn xức nước hoa đắt tiền, làm gì còn các quốc túy "xái thạo Hồng Bú" (xài dầu Hồng Võ)?

Tôi là con cháu người tỉnh Phước, tôi nói ra đây xin ai đừng vội giận. Những tánh tốt của người đất Mân (閩 Mân vào thế kỷ thứ 10 là một nước nhỏ, xa xưa nữa thời Chiến Quốc là Mân Việt 閩越, nay là địa bàn tỉnh Phúc Kiến) dư che tiểu tật, tánh tôi ưa nói pha lửng, giận thì để bụng.  

Vả lại đây là tranh chấm phá, việc khen "phò mã tốt áo" tôi cho rằng thừa. Món ăn của người Phước Kiến gồm hải vị nhiều hơn là sơn trân, vì ta chớ quên xứ của họ ở gần duyên hải. Ai có nếm "tàu hủ thúi như phổ mác" (phổ mác "fromage" tức là phô mai) chưa? Ngon vô cùng, ăn rồi nhớ mãi. Nhưng thiện nghệ nhứt là thuật nấu đồ chay theo phái minh sư. Thiếu Lâm tự và môn võ thuật tuyệt luân "võ Thiếu Lâm" cũng ở trong vùng Phước Kiến. Thêm giỏi nghề vẽ vời, viết chữ đại tự. Các tiệm bán trà trong Chợ Lớn, hộp nào cũng có phóng bút đỏ xanh, hỏi ra đều gốc Phước Kiến.


Nói nhỏ: bán ve chai làm giàu cũng họ. Quách Đàm ngày xưa là ông vua. Nói luôn: vì họ ham gần cô Nha phiến, hễ khá thì hút, nên dân Việt ngày xưa ít gả con cho họ, duy người Miên lại thích, khen mặc dầu ghiền nhưng biết trọng chữ tín hơn ai. Có con gả cho bọn Phù dung, không bị bỏ xó, thì cũng chẳng nên cơm cháo gì. Có câu ví, nhưng hơi tục: "Địt như chệc".


2. Người Quảng: Xin đừng lầm với dân Ngũ Quảng ở miền Trung. Quảng ở đây là Quảng Đông, xứ của ông Triệu Đà. Người Quảng phần đông làm chủ các hiệu cao lâu lớn, ăn mỡ thật nhiều, đa số bụng phệ, ngày xưa đại đa số rất thích ở trần phơi rún sâu và đặc biệt nếu đi dép thì quét sạch sân nhà, còn khi đi guốc hoặc giày đế cứng thì họ kéo họ lê họ khua cho thật kêu họ mới bằng lòng. 


Không tin cứ vô Chợ Lớn giờ tan ciné và hãy xem thềm lát gạch bông đã mòn thế nào thì biết. Hình như bài matjong (mã chược), bài thín cẩu (thiên cửu) đều là của dân Quảng sáng chế; muốn chơi nó, không phương nào lọt khỏi tai thính của cảnh sát và đối với dân Quảng, cái gì không rầy rà không điếc tai là họ không ưa.


Nhạc Quảng nội một cái phèng la cũng đủ bịt lỗ tai, tà ma phải vắt giò bỏ chạy. Còn cái trống bắc cấu (bác cổ), không biết họ dùng thứ da gì, luôn cả cây đờn tam huyền (đờn tam), mỗi lần trống xổ đàn khua, thì ông cha mồ tổ luôn con ráy cũng muốn rời lỗ tai để tản cư nơi khác. Người Quảng Đông là dân tỉnh thành (xẻn xèn) nên thiện nghệ về ăn.  

Mì, hủ tiếu, bò vò viên, hà hứ, ầm cối quảy (Tần Cối quỷ) kêu trại ra dầu cha quảy (油炸鬼 du tạc quỷ tức quỷ bị thiêu ám chỉ Tần Cối), đều của họ. Đồ vàng nữ trang, vải lụa, đồ gỗ đồ mộc đắt tiền đều bởi họ làm. Họ giỏi chịu đựng, khó nhọc khổ tâm cách mấy cũng không nệ hà. Bán ra một cái tủ sắt chẳng hạn, nếu lao công cu li hè hụi khiêng không nổi, thì a-lê-húp, xì thẩu chủ tiệm cởi áo ra tiếp sức, không như đồng bào ta vừa da mắt bớt tái, làm ăn vừa khá, thì lên chưn lo sắm ô tô hay cô vợ bé. Người mình làm chủ tiệm mà khách lầm (gọi) "Ê mầy! Ê kia!" thì "Mầy sẽ biết tay tao!".


3. Người Tiều: Trong tập tôi không nói đến người Bắc Kinh, người Tô Châu, vì họ qua đây rất ít, tôi không dám nói càn. Tôi xin nêu ra một sắc dân điển hình dễ chung đụng và dễ dung hoà với chúng ta, đó là người Tiều. Tiều đây xin chớ nhầm lẫn với tiều phu đốn củi. 

Đây là một cách gọi tắt, vì làm biếng, của dân miền Nam, nhứt là giọng dân Chợ Lớn, để chỉ định người Triều Châu (潮州 Teochew, nay là một thành phố nằm phía đông của tỉnh Quảng Đông, cách ranh giới tỉnh Phúc Kiến khoảng 60 km về hướng đông bắc), bởi tiếng phát âm cho đủ chữ và gọi như thế cho khỏi đánh vần chữ "r", khỏi líu lưỡi đỡ ê răng. Và tôi xin thuật một chuyện đã xảy ra cho tôi, tuy mới đây nhưng dung tả được người Tiều xưa nay không thay đổi. 


Năm ấy, 1946, tôi chạy tản cư xuống Hoà Tú (Sóc Trăng) rồi xuống Bạc liêu và đi lạc vào vùng ruộng muối, đóng dàn theo bờ biển, ngó xa mú tí tè toàn là một màu trắng phếu như ai lấy bông gòn trải đầy mặt đất, và không có một bóng cây che nắng. 

Mà phải biết vào mùa hạn khô như vầy, cứ đếm mỗi một ngày nắng ráo như thế nầy, muối trên ruộng lọt vô túi các chủ sở bạc ức bạc triệu chớ không chơi. Và hễ trời âm u không nắng thì họ rầu thúi ruột non ruột già, vì thiếu nắng thì muối không thành muối. 

