a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT MÙA GIÁNG SINH VÀ NĂM MỚI 2025 AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM MỚI 2025 VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Chủ Nhật, 20 tháng 12, 2015

3 huyền thoại phổ biến về những thành phố hiện đại ngày nay


Những toà nhà chọc trời tại thành phố New York (Joshua Jackson/Unsplash.com/Public Domain)
Đô thị hóa thường được chào mời như một giải pháp cho những căn bệnh khác nhau của thế giới. Nó được ca ngợi là phương tiện giải quyết các vấn đề như nghèo đói, di cư hàng loạt, và biến đổi khí hậu. Chúng ta được bảo rằng, các thành phố sẽ làm cho xã hội của chúng ta lành mạnh và hiệu quả hơn, các thành phố sẽ mang lại hạnh phúc cho chúng ta, các thành phố là tương lai tất yếu – hoặc thế này thế khác.
Trong khi các thành phố có thể đem đến sự cải thiện rất lớn trong cách sống của chúng ta, và có rất nhiều ý tưởng quan trọng trong số những ý tưởng nêu trên, nhưng có một số điều đã được cường điệu quá mức. Những lời tuyên bố như: đang có một “sự thay đổi toàn cầu” theo hướng thành thị hoá, hay nền kinh tế thành thị mang đến cho mọi người vô số những lợi ích về năng suất, hay các đô thị sẽ không ngừng tăng trưởng và phát triển thịnh vượng, tất cả đều sai lầm. Bằng cách mổ xẻ một số những huyền thoại này, chúng ta có thể hiểu và đương đầu với những ưu và khuyết điểm thực sự của các thành phố, và vai trò của chúng đối với tương lai của chúng ta.

  1. Chúng ta đang bước vào thời đại đô thị

Năm 2008, Liên Hợp Quốc đã thông báo rằng, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, 50% dân số thế giới sống ở các thành thị. Kể từ đó, con số này không ngừng được trích dẫn như là bằng chứng cho một sự thay đổi toàn cầu theo hướng đô thị hóa – bình minh của một “thời đại đô thị”. Nhưng những tuyên bố này làm ngơ trước nhiều xu hướng đa dạng và khác nhau giữa các vùng miền khác nhau trên thế giới.
Nhiều người vẫn đang sống cuộc sống thôn quê. (Steve Slater / Flickr, CC BY)
Nhiều người vẫn đang sống cuộc sống thôn quê. (Steve Slater / Flickr, CC BY)
Hơn 40% các nước trên thế giới vẫn còn nhiều vùng nông thôn hơn thành thị, và 18% các nước có số lượng dân thành thị ít hơn, so với năm 2000. Trong cả hai khu vực các nước đang phát triển và các nước phát triển trên thế giới, các thành phố đã phát triển lớn hơn về quy mô, nhưng mật độ cũng trở nên ít đông đúc hơn. Thực tế này cho thấy, ở những nơi phát triển đô thị đang diễn ra, các thành phố không chỉ mở rộng – chúng còn biến đổi.

  1. Các thành phố có năng suất lớn hơn

Cũng có một điều khác được nhiều người mặc nhiên cho là đúng, đó là sự công nhận rằng nền kinh tế của thành phố có hiệu quả cao hơn và mang lại cho chúng ta cuộc sống tốt hơn về mặt kinh tế. Rõ ràng là các trung tâm đô thị có hiệu suất cao hơn về tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người (GDP) như trường hợp của thành phố London, sự chênh lệch này vào khoảng 15%, so với mức trung bình của toàn Vương quốc Anh.
Vấn đề là, chúng ta đang so sánh không trên cùng một đơn vị. Các doanh nghiệp ở đô thị không chỉ tốt hơn và hiệu suất cao hơn so với các phiên bản ở nông thôn. Trên thực tế, mô hình cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ đặc biệt, có giá trị cao chỉ khả thi ở những nơi có đông dân số. Vì vậy, nền kinh tế đô thị có một cấu trúc khác cơ bản so với nông thôn. Ra ngoài thành phố, nhiều doanh nghiệp thành thị sẽ không chỉ đơn giản là kém năng suất hơn mà họ sẽ bị loại ra khỏi hoạt động kinh doanh.
Ví dụ, các luật sư thuế doanh nghiệp cần một số lượng lớn các doanh nghiệp địa phương để tạo ra đủ việc làm trong lĩnh vực cụ thể của họ. Các cơ sở kinh doanh những mặt hàng cho giới nhà giàu – tôi dám nói rằng các quán cà phê ngũ cốc – chỉ tồn tại trong những thị trường lớn với một số lượng lớn các khách hàng tiềm năng.
Và không phải tất cả các lĩnh vực đều được hưởng lợi như nhau từ sự đô thị hoá. Các lĩnh vực giáo dục, dịch vụ cấp cứu, và bán lẻ không thể chuyên nghiệp theo cách mà các lĩnh vực kinh doanh chất xám có thể làm. Kết quả là, người lao động trong những lĩnh vực quan trọng này không thấy thêm được nhiều giá trị được cho là đi kèm với nền kinh tế đô thị.

