Người Việt Nam từ xưa nay vẫn luôn tự hào nói rằng mình là “con Rồng cháu Tiên”. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết nguồn gốc của câu nói này cũng như nguồn cội cao quý của bản thân mình. Nhất là ngày nay, thời đại mà thuyết vô Thần tràn ngập, đầu độc tâm trí người ta, thì câu nói đó lại càng trở nên bị quên lãng. Trong bài viết có giới hạn sau đây, sẽ phần nào giúp chúng ta tìm lại nguồn cội của người con đất Việt.
Trong truyền thuyết lâu đời của Việt Nam được ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái của tác giả Trần Thế Pháp, một danh sỹ đời nhà Trần (1226-1400), những chi tiết mang tính “huyền thoại” được ghi lại một cách hết sức tự nhiên, giản dị, như là sự thực vốn có vậy.
Chúng ta cùng nhìn lại từ đâu có câu nói “Con Rồng cháu Tiên” mà người Việt Nam luôn thuộc lòng?
Nguồn gốc con Rồng cháu Tiên
Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái ghi chép, ông nội của Lạc Long Quân, tên là Đế Minh, là cháu 3 đời Viêm Đế (Thần Nông) sinh ra con cả Đế Nghi, rồi nam tuần đến núi Ngũ Lĩnh, gặp được nàng tiên nữ tên Vụ Tiên đem lòng thương yêu rồi cưới về, sinh ra được Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh. (Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại thành “gặp con gái bà Vụ Tiên”, bởi việc gặp được một nàng Tiên giáng trần và cưới một nàng Tiên là việc khó có thể ghi lại trong chính sử).
Đế Minh kinh ngạc trước sự đoan chính, thông minh và tài trí của Lộc Tục, muốn Lộc Tục nối ngôi vua, nhưng Lộc Tục lại nhường cho anh. Đế Minh lập Đế Nghi cai trị phương Bắc (một phần Trung Quốc hiện giờ), phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị Phương Nam (đất Việt hiện nay), đặt quốc hiệu là Xích Quỷ.
Kinh Dương Vương xuống Thủy Phủ, cưới con gái vua Động Đình, tên là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức Lạc Long Quân. Chi tiết xuống Thủy Phủ này cũng bị lược bớt trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bởi vì việc hiển nhiên tồn tại Thủy Phủ cũng là điều khó chấp nhận được trong nhận thức con người đời sau, nên trong Đại Việt Sử Ký toàn thư chỉ còn ghi chép: “Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân”.
Trong nhận thức và sự quan sát vạn vật của người thời xưa, Thủy Phủ (hay còn gọi là Thoải Phủ), song hành cùng Thiên Phủ và Địa Phủ, là các cõi không gian tồn tại đồng thời với không gian con người.
Việc ông ngoại của Lạc Long Quân vốn là một vị Long Vương cai quản hồ Động Đình, hay bà nội là một nàng tiên giáng trần, cũng là điều khó lý giải được trong nhận thức con người về sau và khó ghi vào chính sử. Song những sự tích ghi chép lại trong dân gian về việc gặp Tiên hay Rồng cũng rất nhiều (ví dụ như Từ Thức gặp Tiên, Lưu Nguyễn lạc vào cõi tiên v.v…)
Nguồn gốc “Tiên”, “Rồng” của người dân Việt cũng chính bắt nguồn từ đây.
Hồ Động Đình (hồ lớn nằm ở đông bắc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc hiện nay), là một hồ lớn nhất thời bấy giờ ở Trung Quốc và đất Việt nước ta, sau khi được Lạc Long Quân đổi tên thành nước Văn Lang, có biên giới phía bắc giáp hồ Động Đình.
Tại Việt Nam trên đất An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày nay, cũng có một ngôi đền thờ “Vua Cha Bát Hải Động Đình”, xưa là Hoa Đào Trang Chính Sơn Nam thời cổ sau gọi là Trang Đào Động. Đây chính là ngôi đền đã tồn tại gần 4.000 năm (từ thời Vua Hùng) trên đất Thái Bình. Có lẽ người đời sau cũng không còn rõ Vua Cha Bát Hải Động Đình mà các vị vua Hùng thờ phụng thực sự là ai.
Lạc Long Quân và Âu Cơ dựng lập đất Việt
Theo ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái, Lạc Long Quân thay cha trị nước. Lạc Long Quân dạy dân cách ăn mặc, bắt đầu có trật tự về Quân Thần, tôn ty, có luân thường về phụ tử (cha con), phu phụ (chồng vợ). Lạc Long Quân vẫn đi về Thủy Phủ, nhưng trăm họ vẫn yên ổn.