Và lạ thay cái xứ giàu muối ấy lại khan hiếm nước mưa để uống và nước mưa ở đây quý giá hơn bạc hơn vàng. Nhắc lại lần nữa, tôi đã nói mùa khô ráo vô bạc triệu cho chủ kho muối, vì hễ nắng càng gắt thì càng làm cho nước mặn trên ruộng mau bay hơi, mau khô và trở thành muối hột. Trái lại nếu trời chuyển mưa hay âm u vần vũ thì nước lâu bốc hơi, muối tự nhiên lâu thành hình. 

Người phu làm muối ở Bạc Liêu chuyên đi gánh muối ngoài ruộng phần đông là người Tiều tức là người Tàu ở phủ Triều Châu, quen nghề rẫy bái, qua đây vì ít vốn nên buổi đầu không làm nghề buôn bán như dân Quảng Đông, dân Phước Kiến, và họ lựa nghề làm rẫy trồng rau tưới cải, v.v... không cần có vốn nhiều.  

Họ chịu khó, xuống tận Cà Mau ra đến hải đảo cù lao trồng khoai lang rồi sắm ghe cà vom chở khoai bán khắp vùng Hậu Giang, hốc kẹt nào cũng tới. Họ trồng dưa nơi mé biển, phơi tôm khô, trồng nhãn, và nếu nghèo lắm thì nhào vô ruộng muối gánh muối cho Hội đồng Trạch (Trần Trinh Trạch), Hoàng Dù Kia (Huỳnh Như Gia), công tử Dù Hột (Huỳnh Như Phước) vân vân. Ở ruộng muối vì ít người lai vãng, họ đóng khố, tối ngày "lù coi", hoặc vận quàn xà lỏn (tà lỏn, tiếng Pháp pantalon) , luôn luôn họ để mình trần như nhộng, vì bận áo quần vào hơi muối bám rít làm sao chịu nổi thêm áo quần mau mục rách. 

Người Tiều có tính hiếu khách. Khi nào gặp họ, xin họ một bữa cơm, họ sẵn lòng không tiếc. Nếu muốn ăn dưa tại chỗ, ăn mấy trái họ cũng vui lòng và không tính tiền, ta vào vườn nhãn hái trái ăn no bụng họ cũng không hề cự nự, duy phải nhớ trái nào món nào mình xách trên tay đem về thì họ tính tiền rắc rắc.


Tánh họ hào hiệp làm vậy, nhưng đến khi mình vào ruộng muối thử thời xin họ một gáo nước uống giải khát, chính tôi bữa ấy gặp một thằng tửng con, nó trả lời làm vầy: "Lứ (ông) xin mí cái? Lứ xin nước mưa để uống hả? Ở đây hóa (tôi) không có nước mưa để rửa dái (ngoại thận), làm sao có nước mưa cho lứ uống?". Nghe vậy giận quá, ước sức muốn tát cho nó một bốp tai thật đau để sau chừa tật ăn nói không lựa lời, nhưng khi chủ nhà cắt nghĩa lại thì thương chú tửng con nầy quá, vì nước mưa đối với họ là thuốc tiên chớ không vừa.


Mùa mưa cũng như mọi nơi, ở đây họ hứng để dành dùng qua tới mùa hạn. Kẻ giàu thì xây hồ xi măng cốt sắt thật lớn để chứa bộn bề, nhưng nước chứa hồ xi-tẹt họ không thích mấy, chê không ngon ngọt bằng nước mái nước lu không có mùi xi măng cưng cứng và uống vào mát lạnh, nước tới đâu mát tới đó, đã khát còn hơn uống nước dừa xiêm. 

Gặp mùa hạn kéo dài, nước chứa đã cạn, khi ấy dẫu bốn năm đồng bạc (bằng cả ngàn đồng ngày nay (thập niên 60)) giá mỗi thùng thiếc đựng mười tám lít, họ cũng không tiếc tiền và cố mua cho được để mà dùng. Hiện thời đã có người thấy xa biết dùng ghe lớn chở nước ngọt sông Cái Cồn, Cái Cau miệt Kế Sách đem xuống đây bán, gọi "đổi nước" (vì tránh chữ "bán nước" nghe trái tai). Nhưng cho đến bao giờ, người phu làm muối vẫn đổi nước sông để uống để ăn và luôn luôn họ để dành nước mưa để "làm thuốc", và bởi thế mới có câu trả lời cộc lốc của chú tửng con bên Tàu mới qua nầy.


Số là khi ban ngày phơi lưng kệch ra gánh muối ngoài nắng, hơi nước mặn bốc lên vùn vụt gặp da thịt chỗ nào có mồ hôi ướt ướt thì bám vào khiến nên những nơi lắt léo, như nách non, khoé mắt, khớp cùi chỏ, khớp đầu gối, kẹt háng, kẽ bẹn, đều có muối bám vào, nếu không tẩy sớm thì muối ăn nứt da thấu thịt, đau nhức lắm, và cái vị thuốc trừ muối ăn không gì khác hơn là nước mưa vậy. 


Mỗi trưa giờ nghỉ hay chiều giờ về nhà thì phải có một chút nước mưa thấm bông gòn lau nhẹ những nơi muối đóng, lau cho sạch rồi thoa dầu dừa vào là êm mát như xưa, mà ác nghiệt thay phải đúng nước mưa rửa mới hiệu nghiệm. Không có nước mưa không lấy gì thay thế được, dẫu thuốc dán mát hay vaseline, pommade gì bôi vào cũng không linh ứng bằng. Cho nên khi chú tửng nói: "không có để rửa dái (ngoại thận)" là lời nói chơn thật chớ không phải nói đánh đầu.

 

Mà ngộ: người Tiều xấu xí ấy, là chỉ xấu xí bề ngoài, chớ bề trong họ có nhiều đức tánh để trở nên một người chồng tốt nhứt thế gian nầy. Họ hiền từ, giỏi giắn, biết nhịn nhục nhứt là có nước giỏi chịu cực hơn bất cứ ai. 