  1. Các thành phố lớn đã tồn tại từ lâu và đã trở thành điều quen thuộc

Lịch sử cho thấy rằng các thành phố không phải là những hệ thống ổn định. Các thành phố có nhiều khả năng phải trải qua một chu kỳ “bùng nổ và phá sản” hơn là sự ổn định lâu dài, khi họ phải đấu tranh để thích ứng với những tác động của suy thoái kinh tế và xung đột. Một ví dụ nổi bật đến từ Bắc Mỹ: trong 10 thành phố lớn nhất nước Mỹ vào năm 1950, thì 8 thành phố đã mất ít nhất 20% dân số của họ vào năm 2010, sau khi họ đã thất bại trong việc thích nghi với những thay đổi về kinh tế và chính trị.
Ngay cả những thành phố được xem là thành công cũng thường xuyên gặp phải các vấn đề. Một vài thành phố “dễ sống” nhất trên thế giới như Sydney, Vancouver, và Auckland – đang phải vật lộn với thị trường bất động sản quá nóng, khi bất động sản đô thị trở thành nguồn đầu tư tài chính hấp dẫn.
Cảnh đường phố của London, Anh. (David Marcus / Unsplash.com / Public Domain)
Cảnh đường phố tại London, Anh quốc. (David Marcus / Unsplash.com / Public Domain)
Một trong những thách thức khó  khăn nhất mà các chính phủ và người dân thành phố phải đối mặt ngày nay là khả năng phục hồi đối với sự sụt giảm kinh tế, thay đổi chính trị, và các công nghệ mới. An ninh, thịnh vượng chỉ có thể được đảm bảo nếu có sự đầu tư và lập kế hoạch một cách thận trọng, cùng với cộng đồng vững chắc và nền kinh tế mạnh mẽ.
Dẹp đi những huyền thoại xung quanh đô thị hóa là rất cần thiết nếu chúng ta muốn tìm hiểu những yếu tố nhiều sắc thái hơn đang định hướng sự phát triển của đô thị và muốn định hình tương lai của các thành phố của chúng ta tốt hơn. Hãy kinh doanh với sự nhiệt tình tâm huyết với một tầm nhìn rõ ràng hơn về sự thay đổi của thế giới của chúng ta và về những gì mà các chính phủ và công dân có thể làm để tạo nên một tương lai đô thị phù hợp với tất cả chúng ta.
Jenny McCarthy là nghiên cứu sinh tiến sĩ về đầu tư hạ tầng và kinh tế đô thị của Đại học tổng hợp London tại Anh. Bài viết này đã được đăng trên TheConversation.com.


Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng


Dinh thự Chateau Louis XIV tọa lạc thủ đô Paris nước Pháp đã lập kỷ lục trở thành dinh thự đắt giá nhất hành tinh với mức giá lên tới 275 triệu USD.

Tòa lâu đài sang trọng mang tên Chateau Louis XIV đã vinh dự nhận danh hiệu căn nhà đắt đỏ nhất thế giới với tổng giá trị lên tới con số 275 triệu euro (khoảng 6,7 nghìn tỷ VND). Được xây dựng trên khu đất giáp ranh với Cung điện Versailles và vùng Marly-le-Roi, khu dinh thự diện tích 23 hecsta này mất tới 3 năm để hoàn thành. Chủ nhân căn nhà đắt giá nhất hành tinh là một đại gia giấu tên đến từ vùng Trung Đông.
Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng - Ảnh 1.
 Chateau Louis XIV - lâu đài đắt giá thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng.
Một trong những lý do khiến dinh thự này có giá đắt đỏ như vậy là vì nội thất hết sức đặc biệt bên trong. Dinh thự sang trọng sở hữu thuỷ cung trong nhà, rạp chiếu phim, phòng khiêu vũ, hộp đêm dưới lòng đất, thư viện và một hầm rượu chứa tới 3000 chai rượu đắt đỏ. Có lẽ tốn kém hơn cả chính là một đài phun nước xa hoa được dát vàng lấp lánh.
Với những hàng hoa xinh đẹp dài bất tận, đài phun nước được phủ vàng cùng những bức tượng làm bằng đá cẩm thạch, lối đi cho ngựa, và một mê cung đầy bí ẩn, khuôn viên căn biệt thự có thể so sánh ngang hàng với khu vườn của Nhà vua Pháp Louis XIV thời xưa.
Vào đầu thế kỷ 18, nhà vua Louis XIV đã quyết định xây dựng một cung điện ở Marly-le-Roi - nơi mà ông có thể rút lui về khi cần. Tuy vậy vào năm 1888, chủ sở hữu của tòa lâu đài lúc đó là Charles-Emile Clerc đã phá hủy nó. Vào năm 2008, Emad Khashoggi đã quyết định thực hiện một dự án chưa từng có khi phục hồi di sản mà vua Louis XIV từng xây dựng nên với cảm hứng kiến trúc thừ thế kỷ 17.Tuy hoàn thành vào năm 2011 nhưng ngôi nhà đã phải để không suốt 3 năm để chờ được chủ nhân đại gia sẵn sàng bỏ ra khoản tiền khổng lồ.
Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng - Ảnh 2.
 Hầm rượu khổng lồ với sức chứa 3000 chai.
Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng - Ảnh 3.
 Phần sảnh chính bên trong lâu đài.
Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng - Ảnh 4.
Một công ty Ả Rập là chủ thầu của công trình đã thi công ngôi nhà trong vòng 3 năm.
Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng - Ảnh 5.
 Thủy cung mini ngay giữa lòng cung điện.
Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng - Ảnh 6.
Để đảm bảo an toàn, chủ đầu tư lắp đặt hệ thống an ninh điều khiển bằng iPad và chủ nhân có thể theo dõi ngôi nhà khi đi vắng.
Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng - Ảnh 7.
 Một góc nhìn khác về khu vườn trong dinh thự này.
Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng - Ảnh 8.
Đài phun nước là phiên bản với kích thước bằng 3/4 đài phun nước ở lâu đài nổi tiếng Versailles.
Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng - Ảnh 9.
 Nội thất nguy nga và ấn tượng bậc nhất thế giới.
Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng - Ảnh 10.
Để hoàn thiện căn nhà cần tới 15.000 lá vàng và 13 loại đá cẩm thạch khác nhau.
Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng - Ảnh 11.
 Các chi tiết chạm trổ trên cửa và cầu thang cũng đủ để nói lên sự hoành tráng của lâu đài này.
Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng - Ảnh 12.
 Sàn nhà phản chiếu đẹp lộng lẫy không thua gì bể bơi thực sự.
Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng - Ảnh 13.
Rạp phim tại gia hiện đại có thể tiếp đón được 15 người.
Siêu lâu đài đắt đỏ nhất thế giới trị giá 6,7 nghìn tỷ đồng - Ảnh 14.
 Gian bếp bên trong lâu đài Chateau Louis XIV.
(Nguồn: Telegraph)

Nhiều truyền thuyết ở châu Mỹ kể về chủng người da trắng khổng lồ cổ xưa


Một vài bộ lạc châu Mỹ bản địa đã lưu truyền các truyền thuyết về một chủng người khổng lồ da trắng nay đã bị tuyệt chủng. Chúng ta sẽ điểm qua một số ít những truyền thuyết như vậy, từ những truyền thuyết của người Choctaw và người Comanches ở nước Mỹ tới truyền thuyết của người Manta ở Peru.