Dân lúc nào có việc cần thì kêu Lạc Long Quân: “Bố đi đằng nào, không đến cứu chúng ta”, thì Lạc Long Quân lập tức xuất hiện ngay, uy linh cảm ứng không ai có thể trấn lượng được. Những thần thông và năng lực phi phàm của Lạc Long Quân được mô tả rất giản dị, tự nhiên trong ghi chép của Lĩnh Nam Chích Quái.
Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc, một ngày sực nhớ đến việc ông nội là Đế Minh nam tuần gặp được tiên nữ, Đế Lai cùng con gái là Âu Cơ và bộ chúng thị thiếp nam tuần qua Xích Quỷ, thấy Lạc Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước không có vua, bèn cùng mọi người lưu lại nơi này. Đế Lai chu du khắp thiên hạ, thấy biết bao kỳ hoa, dị thảo, trân cầm, dị thú, tê tượng đồi mồi, kim ngân, châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương, trầm đàn, các loại sơn hào hải vị, không thứ nào không có. Khí hậu bốn mùa lại dễ chịu, Đế Lai lưu lại quên cả ngày về.
Nhân dân nước Nam não khổ vì sự phiền nhiễu, không được yên ổn như xưa, đêm ngày mong đợi Lạc Long Quân về, nên mới cùng nhau kêu: “Bố ở phương nào, nên mau về cứu con dân”.
Lạc Long Quân nghe thấy tiếng kêu liền lập tức xuất hiện. Trông thấy nàng Âu Cơ dung mạo đẹp lạ lùng, mới hóa thành 1 chàng trai phong tú mỹ lệ, tiếng đàn ca vang tới. Âu Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo, Lạc Long Quân bèn rước nàng về núi Long Trang.
Đế Lai sau khi tìm không thấy Âu Cơ bèn sai quân thần đi tìm khắp thiên hạ. Lạc Long Quân có thần thuật, biến hiện trăm cách, nào là yêu tinh quỷ mị, nào là long xà hổ tượng (rồng rắn hổ voi), quần thần được sai đi tìm không cách nào tìm được. Đế Lai đành trở về.
Bọc trăm trứng và cuộc phân ly
Âu Cơ ở với Lạc Long Quân giáp một năm, sinh ra một bọc trứng, cho là điềm không hay nên đem bỏ ra ngoài, hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai, bèn đem về nuôi nấng, không cho ăn không cho bú mà tự nhiên lớn trường đại, trí dũng song toàn, ai cung ngưỡng mộ, gọi là những anh em phi thường. (Trong Đại Việt Sử Ký toàn thư, chi tiết này chỉ được ghi thành “Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là tổ của Bách Việt”. Những ghi chép về thần thông biến hóa cũng như việc Lạc Long Quân đi về giữa mặt đất và Thủy Phủ cũng được loại bớt khỏi Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.)
Lạc Long Quân ở dưới thủy phủ, mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc Quốc, liền đi lên biên giới. Vua đất Bắc lúc bấy giờ tên Hoàng Đế, nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan ải, mẹ con không về được, đêm ngày gọi Lạc Long Quân: “Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ!”
Lạc Long Quân đột nhiên lại xuất hiện, gặp mẹ con ở Tương Dã, Âu Cơ nói:
“Thiếp vốn người đất Bắc, cùng ở một nơi với Quân, sinh ra được một trăm con trai mà không có gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng không vợ, một mình vò võ…”
Lạc Long Quân nói:
“Ta là loài rồng, sinh trưởng ở Thủy tộc, nàng là giống Tiên, người ở trên Đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp lại mà có con, nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi con trai về thủy phủ phân trị các xứ, năm mươi con trai theo nàng ở trên Đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau”.
Phân chia bờ cõi và dựng lập đất nước
Trăm trai đều theo mệnh, rồi mới từ giã ra đi. Âu Cơ cùng năm mươi người con ở lại Phong Châu (bây giờ là huyện Bạch Hạc), tự suy tôn người Hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang. Về bờ cõi của nước thì đông giáp Nam Hải (Biển Đông), Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình Hồ, Nam đến Hồ Tôn Tinh (nước Chiêm Thành), chia trong nước ra làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Trường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quân, sai các em phân trị, đặt em thứ làm tướng võ, tướng văn. Tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng Võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương.
Dân khi ấy ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối. Đất nương khi ấy trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm, gác cây làm nhà để tránh hổ và lang sói, cắt ngắn đầu tóc để tiện vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm, nhà có người chết thì giã gạo để hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp, trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, vì thời đó chưa có sự tích trầu cau.