Nhờ vậy mà người dân bản xứ, nhứt là người Miên lai và người Việt quê mùa củi lụt rất ưng ý có thằng rể Tiều và hễ có con gái giỏi thì dành gả cho họ, vì như đã nói hắn giỏi chịu đựng, dầu vợ có ăn hiếp họ vẫn cười hề hề, thêm họ có tánh biết cưng đàn bà, không cho vợ làm lụng nhiều sợ sẽ xấu xí đi, và bao nhiêu công việc đồng áng, gánh phân bón rẫy, cày cuốc, đổ thùng xí ban đêm, giặt rửa cho con, thảy thảy họ đều "bao sổ" cho nên con gái miền Tây có chút nhan sắc, tuy không nói ra, chớ gả cho Tiều là họ ưng liền, các con trai trong làng làm không lại Chệt.


Mà trời sanh điểm nầy mới lạ cho chớ. Bố là cha Tiều nước da vàng, hình thù lớn xương gần như thô, thế mà khi pha với máu mẹ là Thổ lai, vốn vóc dáng nhỏ con hơn Tàu, nhưng chắc da chắc thịt, chắc như cua biển Bạc Liêu đêm tối trời, tuy đen đúa nhưng duyên dáng, ngực phồng lưng eo, nên khi hai người ráp nhau, hễ sanh trai thì tuấn tú đẹp trai, bằng sanh gái, thứ gái "đầu gà đít vịt" ấy, thế mà chu choa, mũi nó cao và ngay như treo trái mật (nhại văn truyện Tàu), nước da vàng dợt và mịn màng như ngà lâu năm lên nước.  

Ngực nở lưng ong, người thon thon dong dảy, cái đẹp lạ mắt nầy có phần lấn áp các cô gái vườn của đồng bào ta tuy vẫn đẹp không kém chút nào. Nhưng các trai làng không thích bằng vì thuộc thành phần đa số, không như cô gái "đầu gà đít vịt", không tốn tiền thuốc, gặp mưa gặp gió không bao giờ hề hấn, đẻ cả bầy mà thịt da săn cón như gái một con.


Gái Tàu lai có tánh thùy mị khả ái, giỏi nhịn chồng và không biết ghen xằng. Cô có cặp mắt phụng xiên xiên, quả là phụng nhãn của Hán Chiêu Quân, cặp phụng nhãn ấy lại đóng dưới đôi chân mày đều đặn như lá dừa mới trổ và mỗi lần rớm lệ, đôi má bỗng đỏ hây hây và đỏ tự nhiên chớ không phải vì năng lai vãng các lò "sát nhân" sửa sắc đẹp.

 

Đúng là tuyệt thế giai nhân, đẹp tự nhiên chớ không phải nhờ son phấn giả tạo. Đoá hoa lạ miền Tây ấy, khi cất tiếng lên hát, tượng trưng là cô Bảy Phùng Há, là những giọng oanh vàng của các ban hát Tiều nghe từ lúc nhỏ khi còn ở Sốc Trăng, vừa trong như ngọc vừa nhẹ nhàng như tiếng hạc trên mây, mới chết anh hùng cho chớ. 


Nhưng nay đã khác. Những nhân vật tôi kể nãy giờ đã thuộc thế hệ ông bà chúng tôi lớp trước, chớ người Trung Hoa ở miền Nam ngày nay, cả nam lẫn nữ đã Việt hóa rất nhiều và đáng với dân ta bắt tay làm bạn đời đời.