Truyền thuyết của người Choctaw

Trong cuốn sách “Lịch sử của người Choctaw, Chickasaw và Natchez Indians” được xuất bản năm 1899, tác giả Horatio Bardwell Cushman đã viết: “Truyền thuyết của người Choctaw kể rằng có một chủng người khổng lồ từng sinh sống ở địa điểm mà ngày nay là bang Tennessee (Mỹ), và tổ tiên của người Choctaw đã chiến đấu với chủng người này khi họ đến Mississipi trong một cuộc di cư từ phía Tây… Truyền thuyết của họ nói người Nahullo (chủng người khổng lồ) có một vóc người phi thường.

Truyền thuyết của người Choctaw kể rằng có một chủng người khổng lồ từng sinh sống ở địa điểm mà ngày nay là bang Tennessee (Mỹ).

— Horatio Bardwell Cushman

A Choctaw stick-ball player, depicted by George Catlin in 1834. (Public Domain)
Một người Choctaw đang cầm dụng cụ chơi trò stick-ball, bức vẽ của George Catlin năm 1834 (Nguồn: Public Domain)
Tác giả Cushman nói rằng từ “Nahullo” là tên gọi được sử dụng để miêu tả tất cả những người da trắng, nhưng ban đầu nó nhắm cụ thể tới một chủng người da trắng khổng lồ mà người Choctaw từng tiếp xúc khi họ lần đầu băng qua sông Mississipi. Người Nahullo được cho là những người ăn thịt đồng loại mà người Choctaw luôn tìm cách tiêu diệt bất cứ khi nào có cơ hội.

Truyền thuyết của người Comanches

Phù thủy tù trưởng của người Comanches, một bộ lạc đến từ khu vực Great Plains (Mỹ), vào năm 1857 đã kể về một chủng người không lồ da trắng cổ xưa như sau: “Hằng vô số chù kỳ mặt trăng về trước, một chủng người đàn ông da trắng, cao 3 mét, giàu có và hùng mạnh hơn rất nhiều bất kỳ giống người da trắng nào ngày nay, đã sống ở đây trên một vùng rộng lớn của đất nước, trải dài từ nơi mặt trời mọc tới nơi mặt trời lặn. Các công trình phòng thủ của họ được đặt ở đỉnh của những quả núi, chúng bảo vệ các thành phố đông dân cư của họ ở các thung lũng ở giữa các núi đó.
Hằng vô số chù kỳ mặt trăng về trước, một chủng người đàn ông da trắng, cao 3 mét, giàu có và hùng mạnh hơn rất nhiều bất kỳ giống người da trắng nào ngày nay, đã sống ở đây trên một vùng rộng lớn của đất nước.

— Phù thủy tù trưởng của người Comanches

“Họ vượt trội hơn mọi quốc gia thịnh vượng khác trong quá khứ và sau này, trong tất cả các nghề thủ công đòi hỏi kĩ năng. Họ gan dạ và thiện chiến. Họ cai quản vùng đất mà họ đã giành được từ những chủ nhân cổ xưa của vùng đất đó bằng sự kiêu căng và ngạo mạn. So với họ, những người da trắng ngày nay kém cỏi hơn cả về nghệ thuật và quân sự…
Vị tù trưởng giải thích rằng khi chủng người này lãng quên sự công bằng và lòng nhân ái, họ đã trở nên quá kiêu ngạo, Đấng Tối Cao đã loại bỏ họ và những gì còn lại trong xã hội của họ là những mô đất vẫn có thể nhìn thấy trên các cao nguyên. Câu chuyện của vị tù trưởng được cung cấp trên blog của Tiến sĩ Donald “Panther” Yates, một nhà nghiên cứu và tác giả của nhiều cuốn sách về lịch sử người Mỹ bản địa.

Truyền thuyết của người Navajo

Ngoài ra, tiến sĩ Yates cũng viết về truyền thuyết của người Navajo, họ miêu tả một giống người tên là Starnake như sau: “Một chủng người khổng lồ da trắng, được phú cho công nghệ khai mỏ, đã thống trị khu vực miền Tây, họ bắt các bộ lạc nhỏ bé hơn làm nô lệ, và xây đồn lũy trên khắp châu Mỹ. Họ hoặc là đã bị tiêu diệt hoặc là đã “trở về thiên đường”.

Truyền thuyết của người Manta

Vào năm 1864, trong cuốn “Biên niên sử của Peru”, tác giả Pedro de Cieza de León, dựa theo truyện kể của những người Manta bản địa, đã viết về những người khổng lồ truyền thuyết như sau: “Tuy nhiên có những câu chuyện nói về người khổng lồ ở Peru, họ sống trên bờ biển ở mỏm Santa Elena. …Những câu chuyện mà người bản xứ kể lại sau đây được tổ tiên của họ truyền lại từ những niên đại rất xa xưa.”