*****
Với những ghi chép và câu chuyện lưu truyền trong dân gian, có thể khẳng định rằng, “Con Rồng cháu Tiên” không chỉ là một câu nói hình tượng. Đây là câu nói khiến mỗi người dân đất Việt chúng ta tự hào về nguồn cội cao quý của bản thân mình.
Xin được kết thúc bài viết bằng lời ghi chép của của Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư:
“Khi trời đất mới mở mang, có thứ do khí hóa ra, đó là dòng dõi Bàn Cổ. Có khí hóa ra rồi sau có hình hóa, không thứ gì ngoài hai khí âm dương cả. Kinh Dịch nói: ‘Trời đất nung ủ, vạn vật thuần hóa, đực cái hợp tinh, vạn vật hóa sinh’. Cho nên có vợ chồng rồi sau mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua tôi. Nhưng thánh hiền sinh ra, tất có khác thường, đó là do mệnh trời.
Nuốt trứng chim huyền điểu mà sinh ra nhà Thương, giẫm vết chân người khổng lồ mà dấy nhà Chu, đều là ghi sự thực như thế. Con cháu dòng dõi Thần Nông là Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên mà sinh Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai mà có phúc lành sinh trăm con trai. Đó chẳng phải là cái gốc đã gây nên cơ nghiệp của nước Việt ta hay sao?”.
* Bài viết có tham khảo và trích đoạn từ nguồn Lĩnh Nam chích quáivà Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.
Trên trời một vì sao, dưới đất một con người…
Cổ nhân từng dạy rằng: “Nhân chi sơ, tính bổn thiện”, con người sinh ra ai cũng đều lương thiện, đều giống như những vì sao lấp lánh trên bầu trời, chỉ là tâm hồn chúng ta đang bị nhuốm bụi bẩn nên đã quên mất đi bản tính của mình…
Mỗi ngày tôi đều phải đậy máy tính lại, phải không ngừng lau chùi thì nó mới có thể trở nên sạch sẽ. Mặc dù như vậy, có đôi khi bạn bè thấy máy tính của tôi, còn kêu lên: “Ôi trời! Nhiều bụi như vậy, sao còn chưa lau chùi nó đi?”.
Bởi có được trải nghiệm như vậy với bụi, tôi nghĩ đến thế giới tâm hồn của chúng ta, phải chăng nó cũng giống chiếc máy tính kia không ngừng bị bám đầy bụi? Nếu quả thật như vậy, chúng ta cũng cần phải không ngừng lau chùi nó?
Tôi nghĩ rằng điều đó là cần thiết, bụi bám vào vật dụng cũng cần được lau chùi, như vậy tâm hồn bị bám vào thứ xấu cũng cần được chùi lau không ngừng. Sau khi được lau đi bụi bẩn, máy tính sẽ sáng bóng như lúc ban đầu; mà khi tâm hồn của chúng ta được “lau sạch”, tâm của chúng ta sẽ tỏa sáng rạng ngời như những vì sao trên trời cao.
Khi tôi còn bé, mẹ nói với tôi rằng: “Trên trời một ngôi sao, dưới đất một con người”. Lúc đó, chúng tôi nhìn lên bầu trời, nằm trong lòng mẹ, bao nhiêu là ông sao sáng, thật nhiều, không đếm được rốt cuộc là có bao nhiêu ông sao, thật là hằng hà vô số.
Mẹ hiền lành vuốt đầu tôi và mỉm cười nói: “Con ngoan, trên bầu trời nhiều ông sao như vậy, sao con có thể đếm được, nhưng ông bà ngày xưa có nói, bầu trời một ngôi sao, trần gian một con người, con tìm xem ông sao nào là con?”.
Tôi bắt đầu nghiêm túc tìm, tìm mãi vẫn không biết ông sao nào là bản thân tôi nên nhờ mẹ tìm giúp. Mẹ và tôi cùng ngước đầu cẩn thận tìm kiếm, một lát sau mẹ nói với tôi: “Con ngoan, con xem, vì sao sáng nhất kia chính là con đó!”. “A! Con sáng như vậy sao?”, nghe được lời mẹ nói, tôi vui mừng tay chân cứ vung loạn cả lên.
Thế nhưng sau khi lớn lên, những ký ức đẹp đẽ đó dần dần bị quên lãng, những vì sao thời thơ ấu đó cũng dần dần xa xôi. Ngày trước, mặc dù từng có chút suy nghĩ thoáng qua, nhưng nghĩ thế nào cũng không thông, con người làm sao có thể giống những vì sao cơ chứ?