Vương Hồng Sển


CHƯNG HOA hay TRƯNG HOA
*
1. 🌸Chưng hoa, trưng hoa là tiếng Hán-Việt?
Ở đây tôi sử dụng 5 cuốn từ điển của Đào Duy Anh, Nguyễn Tôn Nhan, Võ Phá, Thiều Chửu, Lôi Hàng (người Trung Quốc) và cuốn Học chữ Hán của Lưu Khôn (có dẫn giải đầy đủ các bộ chữ Hán).
CHƯNG (bộ hỏa) có nghĩa là: Làm cho khí lửa bốc lên, chưng thử (nắng chang chang), chưng lưu, chưng cất, chưng tuất (cứu viện), chưng uất (khí uất bốc lên)… Hoàn toàn không có nghĩa “chưng hoa” ở đây. Hình 2.
TRƯNG (bộ xích) có nghĩa là: Vời đến, chứng cứ, thu thuế - như trưng binh, trưng cầu, trưng chứng, trưng dẫn (đem ra làm chứng), trưng thuế, trưng dụng (mời đến mà dùng), trưng thư (giấy giao cho người đi mời), trưng tập (mời và gom nhóm lại), trưng văn (mời người ra làm văn), trưng thi (mời người làm thơ hay họa thơ)… Hình 3, 4, 5. Ở đây, chữ TRƯNG có nhiều nghĩa nhưng không có nghĩa “trưng hoa”.
Riêng trong từ điển Trần Văn Chánh, chữ TRƯNG còn có thêm nghĩa: Điềm, chứng cớ, triệu chứng, dấu hiệu. Cuốn này tôi không có bản in, phải tra trên mạng. Hình 6.
Như vậy, chưng hoa hay trưng hoa đều không là tiếng Hán-Việt.
2. 🌸Chưng hoa, trưng hoa là tiếng Nôm?
Tiếng Quốc Ngữ còn được gọi là Quốc Âm. Từ thời tiền Lê đến thời Pháp thuộc, chữ Quốc Ngữ được phát triển và viết bằng chữ Nôm (mẫu tự Hán). Ở thời Pháp thuộc chữ Quốc Ngữ được latin hóa sang mẫu tự alphabet. Về sau này, chúng ta bỏ chữ Nôm, chỉ còn chữ Quốc Ngữ với mẫu tự alphabet.
Tác phẩm Quốc Ngữ đầu tiên bằng chữ Nôm là Quốc Âm Thi Tập do Nguyễn Trãi viết vào thế kỷ 15, được vua Lê Thánh Tông sưu tầm và biên soạn lại. Sau này được hai ông Phạm Trọng Điềm và Trần Văn Giáp phiên dịch ra chữ Quốc Ngữ với mẫu tự alphabet.
Đến thế kỷ 16, ông Nguyễn Bỉnh Khiêm viết tác phẩm Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập bằng chữ Nôm, khẳng định chữ Nôm là Quốc Ngữ.
Tôi tham khảo 254 bài thơ trong bộ Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi thì tôi tìm được hàng loạt những chữ CHƯNG sau đây (với nhiều nghĩa khác nhau):
- Vì chưng đời có chúa Đường Ngu.
- Cật chưng hồ hải đặt chưa an.
- Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa,
- Ngầm hay mùi đạo cực chưng ngon,
- Phần ấy chưng ta đã có thừa.
- Nghĩa ấy bền chưng đá vàng.
- Thêu cùng gấm mặc chưng đời.
- Lòng người một sự yêm chưng một,
- Xanh bạc dầu chưng mặt chúng ngươi.
- Sự thế chưng ta dầu đạm bạc,
- Được dưỡng vì chưng có thửa dùng.
- Hiềm kẻ say chưng bề tửu sắc,
- Ở chưng trần thế mấy phen cười.
- Than lửa hoài chưng, thương vật nấu,
- Đã ngoài chưng thế dầu hơn thiệt,
- Khỏi quyền đã kẻo luỵ chưng danh.
- Bởi chưng hệ chúa Đông quân.
- Kham cười anh vũ mắc chưng lồng.
- Nhân chưng giận chuột phải nuôi mày.
*
Lạ lùng thay, tôi chỉ tìm được hai chữ TRƯNG, nhưng đều là tên riêng. Đó là bà Trưng và Ngụy Trưng.
Riêng câu thơ:
“Muối liễn dưa dầu đủ bữa,
Thêu cùng gấm mặc chưng đời.” (Tự thán bài 34, Quốc Âm Thi Tập)
Cho thấy chữ “chưng đời” đã có từ rất xưa. Nó có nghĩa là cho đời hay mang ra với đời.
Tìm thêm trong một số bài thơ Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập (vua Lê Thánh Tông), tôi có được các chữ CHƯNG như sau:
- Nết na nhận khẩn khác chưng loài
- Quá Lỗ, vì chưng chút đãi buôi
- Hơn chưng bạn khải hoa vương
Nhưng tôi KHÔNG tìm thấy chữ TRƯNG. Ai có nguyên bộ gốc Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập, xin tìm và kiểm tra giúp.
Chữ TRƯNG không hề có mặt trong các bài thơ bằng chữ Nôm cổ xưa nhất của Quốc Âm Thi Tập! Có thể hiểu rằng: chữ chưng theo thời gian đã bị viết thành chữ trưng, do cách nói hai âm CH và TR giống nhau của người miền Bắc?
3. 🌸Chưng hoa, trưng hoa là tiếng thuần Việt?
Nhiều người cho rằng chưng hoa hay trưng hoa có nghĩa từ chữ chưng bày hay trưng bày. Nhưng tôi nghi ngờ quan điểm này.
Trong chữ TRƯNG BÀY thì chữ “bày” là tiếng thuần Việt nên khó có thể khẳng định là nó được ghép với chữ “trưng” tiếng Hán-Việt. Cho nên “trưng bày” (theo nghi vấn trong tiếng Nôm cổ không hề có chữ trưng) chỉ có thể hiểu là một cách ghép chữ tùy tiện của người bình dân sau này.
Ở đây ta nên xác định đang nói chữ chưng nào và trưng nào? Tiếng Hán Việt hay tiếng Nôm.
Khi cho rằng TRƯNG mang hàm ý "bày ra" thì đó là tiếng Trưng của tiếng Hán Việt. Nó có nghĩa là "mời mọc". Trưng dụng (mời đến mà dùng), trưng tập (mời và họp nhóm lại), trưng văn (mời người ra làm văn), trưng thi (mời người làm thơ hay họa thơ).
Khi ghép vào tiếng Việt (dù là ghép không đúng quy tắc) thì TRƯNG BÀY mang nghĩa bày ra, phơi ra chỗ công khai, chỗ công cộng cho mọi người xem, như: Nhà Trưng Bày Hoàng Sa, Nhà Trưng Bày Bát Tràng... Người ta không gọi là “nhà chưng bày” là vì vậy. Vì trưng có nghĩa gốc là “mời” nên trong kinh doanh, phô diễn, “trưng bày” thường được dùng hơn là “chưng bày”.
Nhưng CHƯNG BÀY thì sao? Theo tôi, về ngữ pháp thì chữ “chưng bày” chuẩn hơn, vì cả chữ “chưng” và “bày” đều thuần Việt nên có thể ghép chung với nhau. Nhưng theo ý nghĩa của chữ chưng và theo cách dùng trong xã hội thì “chưng bày” mang tính cá nhân hay riêng tư. Người ta chưng diện cho chính mình, chưng bày vật dụng trong phòng khách.
4. 🌸Như vậy, chưng hoa hay trưng hoa?
Theo tôi, viết đúng Quốc Ngữ phải là CHƯNG HOA.
Người miền Nam xưa nay đều viết chưng hoa. Bạn bè và người thân của tôi, những người miền Bắc chính gốc, những người trân trọng và kỹ lưỡng với chữ nghĩa cũng cho rằng: họ viết chưng hoa - Chưng hoa đào.
5. ☘️Nên khảo sát lại vấn đề.
Tôi sống ở nước ngoài, sách vở tài liệu rất hạn chế, thời gian cũng eo hẹp. Cho nên tôi hy vọng những người có khả năng, có tâm với tiếng Việt xem xét lại hai chữ “chưng hoa” và “trưng hoa” để có một cách viết thống nhất và bảo tồn (cũng như trân trọng) tài sản văn hóa của cha ông.








Thứ Sáu, 5 tháng 1, 2024

Một ‘lục địa’ 4 triệu tấn đang tiến gần đến Trái Đất khiến các nhà khoa học lo lắng


Những hình ảnh vệ tinh mới nhất về 1 vật thể khổng lồ đang tiến gần đến Trái Đất, có diện tích lớn gấp 4 lần Nhật Bản khiến cả thế giới choáng váng.


Gần đây, một sao chổi khổng lồ được các nhà khoa học gọi là “Lục địa” đã được phát hiện đang tiến gần Trái đất. Ước tính khối lượng của “lục địa” này khoảng 4 triệu tấn, sự xuất hiện của một vật thể khổng lồ như vậy đã gây ra sự lo lắng trên toàn thế giới.

Khối lượng của vật thể này đến 4 triệu tấn là một con số không thể tưởng tượng được đối với con người. Điều này mang lại cho "Lục địa" này sức mạnh to lớn và năng lượng tác động. Nếu va chạm với Trái đất, động năng khổng lồ của nó sẽ giải phóng một lượng năng lượng khổng lồ, có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho sinh vật và môi trường trên Trái đất.


Tốc độ chuyển động của các vật thể khổng lồ cũng là một đặc điểm quan trọng. Mặc dù “lục địa” sao chổi đang tiếp cận trái đất với tốc độ rất cao nhưng nó lại không di chuyển quá nhanh so với trái đất. Cho dù tốc độ di chuyển không cao nhưng xét đến khối lượng khổng lồ thì năng lượng tỏa ra khi nó va chạm với trái đất cũng không thể coi thường. Điều này sẽ gây ra hiệu ứng tác động rất lớn và có thể gây ra các thảm họa thiên nhiên như sóng thần, núi lửa phun trào và động đất.

Sự va chạm của các vật thể khổng lồ cũng có thể gây ra các vấn đề như nổ không khí và hỏa hoạn. Khi một vật thể khổng lồ đi vào bầu khí quyển Trái đất, nó sẽ tạo ra áp suất và năng lượng rất lớn do sự va chạm tốc độ cao của các phân tử khí, gây ra vụ nổ không khí mạnh. Sóng xung kích do vụ nổ tạo ra không chỉ gây hư hại cho các tòa nhà và cơ sở xung quanh mà còn có thể gây ra hỏa hoạn nghiêm trọng và gây nguy hiểm đến tính mạng của con người và động vật.

Để đối phó với sự nguy hiểm của các vật thể khổng lồ, các nhà khoa học đã bắt đầu suy đoán những cách khả thi để đối phó với chúng. Một phương pháp là sử dụng các phương tiện không gian để đánh chặn và thay đổi quỹ đạo của vật thể. Bằng cách làm các vật thể khổng lồ thay đổi quỹ đạo và di chuyển chúng ra khỏi trái đất, nguy cơ va chạm sẽ giảm đi. Mặc dù phương pháp này hơi khó và đòi hỏi mức độ tính toán và vận hành chính xác cao nhưng đã có một số trường hợp thành công ở quy mô nhỏ.



Các nhà khoa học cũng đang nghiên cứu cách sử dụng năng lượng mặt trời để bảo vệ vật thể khổng lồ. Năng lượng mặt trời được sử dụng để phát ra tia laser năng lượng cao và chiếu xạ chúng lên các vật thể khổng lồ, từ đó làm thay đổi nhiệt độ bề mặt và cấu trúc của chúng, khiến chúng tạo ra hiệu ứng động và thay đổi quỹ đạo. Công nghệ này hiện đang trong giai đoạn thử nghiệm nhưng dự kiến ​​sẽ trở thành phương tiện phòng thủ khả thi trong tương lai.

Các vật thể khổng lồ được đặc trưng bởi khối lượng, thể tích và năng lượng va chạm khổng lồ của chúng. Khi va chạm với Trái đất, thiệt hại nghiêm trọng và thảm họa có thể xảy ra. Thông qua nghiên cứu và khám phá không ngừng, các nhà khoa học đã đưa ra một số phương pháp phòng thủ khả thi, mang lại hy vọng cho con người đối phó với những sự kiện tương tự. Tôi hy vọng chúng ta có thể hành động kịp thời để bảo vệ sự an toàn của nhân loại và hành tinh.

Sưu tầm 

Lục địa mất tích bí ẩn hàng trăm triệu năm trước bỗng 'tái xuất', nằm ngay tại Đông Nam Á.



Một lục địa được phát hiện từ khá lâu nhưng mãi chưa thể xác định vị trí. Mãi đến mới đây các nhà khoa học mới tuyên bố đã phát hiện ra nó nằm ở khu vực Đông Nam Á

Vừa qua, trang SYFY Eldert Advokaat và Douwe van Hinsbergen là hai nhà địa chất sau khi liên kết với Đại học Utrecht (Hà Lan) đã xác định được vị trí của lục địa Argoland. Đây là lục địa từng gắn liền với Tây Úc, nhưng từ 155 triệu năm trước đã tách khỏi Úc. Thế nhưng các nhà khoa học không thể tìm thấy nó trên Trái đất, việc một lục địa biến mất bí ẩn khiến cho nhân loại vô cùng sửng sốt.


Các mảnh chính của Argoland ngày nay được thể hiện bằng màu xanh lá cây trên bản đồ địa chất - Ảnh: Advokaat & Hinsbergen

Nhiều tranh cãi đã xảy ra, và nay cuối cùng chúng ta cũng đã có đáp án. Hóa ra không phải Argoland mất tích mà chỉ đơn giản là nó “ẩn mình” đi mà thôi. Nói tóm lại, Argoland không hề biến mất, nó tồn tại theo dạng rời rạc dưới các hòn đảo phía Đông Indonesia.

Khoảng 155 triệu năm trước, một mảnh lục địa dài 5.000km đã tách ra khỏi miền Tây Úc, trôi dạt trên đại dương. Nó không chỉ là một cú trượt địa chất đơn giản như chúng ta nghĩ. Ngày nay, con người không thể tìm thấy một lục địa lớn dưới những hòn đảo thuộc Đông Nam Á mà chỉ có thể thấy tàn tích của những mảnh lục địa nhỏ, được bao quanh bởi các lưu vực đại dương mà thôi.


Lục địa Argoland sau khi tách khỏi Tây Úc đã bị phân mảnh trôi dạt trong đại dương. Ảnh: Trust my science.



Sau phát hiện của hai nhà địa chất người Hà Lan, định nghĩa về đường Wallace lại càng trở nên đúng đắn hơn bao giờ hết. Bấy lâu chúng ta vẫn đi tìm câu trả lời cho lý do Đông Nam Á và lục địa Australia bị ngăn cách hệ động vật. Chính đường Wallace đã ngăn cản động vật có vú, chim, loài người sơ khai ở các đảo Đông Nam Á với Australia. Ngoài ra phát hiện còn ảnh hưởng đến cái nhìn về cách các lục địa hình thành, di chuyển rồi biến mất.

Theo SYFY


NGÀY “XƯA”, HUẾ CÓ MỘT QUÁN CƠM MIỄN PHÍ DÀNH CHO NỮ SINH ĐỒNG KHÁNH.

 

(Bài của cô Bùi Kim Chi- Cựu nữ sinh trường Đồng Khánh và sau này là Giáo sư trường Hàm Nghi Huế viết cách đây đã khá lâu. Xin phép cô để phổ biến bài viết lên trang HUẾ này. 

Trân trọng cảm ơn cô. 

Em: Tôn Thất Thọ)

 

 

Ngọ Phạn Điếm

Bùi Kim Chi

Posted by GLN

 

Ngày xưa, cách đây 60 năm, ở đường Duy Tân Huế từ cầu Trường Tiền đi xuống, qua khỏi Morin (cũ ), đi một đoạn, có một địa điểm mang cái tên nghe là lạ " Ngọ Phạn Điếm ". Càng lạ và đặc biệt hơn nữa, Ngọ Phạn Điếm chỉ đón khách vào ăn một bữa trưa (demi-pension ) trong ngày là học sinh của trường Nữ Trung Học Đồng Khánh Huế mà thôi.

 

Tìm hiểu, tôi được biết, năm 1954, hiệp định Geneve được ký kết, quân Pháp về nước. Sau chiến tranh, cuộc sống của người dân cố đô Huế vẫn còn vất vả, khó khăn. Trường Đồng Khánh lúc này cũng xuống cấp nặng, các lớp học bị mưa dột, bàn ghế hư hao, điều kiện ăn ở và học tập của học sinh thiếu thốn, nhân sự không đủ nên trường đã bãi bỏ bậc tiểu học và không còn tổ chức nội trú và bán trú cho học sinh như trước đây nữa.




Năm 1960, mặc dù ngân sách của nhà nước lúc này còn khó khăn nhưng chính quyền cũng cố gắng giải quyết cho trường Nữ Trung Học Đồng Khánh đại trùng tu (vì đây là ngôi trường nữ trung học duy nhất và lớn nhất miền trung lúc bấy giờ ). Thời điểm này, cô Đặng Tống Tịnh Nhơn được Bộ Giáo Dục bổ nhiệm chức vụ Hiệu Trưởng của trường Đồng Khánh (1959 – 1964), đây là nữ Hiệu Trưởng thứ 6 trong số 10 nữ Hiệu Trưởng của trường Đồng Khánh kể từ năm 1945 đến năm 1975. Cô Tịnh Nhơn là giáo sư Việt Văn và Sử Địa được nữ sinh Đồng Khánh kính yêu. Lúc nhận chức vụ Hiệu Trưởng cô mới trên 30 tuổi. Trường Đồng Khánh lại đang thực hiện kế hoạch sửa chữa, xây dựng, cô rất lo lắng nhưng nhờ nhanh trí cô đã liên hệ và nhận được sự tiếp tay của phụ huynh học sinh có chuyên môn trong ngành xây dựng tận tình giúp đở, cho ý kiến, bàn bạc về các phương án kiến trúc, sửa chữa, xây dựng... Thế là trường Nữ Trung Học Đồng Khánh được trùng tu, xây dựng thêm một số công trình nên khang trang, chắc chắn và rất đẹp. Lúc này, trường vẫn còn nhiều học sinh có hoàn cảnh nghèo, đa số tập trung ở vùng ven thành phố Huế, nhà ở rất xa trường. Mỗi ngày học hai buổi, phải đi bộ đến trường . Khổ nhất là những ngày Huế mưa to, gió lớn và lụt lội. Đã thế, nữ sinh đi học còn phải bới cơm theo, nguội lạnh để ở lại ăn trưa trong lớp. Số học sinh có nhu cầu ở lại trưa tại trường ngày càng đông nên việc quản lý học sinh vô cùng khó khăn. Nhân sự lại không có để theo dõi học sinh ở lại trưa , ngoài bà Trần Thi và bà Vương Quang vừa phải lo công việc ở văn phòng , vừa phải đến các lớp nhắc nhở học sinh giữ vệ sinh , giữ gìn trật tự, nghỉ ngơi để vào học buổi chiều. Trước tình hình này , thấy hai bà quá vất vả, cô Hiệu Trưởng và cô Giám Học Nguyễn Thị Thu lo lắng, trăn trở. Nếu áp dụng giải pháp cấm học sinh ở lại ăn trưa tại trường, học sinh sẽ lang thang ngoài vườn hoa trước trường Đồng Khánh hay dừng chân trong vườn cây trước Tòa Tỉnh trên đường Lê Lợi gần trường để ăn và nghỉ chân thì rất "khó coi" vì là con gái mà lại là nữ sinh của trường Đồng Khánh. Không thể được. Thế là, sau khi bàn bạc trong nôi bộ lãnh đạo, nhà trường đã chính thức có văn bản và cô Tịnh Nhơn là người đã trực tiếp làm việc với Tòa Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên , xin giúp đở cho nữ sinh có một nơi để ăn trưa, có nhân sự quản lý. Sau nhiều lần đi thỉnh ý, với cách trình bày sự việc có tình, có lý của cô Hiệu trưởng, Tòa Tỉnh đã quyết định và có kế hoạch giúp đở trọn gói từ địa điểm tổ chức cho học sinh nghèo ăn bữa trưa miễn phí cho đến kinh phí xây dựng, trang thiết bị cũng như nhân lực phục vụ. Trường Đồng Khánh chỉ việc lập danh sách chính xác số học sinh thật sự nghèo và nhà ở xa trường ( khoảng 40 hs ) và phải dặn dò kỹ học sinh giữ gìn trật tự, kỷ luật thật tốt.

 

Để giữ uy tín với Tỉnh, cô Đặng Tống Tịnh Nhơn và cô Nguyễn Thị Thu đảm trách công việc này. Và... " Ngọ Phạn Điếm " miễn phí dành cho nữ sinh trường Đồng Khánh ăn bữa trưa ra đời.

 

Theo lời cô Nguyễn Thị Thu ( chứng nhân còn lại ), Ngọ Phạn Điếm có cơ sở đặt tại đường Duy Tân ( nay là Hùng Vương ), khoảng ở Khách sạn Duy Tân hiện nay. Ngọ Phạn Điếm là tên do cô Tịnh Nhơn đặt, tuy nhỏ nhưng khang trang, cảnh quan đẹp, tiện nghi. Phòng ăn dành cho học sinh là hai dãy nhà lục giác, các mặt toàn bằng kính. Bếp là căn nhà bên cạnh, cao ráo, sạch sẽ. Tòa Tỉnh đã cử hai nữ nhân viên thay phiên nhau đến Ngọ Phạn Điếm trông coi, theo dõi việc nấu nướng của nhà bếp nhằm bảo đảm vệ sinh và đủ chất dinh dưỡng cho từng khẩu phần . Sau khi tan học buổi trưa, học sinh có trong danh sách của trường trong tà áo trắng, đầu đội nón lá, cặp sách trên tay xếp hàng trật tự đi từ trường Đồng Khánh đến Ngọ Phạn Điếm , nhận phiếu ăn. Nữ sinh sắp hàng trước cửa nhà bếp, lần lượt nhận phần ăn trong yên lặng và trật tự. Mỗi người có một chiếc khay inox nhiều ngăn đựng cơm và thức ăn. Khi ăn xong, nghỉ ngơi một lúc, học sinh sẽ xếp hàng ngay ngắn trở về trường và chuẩn bị cho buổi học chiều. Thỉnh thoảng cô Tịnh Nhơn và cô Thu đến Ngọ Phạn Điếm, vừa để thăm học sinh, vừa để xem cách thức tổ chức bữa ăn của nhân viên phụ trách. Có hôm, hai cô lại vào tận nhà bếp mở soong, nồi để tận mắt nhìn thấy thức ăn đã được chế biến và cách làm việc của nhân viên phục vụ. Hai cô đã rất hài lòng về cách thức tổ chức cũng như chất lượng bữa ăn trưa dành cho nữ sinh Đồng Khánh ở Ngọ Phạn Điếm. Tận tình. Chu đáo. Tiếc rằng , sau vụ tranh đấu Phật giáo ở Huế vào năm 1963 đã dẫn đến nhiều thay đổi và thế là Ngọ Phạn Điếm cũng không còn tồn tại nữa... Buồn. Tiếc.

 

Tôi ngỡ ngàng khi biết ở Huế có một " Ngọ Phạn Điếm " miễn phí dành cho học sinh nghèo của trường Nữ Trung Học Đồng Khánh cùng cảm giác thích thú với cái tên Ngọ Phạn Điếm. Quán ăn trưa , nghe bình thường ; nhưng đặt thành tên " Ngọ Phạn Điếm " thì nghe lạ và hay hay. Tôi phục ý tưởng đặt tên "lạ" của cô Hiệu Trưởng Đặng Tống Tịnh Nhơn. Vô cùng biết ơn những người đã có công đề xuất, thực hiện kế hoạch xây dựng để hình thành Ngọ Phạn Điếm; trong đó, có công sức đóng góp của hai cô giáo tôi. Cô Hiệu Trưởng Đặng Tống Tịnh Nhơn và cô Giám Học Nguyễn Thị Thu, hai vị giáo sư có năng lực chuyên môn, có năng lực quản lý và nhất là có "tâm", có "đức". Cô Tịnh Nhơn đã giã từ ngôi trường hồng ra đi mãi mãi không bao giờ trở lại. Nhớ cô, hằng năm cựu nữ sinh Đồng Khánh ở Huế đều có tổ chức húy kỵ cô ở chùa Trúc Lâm, nơi có mộ phần an nghỉ của cô. Riêng cô Nguyễn Thị Thu, hiện nay ở Thủ Đức. Cô có cuộc sống an nhiên, tính tình hiền hòa, phong thái điềm đạm, linh hoạt và trí nhớ thì tuyệt vời mặc dù tuổi của cô đã cao – 86 năm song hành cùng thời gian với đời. Cô vẫn hát cho học trò nghe. Cô hát như ngày xưa cô vẫn hát vào dịp học sinh ăn tất niên, chuẩn bị nghỉ Tết Nguyên Đán. Thi thoảng cô có về Huế, gặp lại nữ sinh Đồng Khánh của nhiều thế hệ, cô xúc động và mừng vui. Thế là cô trò cùng nhau đến Cung Đàn Xưa và "hát cho nhau nghe". Cô và trò Đồng Khánh vẫn thích hát và yêu đời. Ngày xưa, cứ đầu và giữa giờ học, trường Đồng Khánh đều có mở nhạc cho học sinh nghe nhẹ nhàng để thư giản... Những dĩa nhạc này đươc cô Đặng Tống Tịnh Nhơn và thầy Đặng Ngọc Ấn đặc biệt chọn lọc.

 

Nữ sinh Đồng Khánh dù ở thế hệ nào, ở trong hay nước ngoài vẫn luôn luôn nhớ đến công ơn các thầy cô của mình với tấm lòng ngưỡng mộ, thương yêu và kính trọng vì các thầy cô luôn tận tình chăm lo và rất mực thương yêu học trò. Ngọ Phạn Điếm ngày xưa mà chúng ta được biết hôm nay chính là cái "tâm", là ý thức trách nhiệm của thầy cô Đồng Khánh mình. Đây chính là truyền thống đạo lý cao đẹp của người thầy giáo Việt nam.

 

Huế ơi, Đồng Khánh ơi, thầy cô ơi, bạn bè thân yêu ơi! . "Ngày ấy đâu rồi, ngày ấy đâu rồi... Cho tôi tìm lại... cho tôi tìm lại..." . Tôi muốn tìm lại một thưở yêu thương bên cạnh thầy cô và bạn bè trong ngôi trường hồng con gái ngày xưa ấy...


Bùi Kim Chi



KHUÔN MẶT....
Mỗi người đều do cha mẹ sinh ra, nhưng khi lớn lên khuôn mặt sẽ thay đổi dần theo tâm tính của mình. Vậy nên văn hóa phương Đông vẫn cho rằng “tướng do tâm sinh” là vậy.
Một lần, Tổng thống Mỹ, Abraham Lincoln phỏng vấn một ứng viên nam đến làm nhân viên cho chính phủ. Mặc dù người đàn ông này rất có tài năng nhưng vị Tổng thống vẫn không tuyển dụng.
Người phụ tá thấy vậy liền hỏi Tổng thống nguyên nhân vì sao. Tổng thống nói: “Tôi không thích tướng mạo của người này”.
Người phụ tá không hiểu nên hỏi lại: “Chẳng lẽ một người khi sinh ra đã không được ưa nhìn thì cũng là lỗi của họ sao?”
Tổng thống Lincoln trả lời: “Mỗi người đều do cha mẹ sinh ra, nhưng sau 40 tuổi đều phải chịu trách nhiệm cho khuôn mặt của mình!”
Thực sự trong cuộc sống, con người đến tuổi trung niên, thì tướng mạo sẽ lộ rõ ra tính cách và phẩm chất của người đó. Người có tấm lòng khoan dung thì phần lớn sẽ có khuôn mặt phúc hậu. Người có tính tình hiền dịu thì tướng mạo sẽ đẹp một cách nhu hòa thánh thiện. Người có tính cách thô bạo lỗ mãng thì tướng mạo sẽ luôn là hung dữ. Người có lòng dạ nhỏ mọn thì phần lớn sẽ có tướng mạo xấu xí, hai hàng lông mày nhíu chặt. Có người tướng mạo lộ ra vẻ đặc biệt trẻ trung và xinh đẹp thì người này nhất định là đơn thuần lương thiện. Đây là do kết quả của quá trình tu dưỡng tâm tính và hành vi phản chiếu lên khuôn mặt. Cho nên tướng mạo cũng chỉ ra vận mệnh tương lai của người đó.
Nhưng tướng mạo của một người là có thể từng bước cải biến được. Đặc biệt, tướng mạo đẹp là do sự quyến rũ từ trong nội tâm. Bất kể phúc báo nào đều là có nguyên nhân, cho nên dung mạo xinh đẹp cũng là có nguyên nhân từ tâm.
Để có tướng mạo đẹp ở tuổi trung niên, hãy thường xuyên tu dưỡng những điều sau:
1. Thường xuyên mỉm cười
Có người nói, mỉm cười là cách để làm nở một bông hoa xinh đẹp nhất ở trên khuôn mặt. Người xưa có câu: “Tay hung không đánh mặt cười”. Nụ cười luôn làm rung động lòng người, khiến mọi người vui vẻ, thân thiết và gần gũi nhau hơn. Nhưng đó vẫn chưa phải là điều quan trọng nhất, điều quan trọng nhất chính là, mỉm cười luôn mang đến cho người khác niềm vui và hạnh phúc, mang đến sự sự chia sẻ về tinh thần. Nếu như trên khuôn mặt thường xuyên nở nụ cười là có thể đem thiện ý truyền đạt cho tất cả mọi người. Đây chính là cách hoàn toàn không phải mất phí tổn mà lại tạo ra được giá trị lớn. Đây chính là phương pháp làm đẹp thuận tiện rất, kỳ diệu nhất.
2. Khen ngợi người khác nhiều hơn
Ai cũng đều muốn nghe những lời khen ngợi, khích lệ đặc biệt là lời khen ngợi đúng lúc. Các nhà khoa học đã làm một cuộc thí nghiệm đối với nước. Sự kết tinh hình dạng của nước có chịu ảnh hưởng của thanh âm bên ngoài.
Tiến sĩ Masaru Emoto, giám đốc Viện Hado (tổ chức IHM) ở Tokyo, Nhật Bản đã tiến hành thí nghiệm sự biến hóa của nước dưới sự ảnh hưởng của âm thanh tác động bên ngoài và phát hiện: Khi ông phát những ca khúc nổi tiếng của Mozart và Beethoven rồi dùng kính hiển vi quan sát, ông nhận thấy các tinh thể nước sẽ thuận theo những giai điệu đẹp đó mà không ngừng có những biến hóa đẹp mắt.
Nói những lời dễ nghe thì các tinh thể nước cũng tạo thành những hoa văn hết sức đẹp mắt. Khi nói những lời khó nghe thì các tinh thể nước lại chuyển động hỗn loạn, không có trật tự. Vậy nên, nói những lời khen ngợi, khích lệ người khác cũng sẽ làm rung động tinh thần của họ. Và đồng thời, chính những lời thiện, lời tốt đẹp này cũng sẽ khiến bản thân mình càng thêm xinh đẹp hơn.
3. Nhẫn nhịn nhiều hơn, tức giận ít đi
Người mà có khả năng nhẫn nhịn, ít khi tức giận thì sắc mặt sẽ đẹp hơn. Trong cuốn “Phật thuyết tội phúc báo ứng" kinh nói rằng: Người xấu xí là do thường xuyên tức giận, oán trách mà thành. Người đoan trang trắng trẻo, vẻ mặt rạng ngời, thân thể mềm mại, gặp người, người thích là kết quả của tu nhẫn mà nên.
4. Luôn biết cảm ơn
Người biết quý trọng và có lòng biết ơn với hết thảy, từ bông hoa cọng cỏ, từ con người, đồ vật... Thì tự nhiên trong lòng cũng phát sinh một loại cảm tình tốt. Nội tâm người đó lúc nào cũng tựa như nở ra một bông hoa thơm ngát hấp dẫn người khác. Người mà bên trong tràn đầy hương thơm như vậy thì bên ngoài cũng sẽ trở nên xinh đẹp rạng rỡ.
5. Sức mạnh của tâm niệm
Vẻ bề ngoài của một người là liên quan mật thiết với nội tâm bên trong của người đó. Tướng do tâm sinh, cho nên bên trong thiện lành thì bên ngoài sẽ xinh đẹp. Một nhà tâm lý học từng nói: “Tâm tình của một người là như thế nào thì cuộc sống của người đó sẽ là như thế, vận mệnh của người đó cũng sẽ lại giống như thế”. Vì vậy, nếu bạn mong muốn trở thành người xinh đẹp, thì trước hết hãy dùng tâm niệm tốt đẹp để đối đãi với thế gian. Khi đó bạn không những phát hiện ra mọi thứ đều trở nên xinh đẹp mà ngay cả tướng mạo của bản thân mình cũng ngày càng trở nên xinh đẹp.
6. Tiếp xúc nhiều hơn với người có tâm hồn đẹp
Người xưa nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” là có ý nói rằng, nếu như bạn tiếp xúc nhiều hơn với người tốt, người có tâm tính tốt đẹp thì bạn sẽ chịu ảnh hưởng từ họ, dần dần bạn cũng trở nên giống như họ. Người đẹp không phải chỉ nói đến là vẻ đẹp bề ngoài mà quan trọng hơn là vẻ đẹp của tâm hồn. Người có tâm hồn đẹp thì dung mạo cũng sẽ đẹp!
-Sưu tầm-
My Lan Phạm