Từ đầu gối họ trở xuống cũng cao bằng toàn bộ chiều cao của một người đàn ông bình thường

— Pedro de Cieza de León, một người Tây Ban Nha đi xâm chiếm Trung và Nam Mỹ

“Những người khổng lồ đến bờ biển trên những con thuyền làm bằng sậy, to như những loại tàu lớn, một nhóm đàn ông có vóc người lớn đến nỗi từ đầu gối họ trở xuống cũng cao bằng toàn bộ chiều cao của một người đàn ông bình thường, kể cả là người bình thường đó khá cao. Các chi của họ có kích cỡ tỷ lệ với kích thước thân thể khổng lồ của họ, và đầu của họ trông thật kỳ quái, với mái tóc dài tới vai và mắt của họ to như một đĩa thức ăn nhỏ”.
León nói rằng tập quán quan hệ nam nữ của những người khổng lồ khiến người bản địa thấy ghê tởm và Thượng Đế cuối cùng đã loại bỏ những người khổng lồ này vì tập quán đó.

Truyền thuyết của người Paiutes

Người Paiutes được cho là có một câu chuyện khẩu truyền về những người ăn thịt đồng loại, da trắng, tóc đỏ, cao khoảng 3 mét, từng sống tại nơi ngày nay được biết đến như là động Lovelock ở Nevada hoặc gần đó. Không rõ liệu câu chuyện “khẩu truyền” về những người khổng lồ được gọi là Sitecah này có tồn tại không, hay nó chỉ là sự phóng đại hoặc xuyên tạc từ truyền thuyết của họ sau khi người Paiutes bị tiêu diệt phần lớn hoặc bị giải tán bởi cuộc viễn chinh của nhà thám hiểm Joseph Walker vào năm 1833.
Một bài viết của Brian Dunning trên trang skeptoid.com đã khảo sát các truyền thuyết của người Paiutes và không thấy đề cập tới việc người Sitecah là những người khổng lồ. Tuy nhiên, có vẻ như có một tộc người có tục ăn thịt người, từng sống ở động Lovelock. Nhiều hài cốt người được tìm thấy trong động và một ít xương người đã bị lấy mất tủy, điều này gợi ý rằng phần tủy đã bị ăn mất. Tuy nhiên, tục ăn thịt người có vẻ như là một thói quen hiếm thấy trong số những người này.
Những bộ hài cốt đúng là có tóc màu đỏ, nhưng có thể tóc màu đen đã chuyển thành màu đỏ qua thời gian.
Lovelock Cave (Bureau of Land Management/Public Domain)
Động Lovelock (Nguồn ảnh: Public Domain)

The Humboldt River near Lovelock, Nevada, where the Sitecah people were said to live. (Famartin/CC BY-SA)
Sông Humboldt gần động Lovelock, bang Nevada (Mỹ), được cho là nơi người Sitecah đã từng sinh sống (Ảnh của Famartin/CC BY-SA)
Những công nhân mỏ đã khai quật được các đồ vật của con người vào năm 1912, họ xếp chúng thành đống rồi sau cùng liên hệ với trường University of California. Nhà nhân loại học Llewellyn L. Loud đã từ trường Univeristy of California đi tới vị trí khai quật để nghiên cứu. Có quan điểm chung cho rằng việc khai quật nơi này đã không được tiến hành tốt và chắc chắn đã không làm theo tiêu chuẩn hiện đại. Nhưng một số người đề xuất học thuyết về người Sitecah khổng lồ nói rằng các nhà nghiên cứu đã cố ý giấu giếm tất cả những hài cốt khổng lồ được tìm thấy ở đó.
Tác giả: Tara MacIsaac, Epoch Times | Dịch giả: X Toàn

Bạn có muốn thưởng thức yến tiệc của người Hittite cách đây 4.000 năm?

(Fae/CC BY-SA)
(Lesyy/iStock, Jamie Rogers1/iStock, Photokon/iStock, Fae/CC BY-SA)
Một nhóm khảo cổ đang khai quật một trung tâm cổ xưa của nền văn minh Hittite ở Thổ Nhĩ Kỳ đã dựng lại một bữa yến tiệc của người Hittite cách đây 4.000 năm bao gồm bánh mì ngọt, thịt hầm, tim cừu nướng và bơ làm từ mơ, sử dụng lại các kỹ thuật và phương pháp đã từng được sử dụng cách đây 4 thiên niên kỷ. Các kiến thức được sử dụng để tạo ra các bữa ăn được dựa trên thông tin có được từ việc nghiên cứu những tấm bảng cổ đã được tìm thấy tại Alacahöyük.
Alacahöyük là một trong những trung tâm quan trọng nhất của nền văn minh cổ đại Hittite và vẫn là một địa điểm khảo cổ quan trọng. Con người đã cư ngụ ở đây bắt đầu vào thời đại đồng đỏ (Chalcolithic Age), khoảng 7.000 năm trước đây, và liên tục cư ngụ kể từ đó. Cổng Sphinx (Sphinx Gate), cùng với sự phát hiện của đĩa mặt trời, tượng con bò, và 13 ngôi mộ của những vị vua Hittite, phản ánh tầm quan trọng của khu vực này.
Aykut Çınaroğlu, người đứng đầu cuộc khai quật tại Alacahöyük và là giáo sư khảo cổ học tại Đại học Ankara, báo cáo rằng nhóm của ông đã tiến hành nghiên cứu về chế độ ăn uống và phương pháp chế biến món ăn của người Hittites, có niên đại 4.000 năm.
The archaeological site of Alacahöyük (Bernard Gagnon/CC BY-SA)
Khu vực khảo cổ Alacahöyük. Ảnh: Bernard Gagnon/CC BY-SA
Chuẩn bị yến tiệc

Tờ báo The Daily Sabah cho biết công cụ sử dụng trong nhà bếp để chuẩn bị cho yến tiệc chỉ là một con dao, và lúa mạch đen được nghiền bằng một hòn đá để tạo ra bột. Nó được thực hiện ngay tại địa điểm khảo cổ, làm tăng thêm cảm giác đích thực của bữa ăn.
Bởi vì người Hittites đã từng ghi chép lại tất cả mọi thứ, bao gồm cả công thức nấu ăn, rất nhiều thông tin về các món ăn của họ đã được học bằng cách nghiên cứu những tấm bảng cổ xưa của họ. Trong số các ghi chép, các nhà nghiên cứu tìm thấy tài liệu tham khảo cho hơn 100 loại bánh ngọt.
“Những người định cư ở đây vào thời cổ đại đã viết rằng họ đã ăn thịt nguội, hành tây nấu chín, và bánh mì vào một ngày lễ hội. Họ không sử dụng nấm men trong khi làm bánh hoặc nấu chúng trong lò hấp. Nhóm nghiên cứu đã cố gắng để làm [bánh] … với lúa mì nghiền, không sử dụng bột rây”, bếp trưởng Ömür Akkor, một thành viên nhóm khai quật, nói với Daily Sabah.

 Những người đầu bếp người Hittite nào giữ gìn bếp mất vệ sinh có thể nhận án tử hình.

Bằng cách nghiên cứu những tấm bảng, nhóm nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng có những tiêu chuẩn vô cùng nghiêm ngặt đối với vệ sinh trong nhà bếp của người Hittite. Người đầu bếp nào để động vật đi lang thang vào nhà bếp, hoặc những ai có tóc hay râu dài mà không dùng các biện pháp để che chắn có thể bị trừng phạt với án tử hình. Gia đình của người đó cũng sẽ bị giết.

Trên thực đơn

Yến tiệc đã được chuẩn bị tại Alacahöyük bao gồm một bánh mì ngọt gọi là Nindaku, cũng như các loại bánh mì khác làm từ lúa mạch hay hương liệu với pho mát và quả sung. Trên thực đơn cũng có bơ làm từ mơ, danh sách các món thịt nguội, thịt hầm, dầu ô liu, mật ong, gan và tim cừu nướng, bánh mì sandwich dùng với thịt và hành tây, và beruwa (tên đặt cho thức ăn nghiền) với đậu xanh và dưa chuột.
Người Hittite là một dân tộc Tiểu Á cổ đại, họ đã thành lập một đế chế từ trung đến bắc Tiểu Á vào khoảng năm 1.600 trước Công nguyên. Đế chế này đạt đến đỉnh cao nhất của nó vào giữa thế kỷ thứ 14 trước Công nguyên khi nó bao trùm một khu vực bao gồm hầu hết vùng Tiểu Á cũng như các vùng của miền Bắc Levant và Upper Mesopotamia. Sau năm 1180 trước Công nguyên, đế quốc đã kết thúc, vỡ vụn thành nhiều bang độc lập “Neo-Hittite”, một số vẫn còn sống sót cho đến thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên.
Tác giả: April Holloway | Dịch giả: PTB

Mê cung 2000 năm tuổi ở Ấn Độ có hình dạng giống mê cung Hy Lạp từ năm 1200 trước Công nguyên

Left: A clay tablet from Pylos, Greece, inscribed with a labyrinth diagram, dating back to at least 1200 B.C. (Marsyas/CC BY-SA) Right: A world map with an arrow pointing roughly from Pylos, Greece, to southern India, where a labyrinth similar to the one on the Pylos tablet was found. (Javarman3/iStock)
Bên trái: Một phiến đất sét khai quật ở Pylos, Hy Lạp, khắc hình mê cung, có niên đại ít nhất từ năm 1200 trước Công nguyên (Marsyas / CC BY-SA) Bên trái: Bản đồ thế giới với mũi tên chỉ từ Pylos, Hy Lạp đến miền nam Ấn Độ, nơi các nhà khảo cổ tìm thấy một mê cung tương tự với mê cung khắc trên phiến đất tìm thấy ở Pylos. (Javarman3 / iStock)
Các nhà khảo cổ vừa mới phát hiện một mê cung ở Ấn Độ có niên đại từ 2.000 năm trước và có hình dạng tương tự như những ký hiệu mê cung tìm thấy trên một phiến đất sét ở Pylos, Hy Lạp, từ năm 1200 trước Công nguyên.
Mê cung hình vuông với kích thước 56 feet vuông (17 mét vuông), được phát hiện ở Gedimedu  – một ngôi làng ở Tamil Nadu, miền nam Ấn Độ. Nó được khai quật bởi các nhà nghiên cứu từ Trung tâm nghiên cứu khảo cổ và lịch sử Verarajendran, theo Thời báo Ấn Độ. Địa điểm này nằm trên một tuyến đường thương mại cổ xưa dọc theo bờ biển phía đông.
Những người dân địa phương đã xây dựng một ngôi đền phía trên mê cung này, nhưng các nhà khảo cổ có ý định yêu cầu họ di dời để có thể khai quật và nghiên cứu thêm.
Ravikumar, trưởng nhóm nghiên cứu, nói với Thời báo Ấn Độ: “Mê cung này chỉ có một đường đi duy nhất từ lối vào đến đích. Người ta phải đi theo một lộ trình chính xác mới đi được đến đích. Người ta tin rằng những người đi qua bảy lộ trình một cách chính xác sẽ hoàn thành ước nguyện của mình. ”
Ravikumar cho biết: “Chiều rộng lối đi bên trong mê cung này dao động từ 2,6 feet (79 cm) đến 3,6 feet (1,09 mét). Lối vào ở hướng đông. Tên trước đây của nó là Seven Round Fort. Hình dạng của nó giống như mê cung mà … chúng ta tìm thấy trên phiến đất sét từ Pylos ở Hy Lạp, một trong những mê cung lâu đời nhất khắc trên đất sét. ”

Phiến đất vẫn tồn tại sau một trận hỏa hoạn ở dinh Mycenaean ở Pylos khoảng năm 1200 trước Công nguyên. Đó là một trong những biểu tượng mê cung đầu tiên, khiến nó trở thành một hiện vật quan trọng mặc dù mới nhìn qua nó trông giống như là nét vẽ nguệch ngoạc của người viết với mục đích chính là ghi chép lại việc sinh đẻ của dê trên mặt trước của phiến đất.
Phiến đất này được tạo ra nhiều thế kỷ trước khi người Hy Lạp xâm lược Ấn Độ lần đầu tiên dưới thời Alexander Đại Đế. Biểu tượng mê cung lan truyền từ Hy Lạp đến Ai Cập và các vùng đất khác trong nhiều thế kỷ. Ví dụ, một hũ rượu Etruscan từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên từ Tragliatella, Ý, vẽ hình binh lính chạy ra từ một mê cung. Từ “Troy” được khắc trên hũ.
Phiến đất Pylos cũng có mối liên hệ với thành Troy. Nó được tìm thấy tại nhà truyền thống của vua Nestor, người có công trong cuộc bao vây và sụp đổ của thành Troy. Thành Troy sụp đổ vào khoảng năm 1250 trước Công nguyên.
Biểu tượng và ý nghĩa của mê cung trong thế giới cổ đại rất phức tạp và phong phú. Trong một số nền văn hóa châu Á, mê cung này có liên quan đến sự “thoát khỏi vòng luân hồi và luật nhân quả”, theo An Illustrated Encyclopedia of Traditional Symbols của JC Cooper. Samsara nói đến vòng tuần hoàn sinh, lão, bệnh, tử và sự luân hồi trong thế giới con người. Thoát khỏi luân hồi sinh tử có nghĩa là đạt đến giác ngộ và được lên thiên đường.
Mê cung cũng là biểu tượng của khu rừng bị phù phép, chu kỳ tuần hoàn của mặt trời, thiên đường trở lại, được công nhận sau khi vượt qua khảo nghiệm hoặc hoạn nạn, con đường từ người trần tục đến thánh thần và “hành trình cuộc sống vượt qua những thử thách và hư ảo của thế giới đến nơi giác ngộ hay thiên đường”, Cooper viết. “Đi sâu vào một mê cung tượng trưng cho cái chết, bước ra là sự tái sinh.”
Những thiết kế mê cung ở trong nhà thường với mục đích phù phép – để tung hỏa mù hoặc ngăn chặn sự xâm nhập của các linh hồn quỷ dữ hoặc các thế lực thù địch khác.
Tái bản với sự cho phép. Đọc bản gốc tại Ancient Origins. Phóng viên Thời báo Epoch Times có đóng góp vào báo cáo này. 

Tác giả: Mark Miller, Ancient-Origins.net | Dịch giả: Hannah

Mạng 4G nhanh cỡ nào so v​ới 3G?

Những lợi thế vượt trội và khả năng ứng dụng đa dạng của mạng tốc độ cao vào cuộc sống khiến 4G LTE đang trở thành đề tài nóng hổi ở Việt Nam.
Mạng 4G nhanh cỡ nào so v​ới 3G?
Nhiều mẫu smartphone ra mắt trong 2015 đã đón đầu xu hướng kết nối băng thông rộng tốc độ cao 4G, hỗ trợ chuẩn 4G LTE - Ảnh minh họa: Internet
Nhiều mẫu smartphone ra mắt trong 2015 đã đón đầu xu hướng kết nối băng thông rộng tốc độ cao 4G, hỗ trợ chuẩn 4G LTE - Ảnh minh họa: Internet
Nhịp Sống Số so sánh tốc độ tiêu chuẩn (lý tưởng) của mạng 4G so với các thế hệ trước để đánh giá về các dịch vụ tiềm năng của mạng này.
Từ thế hệ mạng 1G tới 4G, nhân loại đã trải qua rất nhiều cuộc cách mạng công nghệ kết nối di động. Mạng 1G thiết lập dịch vụ thoại không dây, trong khi công nghệ 2G cải tiến chất lượng thoại cũng như nâng tầm phủ sóng, cung cấp dịch vụ dữ liệu. Đến mạng 3G đảm nhiệm tối ưu hóa dịch vụ dữ liệu, triển khai dịch vụ băng thông rộng, một bước tiến trong việc kết nối không dây nhanh hơn và tốt hơn.
Mạng 4G hiện nay là bước cải tiến của 3G về khả năng phục vụ, tốc độ và trải nghiệm băng thông rộng nói chung.
Hiểu biết nhanh về mạng 4G và điểm khác biệt về tốc độ so với 3G - Nguồn: Dani78112/YouTube
4G hơn gì 3G?
3G và 4G đều là những công nghệ hỗ trợ kết nối không dây (wireless) thế hệ mới. Nếu cùng một nhà mạng, tốc độ 4G sẽ đương nhiên nhanh hơn 3G. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa mạng 4G của nhà mạng này sẽ luôn nhanh hơn mạng 3G của một nhà mạng khác.
Mạng 4G nhanh cỡ nào so v​ới 3G?
Việt hóa đồ họa: Việt Thái
Việt hóa đồ họa: Việt Thái
Để đạt chuẩn công nghệ 3G, các nhà mạng phải đảm bảo tốc độ truyền dữ liệu tối thiểu 200 Kbps. Trong khi đó, chuẩn 4G quy định tốc độ tối thiểu nhà mạng phải đảm bảo 100 Mbps với các thiết bị kết nối khi di chuyển, trên tàu hoặc xe hơi và 1 Gbps (Gigabit/giây) với các thiết bị kết nối cố định.
Tuy nhiên, các chuyên gia viễn thông khẳng định, cùng là 4G nhưng không phải tất cả các nhà mạng đều triển khai công nghệ giống nhau. Các lựa chọn công nghệ tiền-4G phổ biến hiện nay gồm LTE, WiMAX và HSPA+, trong đó LTE là phổ biến rộng rãi nhất.
LTE có tốc độ cao hơn so với 3G, nhưng vẫn chưa đạt chuẩn 4G theo quy định của ITU. Vào thời điểm 2013, gốc độ 4G LTE trung bình trên phạm vi toàn cầu đạt 10,4 Mbps (của 3G là 1,5 Mbps), như vậy, chuẩn LTE trên thực tế hiện được xem là nhanh gấp 5 đến 7 lần tốc độ 3G.
Theo đánh giá của chuyên trang về mạng 4G tại địa chỉ 4G.co.uk, giả sử tốc độ tải trung bình thực tế của 3G là 3 Mbps (về mặt lý thuyết tối đa là 7,2 Mbps), người dùng sẽ phải mất 10 giây để đợi YouTube tải, trước khi có thể xem được.
Tải (download) một tập tin 500 MB sẽ tốn 22 phút. Nếu dùng mạng 3G HSPA+, một bước tiến của 3G với tốc độ thực tế trung bình đạt 6 Mbps (lý thuyết đạt 42 Mbps), bạn vẫn phải đợi khoảng 11 phút để tải tập tin có dung lượng 500 MB.
Giả sử tốc độ tải trung bình của mạng 4G LTE thử nghiệm đạt tốc độ thực tế 14 Mbps, người dùng có thể tải tập tin 500 MB trong vòng chưa đến 5 phút. Trong khi đó với tốc độ thực tế của 4G LTE-Advanced (còn gọi là 4G+, LTE-A hay 4.5G), một tập tin 500 MB sẽ được tải trong vòng 2 phút, nhanh hơn so với một số kết nối băng thông rộng có dây hiện nay.
Theo đó, tốc độ mạng 4G tiêu chuẩn về mặt lý thuyết sẽ cao hơn từ 5-10 lần so với tốc độ thực tế.
Với mạng 3G, về mặt lý thuyết tốc độ tải xuống tối đa đạt 7.2 Mpbs, trong khi thực tế chỉ khoảng 1.4 Mpbs. Với 4G LTE, về mặt lý thuyết tốc độ tải xuống đạt 100 Mbps trong khi thực tế khoảng 5-12 Mpbs. Với mạng 4G chuẩn, tức LTE Advanced, tốc độ tối đa sẽ đạt 1Gbps (kết nối cố định)
Nguồn The New Economy
Mạng 4G nhanh cỡ nào so v​ới 3G?
Hai mức lý thuyết và thực tế của tốc độ tải về (download) của mạng 3G, 3G HSPA+, 4G-LTE và mạng 4G tiêu chuẩn (4G-LTE Advanced) - Ảnh: 4G.co.uk
Hai mức lý thuyết và thực tế của tốc độ tải về (download) của mạng 3G, 3G HSPA+, 4G-LTE và mạng 4G tiêu chuẩn (4G-LTE Advanced) - Ảnh: 4G.co.uk
Mạng 4G nhanh cỡ nào so v​ới 3G?
Hai mức lý thuyết và thực tế của tốc độ tải lên (upload) của mạng 3G, 3G HSPA+, 4G-LTE và mạng 4G tiêu chuẩn (4G-LTE Advanced) - Ảnh: 4G.co.uk
Hai mức lý thuyết và thực tế của tốc độ tải lên (upload) của mạng 3G, 3G HSPA+, 4G-LTE và mạng 4G tiêu chuẩn (4G-LTE Advanced) - Ảnh: 4G.co.uk
Quá trình tiến hóa các chuẩn mạng lên 4G
Năm 1857 được coi là một trong số các dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của công nghệ mạng di động khi nhà toán học, vật lý học người Scotland Clerk Maxwell đã công bố thuyết điện từ trường hợp nhất, làm nền tảng để Guglielmo Marconi phát minh ra máy điện báo radio năm 1901. Đây là một thành tựu vĩ đại, nhưng sau hơn nửa thế kỷ, tỉ lệ truyền dẫn dữ liệu vẫn chưa có nhiều cải tiến. Một số mẫu điện thoại tiền thân của công nghệ viễn thông hiện đại được lần đầu tiên giới thiệu vào những năm 1940 ở Mỹ và châu Âu, thường có kích thước rất lớn và hạn chế về khả năng di chuyển cũng như chất lượng dịch vụ kém và rất đắt đỏ.
Vào đầu thập niên 70 thế kỷ trước, mạng không dây thế hệ thứ nhất (1G) xuất hiện, dựa vào hệ thống truyền dẫn analog với các thiết bị nhỏ gọn và giá rẻ hơn trước. Các chuẩn phổ dụng triển khai 1G gồm AMPS TACS và NMT đã giúp thị trường tăng trưởng 30 – 50 % mỗi năm.
Thời điểm 1990 đã có tới 20 triệu lượt thuê bao toàn cầu.
Mạng 2G (GMS và GPRS) xuất hiện vào đầu những năm 1990. GSM sử dụng công nghệ biến điệu số nhằm cải thiện chất lượng thoại nhưng các dịch vụ dữ liệu lại khá hạn chế, chủ yếu gồm WAP, HSCSD và MLS. Dần dà, các nhà mạng 2G bắt đầu cung cấp một dịch vụ mở rộng như fax, gửi tin nhắn, tin nhắn thoại.
Ở giai đoạn chuyển tiếp, mạng 2G đã được nâng cấp lên mạng 2,5G vào cuối những năm 1990 với chuẩn GPRS, cho phép người dùng gửi dữ liệu hình ảnh, mở ra chặng đường phát triển của Internet. Mạng EDGE, hiện vẫn còn khá phổ biến ở Việt Nam, chính là sản phẩm của công nghệ di động 2.5G.
Thế hệ mạng 3G được nhà mạng Verizon (Mỹ) giới thiệu lần đầu tiên năm 2002, hiện vẫn được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu với tốc độ trung bình 1,5 Mbps. Cuộc cách mạng 3G mang đến những bước tiến vượt bậc về tốc độ, cho phép sử dụng các ứng dụng video, đồ họa và thoại như xem các video phát trực tiếp, họp qua mạng, mặc dù các dịch vụ này bị hạn chế ít nhiều bởi tốc độ truyền tải chưa cao. Một trong số các vấn đề của 3G chính là chuẩn hóa một giao thức mạng toàn cầu đơn nhất, thay vì một loại các chuẩn được triển khai khác nhau theo nhà mạng và vùng địa lý.
Về mặt lý thuyết, 3G đạt tốc độ trung bình 2Mpbs, nhưng có khi chỉ ở mức 145 Kbps.
Mạng 4G nhanh cỡ nào so v​ới 3G?
Việt hóa đồ họa: Việt Thái
Việt hóa đồ họa: Việt Thái
Mạng 4G nhanh cỡ nào so v​ới 3G?
NHẬT VƯƠNG

Hiện tượng kỳ lạ khiến nước biển chia tách

 Fenomenul ciudat care desparte marea
Hiện tượng kỳ lạ ngăn cách nước biển (Google.com)
Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao nhiều nước tan ra từ các dòng sông băng không trộn lẫn với nước ở các đại dương? 
Trải qua hàng ngàn năm có rất nhiều hiện tượng tự nhiên đã gây ra sự sợ hãi và ngạc nhiên đặc biệt cho loài người: sét, nhật thực, mưa sao băng, cực quang Borealis, động đất và nhiều thứ khác. Nhưng có một hiện tượng kỳ lạ và ít được biết đến đó là cái mà chúng ta thấy thấy trong bức ảnh trên, ta có thể quan sát nước biển có hai màu khác nhau và chúng không pha trộn vào nhau.
Ðiều gì giải thích cho hiện tượng kỳ lạ này?
Theo các chuyên gia, nguyên nhân chính là sự khác biệt về mật độ giữa hai loại nước (kiểu như giữa dầu ăn và nước) được xác định bởi sự khác nhau về nhiệt độ và độ mặn. Nước tinh khiết có mật độ 1.000 kg/m³, trong khi đó nước biển, trên bề mặt là 1.027 kg/m³, và mật độ của nước biển giảm đi khi nhiệt độ tăng và từ đó làm giảm độ mặn.
Độ mặn là một đặc điểm quan trọng của nước, được dùng để xác định số lượng tương đối của các ion và để phân loại nước. Theo đơn vị, có thể nói đó là tổng lượng chất rắn chứa trong một kg nước.
Nước tự nhiên cũng chứa các ion chủ yếu đến từ quá trình khoáng hóa, bào mòn đá và những chất phát ra từ lớp vỏ của Trái Đất (hoạt động núi lửa), nhưng có thể đến từ nhiều nguồn khác nữa.
Nước biển chứa trung bình 96,52% là nước và 3,49% chủ yếu là muối. Các Ion thường gặp nhất là: Cl- , SO4 -, Ca, Mg, Na, K và tỷ lệ có thể thay đổi tùy theo vĩ độ hoặc độ sâu.
Ngoài ra, mật độ của nước thay đổi theo nhiệt độ. Vì vậy, càng xuống sâu hơn, thì nhiệt độ của nước càng giảm, như vậy làm mật độ nước tăng lên, điều này ảnh hưởng tới độ mặn. Hiện tượng chia tách hai loại nước xảy ra bởi vì những thay đổi nhiệt độ ở nước mặn là rõ rệt hơn so với nước ngọt, do quá trình phân tầng nhiệt.
Tác giả: Mioara Stoica | Dịch giả: Kim Xuân

Khu vực kỳ lạ ở Đại Tây Dương làm các nhà khoa học lo ngại

 Zona localizată la sud de Groenlanda şi Islanda a apărut în luna ianuarie 2015
Khu vực được xác định ở phía Nam của Greenland và Iceland, đã xuất hiện vào tháng Giêng, 2015 (La Gran Epoca)
Khu vực này được xác định ở phía Nam của Greenland và Iceland và nó xuất hiện vào tháng Giêng 2015
Cơ quan Đại dương và Khí quyển Quốc gia (NOAA), từ đầu năm nay đã thông báo tại Biển Đại Tây Dương có tồn tại một khu vực bí ẩn, nằm ở phía Nam của Greenland và Iceland.
Sau khi nghiên cứu cho thấy khu vực này là nơi lạnh nhất trên trái đất và về mặt lý thuyết việc này không thể tồn tại. Toàn bộ hành tinh đang nóng lên do biến đổi khí hậu, sự nóng lên toàn cầu đang là tâm điểm của thế giới, trong khi đó khu vực bí ẩn này của đại dương đang tiếp tục lạnh đi, nhiệt độ thấp đo được ở đây hết sức phi logic.

Lý do là gì? 

Theo điều tra sơ bộ, tất cả là do biến đổi khí hậu và do các sông băng tan chảy. Các tảng băng trôi khổng lồ tan chảy từ từ, tạo ra trong khu vực này một sự mất cân bằng nghiêm trọng do sự nóng lên toàn cầu. Hệ quả là xuất hiện những hiện tượng kỳ lạ, như là làm khu vực này trở nên cực lạnh mà khoa học không thể giải thích. Trong thực tế, nguyên nhân của hiện tượng kỳ lạ này hiện chưa được làm rõ. Các chuyên gia đã gặp một khó khăn khác.
Trước những hậu quả nghiêm trọng của biến đổi khí hậu, các nhà khoa học hết lời kêu gọi sự nhận thức để cứu lấy hành tinh này.
Tác giả: Mioara Stoica | Dịch giả: Kim Xuân