Sau khi trưởng thành, tôi ngước nhìn lên bầu trời xanh và suy tư về những năm tháng trôi qua của cuộc đời. Con người, những ngôi sao và vũ trụ, thật giống nhau biết bao. Mỗi một vì sao trên bầu trời đại biểu cho một người sống trên đất, mỗi người trên mặt đất đối ứng với một vì sao trên bầu trời. Đời người chẳng phải tương tự như những vì sao trên trời hay sao? Đều có quỹ đạo của mình, đều có được hào quang của chính mình.
Một lần, tôi nghĩ về hào quang của những ngôi sao trong ký ức, ngẫm nghĩ một chút bỗng chốc tôi đã sáng tỏ thông suốt, kỳ thực đó là chỗ giống nhau giữa vì sao và con người. Đặc điểm của các vì sao là mọi thời khắc đều tỏa ra hào quang, còn con người chúng ta khác với những chúng vì chúng ta lúc sáng ngời lúc đen tối, một thoáng tâm tình sáng lạn, một hồi mưa dầm u sầu.
Những điều tiêu cực tựa như bụi bẩn che lấp con người chúng ta, tích tụ từng ngày khiến chúng ta ảm đạm vô quang, mà chúng ta đối với điều đó lại vô tư không phát hiện, thời gian dần qua chúng ta ngày càng đen tối.
Có lẽ trước kia chúng ta cũng giống những vì sao sáng trên bầu trời kia, chỉ là qua năm tháng vô tình bị bám đầy bụi bẩn. Thật ra những bụi bẩn kia không đáng sợ, chỉ cần nhẹ nhàng phủi đi là tốt rồi, điều đáng sợ chính là tâm hồn bị bám đầy bụi bẩn nhưng chúng ta không phát hiện ra mà lại nghĩ rằng bản thân đang rất sáng, hoặc đã quen sống trong bụi bẩn nên không nhận ra được bản thân có điều gì khác thường, cũng có thể đã nhận ra nhưng lại không biết làm sao để lau sạch.
Đúng vậy, đối với tâm hồn đầy bụi bẩn, làm thế nào để chúng ta có thể lau sạch chúng? Tôi nghĩ nếu muốn lau bụi bẩn trong tâm mình, đầu tiên chúng ta cần phải tìm thấy bụi bẩn trong tâm hồn mình. Nếu muốn phát hiện được bụi bẩn bám vào trong tâm thì cần phải có một đôi mắt không ngừng tự kiểm điểm tâm hồn của mình. Chúng ta có hai con mắt, rất dễ dàng nhìn thấy bụi bẩn của người khác, nhưng còn bản thân chúng ta thì sao? Dường như chúng ta rất khó nhìn thấy bụi bẩn trong tâm mình.
Bởi vì không muốn nhìn, hoặc nhìn không tới nên những bụi bẩn kia càng để lâu càng dày, dày đến độ che chắn hết hào quang của chúng ta. Như vậy, đối với chúng ta mà nói, đó là một việc rất đáng sợ. Bản tính của chúng ta vốn hồn nhiên trong sáng nhưng bởi bụi bẩn của dòng đời khiến nó bị vùi lấp, và giờ những quan niệm của cuộc sống lại làm chủ tư tưởng của chúng ta. Nếu không ngừng lau sạch, chúng ta sẽ bị những bụi bẩn đó phủ kín tâm hồn. Càng lâu về sau, con người lấp lánh hào quang của chúng ta sẽ càng dơ bẩn và vẩn đục.
Hôm nay, khi tôi đang cùng một người bạn nói về những mâu thuẫn và phiền não trong cuốc sống, tôi nói với cô ấy: “Lúc chúng ta phiền não, tức giận, chính là lúc những hạt bụi tiêu cực sẽ bám vào tâm hồn chúng ta, cũng là lúc hào quang của chúng ta ảm đạm đi một phần”.
Trong Tam Tự Kinh có ghi: “Nhân chi sơ, tính bổn thiện”. Thật ra bản tính của chúng ta vốn lương thiện, nó vốn sáng lấp lánh như những vì sao. Nhưng tại sao chúng ta không thể tỏa sáng như mặt trời, mặt trăng hay các vì sao? Bởi vì tâm hồn của chúng ta đã bị bụi phủ đầy.
Khi chúng ta không ngừng thức tỉnh bản thân, luôn luôn thanh tỉnh sửa đổi bản thân, không ngừng phủi đi bụi mờ trong tâm thì lúc đó chúng ta sẽ lại tỏa sáng rạng ngời như những vì sao trên trời cao.
Theo Vietdaikynguyen
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét