Thứ Ba, 6 tháng 2, 2024
BẾP LẠNH (VÕ KỲ ĐIỀN )
Thứ Ba, 12 tháng 12, 2023
TÔI THI RỚT TÚ TÀI 1 - VƯƠNG VIỆT HOA HD65.
Những ký ức cách đây hơn 50 năm lại trở về, khiến tôi phải viết
bài nầy.
Năm ấy, vào 1971 tôi thi Tú tài I. Các thí sinh khắp các xã,
huyện tập trung lên tỉnh Sóc trăng thi. Phòng tôi thi toàn là các thí sinh lạ
hoắc. Khi thi, tôi rất căng thẳng, chỉ chú tâm làm bài thi, không chú ý đến
xung quanh. May mắn tôi làm bài thi cũng tốt lắm.
Thi xong tôi rất vui và chắc mẻm đậu. Tôi thoải mái theo bạn bè
đi chơi biển Mỏ Ó, ăn liên hoan, đọc tiểu thuyết kiếm hiệp thả ga!.
Cả tháng hè vui vẻ chờ kết quả thi. Bạn bè và tôi, đứa nào cũng
hy vọng tràn trề.
Trước đó, tôi còn vui vẻ nhờ anh Ba tôi coi chỉ tay cho tôi, xem
hậu vận tôi có tốt không nữa! Anh tôi xem chỉ tay tôi, rồi nói :
-Nhỏ nầy sẽ nổi tiếng!
Tôi nghe thấy mắc cười quá!
Ai dè đến khi có kết quả thi. Dò hoài mà không thấy số báo danh
của tôi.Tôi tá hoả! Tôi nổi tiếng với bạn bè bị thi rớt, mà không hiểu lý do vì
sao nên nỗi!
Khi các thầy Hoàng Diệu đi chấm thi ở Sài gòn về. Nói cho ba tôi
biết trường hợp của tôi rất đặc biệt! Hội Đồng Giám Khảo đã xem xét trường hợp
của số báo danh VTVH. Đã quyết định cho đậu rồi! Thầy phụ tá Giám Hiệu vừa chấm
thi về cũng kể cho ba tôi nghe như vầy:
Giám khảo chấm bài thi Vật lý của số báo danh VTVH, bài làm được
18/20 điểm, nhưng phải cho 0 điểm, vì thấy ba bài thi số báo danh liền kề giống
y chang nhau. Sau đó ban giám khảo có một cuộc họp Hội Đồng Giám Khảo, xét các
bài bị 0 điểm. Khi xem các bài làm của số báo danh VTVH, thì thấy bài thi các
môn khác đều tốt cả. Nên Hội Đồng Giám Khảo thống nhất ghi vô bảng điểm ở cột
ghi chú là:"0 loại". Do cột ghi chú rất hẹp, nên viết " 0
loại" thay vì viết đầy đủ chữ "không loại", dưới số 0 có gạch
đít để phân biệt với số zero.
Khi đưa qua văn thư để đánh máy danh sách đậu, thì sbd VTVH cũng
lọt sổ vì rỏ ràng họ thấy có ghi chữ chú thích "0 loại". Họ tưởng
nhầm là "0 điểm bị loại".
Trong lúc nầy, Hội đồng Giám khảo thì đã giải tán hết. Do vậy
không ai có thẩm quyền để điều chỉnh lại danh sách thí sinh đậu hết.
Tôi rớt là nguyên do như vậy! Tôi nhớ lại, đúng là khi tôi làm
bài thi, hai con nhỏ kế bên tôi cứ quấy rầy tôi miết. Nó không biết làm nên cứ
thấy tôi viết câu gì thì nó chép y xì câu đó. Tôi cũng thây kệ nó. Tôi cứ lo
làm bài của mình cho kịp giờ nộp bài.
Không ngờ tai họa giáng xuống tôi dữ quá!
Các thầy của tôi và ban Giám Hiệu trường Hoàng Diệu nói với Ba
tôi lên Sài Gòn làm đơn khiếu nại. Thầy Hiệu Trưởng Lê Xuân Vịnh có viết một lá
thư tay đưa cho ba tôi, để đưa cho Chánh Sự Vụ Nha Khảo Thí Sai gòn, nhắc lại
trường hợp đã xét không loại bài bị điểm 0 của sbd VTVH. Nhưng khi ba tôi và
bác Hai tôi đến Nha Khảo Thí, thì Ban giám khảo đã giải tán. Ông Chánh Sự Vụ
Nha Khảo Thí nói phải chờ làm công văn mời ông giám khảo ở tỉnh lên Sài Gòn để
ổng xác nhận lại chữ viết "0 loại" là nghĩa "không loại",
chứ không phải "zero loại"
Đơn khiếu nại của Bác Hai tôi gởi đến Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục và
Giám Đốc Nha Khảo Thí Sài gòn ngày 26/71971, có kèm lá thư xác nhận của Ban
Giám Hiệu trường Hoàng Diệu, tôi là học sinh giỏi lớp 11.
Phải chờ họ phúc đáp thôi! Chờ hoài đến khi nhập học mà cũng
không thấy tâm hơi thơ trả lời trả vốn của Nha Khảo Thí. Vậy rớt thiệt rồi còn
gì!
Bị rớt, tôi xấu hổ dữ lắm. Bởi cuối năm Lớp 11, tôi được lảnh
thưởng ngon lành. Giờ kết quả thi Tú tài, rớt cái ạch! Ai cũng xầm xì bàn tán
trường hợp của tôi. Tự dưng họ hàng bà con, cả xóm tôi ở, lớp tôi học, và ban
giám hiệu trường cũng biết tôi thi rớt Tú Tài 1. Trong khi cuối năm học lớp 11,
tôi đường đường được lảnh phần thưởng hạng Nhất.
Đúng là anh tôi phán một câu đúng ghê! Tôi thấy ứng nghiệm vì
tên tôi được nổi như cồn do thi rớt oái oăm. Tôi thật quê quá mạng!
Niên khoá mới nhập học, bạn tôi lên lớp 12. Còn tôi thì ngồi lại
lớp 11. Tôi buồn tình rồi tự ta thán cái Số của tôi, nó không hạp với trường
Công sao ấy !
Hồi nhỏ tôi học Tiểu Học Công Nữ tỉnh lỵ, tôi bị ngồi lớp
Năm(lớp 1) 2 năm, rồi lên lớp Tư (lớp 2) cũng bị ở lại lớp nữa. Ba tôi hoảng
hồn, vội chuyển tôi qua trường Bà Phước học lại lớp Tư để lấy lại căn bản. May
hồn! qua tay mấy Ma sơ, tôi được xoá dốt từ từ và học có tiến bộ.
Bây giờ qua học trường Trung Học Công Lập, tôi lại phải gặp cảnh
ở lại lớp 11 nữa rồi! Mặc dù lần nầy khác hẳn lúc tôi ngồi lớp Năm 2 năm.
May phước tôi không phải là con trai. Nếu mà là con trai, tôi
khỏi còn cơ hội đến trường học luôn rồi. Năm 1972 đã có lệnh Tổng Động Viên mùa
hè đỏ lửa, dành cho thanh niên bị rớt Tú Tài.
Sau 7 tháng dài ròng rã chờ đợi tuyệt vọng, đến ngày 27/2/1972
mới có công văn hồi đáp của Nha Khảo Thí , cho tôi đậu Tú Tài 1. Đầu tháng
3/1972 tôi mới được xét cho lên lớp12. Tôi mất trọn một học kỳ 1 của lớp 12.
Nhưng nhà trường cũng du di xét cho tôi dự thi Tú Tài II.
Chỉ còn 4 tháng nữa là thi Tú Tài 2. Tôi tuy hết buồn nhưng lại
lo sốt vó. Tôi vắt chân chạy nước rút trong vòng 4 tháng học cho kịp chương
trình lớp 12, để mà thi Tú Tài 2 sắp tổ chức vào đầu tháng 7/1972.
Tôi học ngày học đêm. Sáng học ở trường, tối phải đi học Trung
tâm luyện thi cấp tốc 3 tháng. Tôi chỉ học môn chánh thôi! Các môn phụ Sử, Đia,
Công Dân thi trắc nghiệm tôi nghĩ cũng không đáng lo lắm!
Ngày 5/7/1972 tôi lên thi tập trung ở Cần Thơ.
Lần nầy tôi hên! Tôi đậu Tú Tài II, hạng Bình Thứ.
Tôi được ba má thưởng cho một chuyến đi Sai gòn chơi suốt tháng
hè. Sau đó tôi ghi danh học Đại Học Khoa Học Sài Gòn niên khoá 1972-1973. Bởi
Ba má tôi rất muốn tôi học Y Khoa lắm! Nên tôi ghi danh học Đại Học Khoa Học -
Sài gòn để lấy chứng chỉ SCPN, mới đủ điều kiện dự tuyển vô trường ĐH Y Khoa
Sài Gòn.Vì trường Y thuở đó chỉ nhận đơn dự thi của những ai đã đậu chứng chỉ
SCPN ( Science Chemystry Physics Natural)
Nhưng số tôi vẫn cứ xui! Đậu SCPN xong, tôi nộp đơn thi tuyển vô
trường Y Khoa. Đúng ngay ngày thi tuyển, tôi bị một trận cúm rất nặng nên cũng
đành phải bỏ thi vô trường Y. Tôi lại làm ba má tôi thất vọng nữa.
Tôi tiếp tục học ở ĐH Khoa Học Sài Gòn, đến khi ra trường, và
làm cô giáo dạy môn Vi Sinh ở Đại Học Nông Nghiệp 4 -Thủ Đức
Nhớ lại việc học của tôi sao lận đận quá và cứ phải làm phiền bá
má và bác Hai tôi miết.
Tôi hình dung những lần ba tôi đi lên Sài Gòn, rồi Bác Hai tôi,
tuổi đã cao mà còn phải mang lá đơn đến Nha Khảo Thí để khiếu nại cho tôi bị
rớt oan Tú Tài I. Chắc ba và Bác Hai đã rất nhọc công, nhọc sức lắm! Phải lo
lắng, phải trông chờ đơn có được hồi đáp hay không?
Ai chờ đợi mà không sốt ruột, không khổ tâm?
Giờ nhìn những giấy tờ, thư từ, những lá đơn, công văn đã cũ kỷ
vàng úa, các mảnh Văn Bằng đã rách nát. Trong đó chứa đựng biết bao kỷ niệm,
bao công lao của cha mẹ, người thân của tôi đã đổ vào, để lo cho tôi có được
cái học và kiến thức như ngày nay .
Thâm ân nầy tôi mang nặng và không thể nào trả hết. Vì những
người ân của tôi đã mất rồi!
Thứ Hai, 11 tháng 12, 2023
TRƯỜNG HỌC NGÀY XƯA. - VƯƠNG VIỆT HOA HD65
Thuở đó quê nhà tôi, tỉnh Ba Xuyên, thị xã Sóc Trăng có các
ngôi trường Tiểu học, với các lớp Năm,Tư, Ba, Nhì, Nhất ( tương đương bây giờ
là Lớp Một, Hai, Ba, Bốn, Năm). Học sinh học hết bậc Tiểu Học thì phải trải qua
kỳ thi Tiểu Học để lên bậc Trung Học.
Thuở ấy, bậc Trung Học có hai cấp:
- Trung Học Đệ Nhất Cấp gồm lớp Đệ Thất, Đệ Lục, Đệ Ngũ, Đệ
Tứ, (tương đương với lớp 6, 7, 8, 9 ngày nay).
- Trung Học Đệ Nhị Cấp gồm lớp Đệ Tam, Đệ Nhị, Đệ Nhất
(tương đương với lớp 10, 11, 12 ngày nay)
Học xong Đệ Tứ (lớp 9) có kỳ thi Trung Học. Học xong lớp Đệ
Nhị (lớp 11) có kỳ thi Tú Tài 1. Học xong lớp Đệ Nhất (lớp 12) có kỳ thi Tú Tài
2. Tỉnh có hai hệ thống trường Công và trường Tư. Hồi tôi đi học, ngôi trường nổi
tiếng nhất trong tỉnh Sóc Trăng không phải là trường Công mà lại là hai ngôi
trường Tư cổ kính của dòng tu Công Giáo. - Một ngôi trường dành cho con trai là
Lasan Taberd. Thầy giáo là các Frères rất đạo mạo với chiếc áo dòng màu đen,
trên cổ áo có miếng vải trắng nhỏ ở giữa (phân biệt với Cha nhà thờ thì không
có) -Một trường dành cho con gái là trường Providence, gọi là trường Bà Phước
vì đứng lớp dạy là các Ma soeur, đầu chít khăn trắng toát, có vành lưỡi trai
phía trước. Áo tu của Ma soeur trắng tinh, trông nặng nề vì áo có nhiều lớp và
còn đính thêm hàng chuỗi hạt đeo bên hông.
Nhìn mặt các Ma soeur thấy ai cũng có vẻ thánh thiện, rất có
cảm tình. Bởi vậy mới có bài ca "Em hiền như ma sơ", quả thực không
sai! Cả hai trường Lasan Taberd và Providence đều có hai bậc Tiểu Học và Trung
Học. Trường có nội trú. Kỷ luật trường rất nghiêm. Các tu sĩ lại dạy học trò rất
tận tâm và rất tốt. Trường có xe đưa rước học sinh, ngày hai buổi. Đặc biệt
không gian sân trường rộng mát với nhiều cây xanh cổ thụ. Trường được xây từ thời
Pháp, các lớp học đều có cửa sổ rộng mở đón ánh sáng tự nhiên, mát mẻ vô cùng!
Bàn ghế học sinh nặng trịch, gỗ lên nước bóng mượt. Vì trường danh tiếng như vậy
mà có nhiều gia đình trong tỉnh Sóc Trăng và ngay cả gia đình công chức, quân
nhân sống miệt Lục Tỉnh miền Nam cũng đem con cái đến xứ Sóc Trăng, gởi cho học
nội trú tại trường. Học phí của ngôi trường Tư thế nầy không hề rẻ chút nào!
Trường Tiểu học Công thì có hai ngôi trường của tỉnh lỵ. Đây
là trường Nhà Nước nên khá khiêm tốn, còn nghèo cơ sở vật chất lắm. Đó là trường
Nam Tiểu Học Tỉnh lỵ và trường Nữ Tiểu Học Tỉnh lỵ. Ưu thế trường công là hoàn
toàn không có thu học phí. Tỉnh Sóc Trăng còn có ngôi trường Trung Học công lập
bề thế, xây dựng qui mô hơn trường Tiểu Học, đó là trường Trung Học Hoàng Diệu.
Trường có đội ngũ thầy cô giáo rất giỏi, được đào tạo chuẩn mực từ Đại Học Sư
Phạm Sài Gòn. Vì tỉnh lỵ chỉ duy nhất có một trường Trung Học Công Lập như thế
này. Muốn được nhận vào học, học sinh phải có bằng Tiểu Học và phải dự kỳ thi
tuyển để được chấp thuận vô học lớp Đệ Thất của Trung Học Hoàng Diệu. Học sinh
khỏi phải đóng học phí đồng nào. Ai không thi đậu vô được trường Công lập, thì
có những ngôi trường Trung Học Tư Thục cũng khá tiếng tăm như Trường Trung Học
Trần Văn, trường Lam Sơn, trường Bồ Đề của Phật Giáo, trường Lasan, trường
Providence.
Thuở xưa thầy cô dạy bậc Trung học đều được xã hội rất tôn
quí với danh xưng Giáo Sư Đệ Nhất Cấp, Giáo Sư Đệ Nhị Cấp. Còn thầy cô dạy Tiểu
Học thì gọi là giáo viên. Ai mà đậu được Tú Tài 1, Tú tài 2 đều phải trải qua
các kỳ thi trầy vi, tróc vẩy. Nhưng cũng an ủi là khi ấy được hân hạnh gọi là
cô Tú, cậu Tú. Nghe cũng oai phết! Thuở ấy bằng Tú Tài rất có giá trị. Ai học
giỏi có bằng Tú Tài là có thể xin dạy hợp đồng cho các trường Tư Thục Trung Học
Đệ Nhất Cấp, và cũng đường hoàng làm Giáo Sư.
Tôi nói dài dòng hệ thống trường học thuở xưa để cho thấy
ngày xưa, làm học sinh rất ư là gian truân khổ ải với nhiều kỳ thi chuyển cấp mệt
mỏi. Ít có ai đi được hết con đường học đến Tú Tài 2, trừ phi phải học thật giỏi.
Vì đời nam sinh ở lại lớp hay thi rớt hai lần, là bị bắt đi quân dịch rồi! Con
gái thời đó cũng lo lấy chồng sớm, ít chịu học cao!
(Còn tiếp kỳ sau)
TRƯỜNG HỌC NGÀY XƯA
(tiếp theo)
Lớp Vỡ Lòng- Cô Giáo Lùn. Thật ra thâm tâm tôi khi viết bài
nầy là muốn nhắc đến giai đoạn đầu đời của một học trò mới tập làm quen với
sách đèn. Đó là lớp Vỡ lòng mà tôi đã trải qua 3 tháng đầu tiên trong đời học
sinh. Thuở ấy, con nít nhỏ trước khi làm học sinh học lớp Năm, lớp đầu tiên của
bậc Tiểu học thì các bậc phụ huynh thường cho con trẻ trải qua một năm q học lớp
Mẫu giáo. Nhưng ở Sóc trăng, các cha mẹ chỉ cần cho con vô học lớp Vỡ lòng 3
tháng hè, trước ngày khai trường nhập học Tiểu học. Ở thị xã Sóc trăng, những
ai sinh vào những thập niên 195s, 196s, phần lớn đều biết đến lớp học của Cô
giáo Lùn. Cô giáo chuyên dạy Vỡ lòng cho các bé cỡ 5,6 tuổi. Có khi còn có cả
người lớn cũng đến học để xóa dốt! Lớp cô khá đông vì giá học phí rất bình dân.
Nhà dầu nghèo hay khá giả cũng đều gởi con cháu đến học vì cô dạy giỏi. Chỉ cần
3 tháng cho cô rèn luyện là trẻ biết đánh vần, đọc chữ để sẵn sàng vô lớp Năm,
trẻ sẽ không bị bỡ ngỡ.
Tôi nhớ Cô Giáo Lùn của tôi. Tôi không biết cô tên họ là gì!
Cả thị xã Sóc Trăng đều quen gọi là lớp học cô Giáo Lùn, coi như biệt danh của
cô. Cô bị tật bẩm sinh, chỉ cao có 1.1m. Cô có dáng dấp đặc trưng của người có
tật lùn. Cái cổ và tay chân của cô ngắn ngủn. Đầu và mặt cô thì to. Phần ngực
và lưng của cô nhô lên rất bất thường, vì có cục bướu rất lớn ở trước ngực và
gù ở sau lưng. Trông cô rất nghiêm nghị, nhưng cô phúc hậu lắm và dạy học rất tận
tình. Cha mẹ khi gởi con đến học lớp của cô dạy, đều tin tưởng vào sự tận tâm của
cô giáo Cô giáo Lùn rất có uy. Con nít ở nhà cứ khóc nhèo nhẹo khi biết mẹ chuẩn
bị đưa đi học. Có đứa còn giãy giụa, luôn miệng rên: "con hổng đi học đâu!
hổng đi học đâu! hu..hu..!" Nhưng khi bị đưa đến cửa lớp học, vừa thấy mặt
cô giáo là nín khe, tắt tiếng khóc ngay và vâng lời cô riu ríu. Con nít như tụi
tui chỉ qua ba tháng học ở lớp Vỡ lòng của cô giáo đều biết thế ngồi học ngay
ngắn, tay cầm bút chì đúng cách, biết viết chữ thẳng hàng, đúng nét cơ bản.
Sách học vỡ lòng là quyển sách mỏng dính ! Bìa sách in hình con gà trống gáy ó
o, nên được gọi là sách Vỡ lòng Con Gà. Sách Con Gà coi vậy mà hay lắm a! mỗi một
chữ nguyên âm đều có hình minh hoạ rất dễ thương, giúp cho con nít dễ nhớ, ví dụ:
a - có hình con gà gáy e- có trái me hấp dẫn ơ- hình cái nơ rất đẹp u- có hình
cái lu. i - có cậu bé ôm cặp đi học Sách không có màu mè gì cả, chỉ trắng đen
thôi, vậy mà rất dễ học. Ngay cả người già, người lớn tuổi mà chưa biết chữ, chỉ
cần chịu khó học hết cuốn Vỡ lòng con Gà nầy, cũng tạm gọi là được xoá mù chữ,
vì đã biết đánh vần và đọc được chữ trên mặt nhật báo rồi. Vì vậy sách rất phổ
biến, nhà nào cũng có cuốn sách vỡ lòng nầy. Sách rẻ rề dễ mua lắm! Trong buổi
học cô giáo tôi viết chữ lên bảng đen các mẫu tự chữ cái thiệt to, nét chữ rất
đẹp. Giờ tập đọc, cô nhịp cây thước gỗ lên bảng, là đám con nít đồng thanh đọc
a con gà, e trái me ,ê con dê, u cái lu, o trái nho ... Cứ đọc ê a như đọc thần
chú một thời gian ngắn là nhớ nằm lòng mặt chữ. Sau đó là cô dạy ráp vần, rồi tập
đánh vần .
Buổi trưa hè, từ lớp cô Giáo Lùn vang lên tiếng đánh vần của
bọn trẻ. Nghe rất nhịp nhàng, rộn ràng như tiếng ve ve gọi hè. Đến nay đã già,
mà sao lạ quá! mỗi khi nghe xa xa văng vẳng tiếng trẻ đọc đánh vần lúc trưa hè,
là tôi lại nhớ về lớp học Vỡ lòng của cô Giáo Lùn của tôi thuở xưa. Cô tôi đã dạy
cho chúng tôi 3 tháng Vỡ lòng đầu đời, cũng xem như là người thầy đã khai trí
cho lứa học trò nhỏ chúng tôi biết cầm cây bút chì viết nét chữ đầu tiên. Sách
có câu "Nhất Tự Vi Sư Bán Tự Vi Sư", một chữ cũng thầy, nửa chữ cũng
thầy, huống chi cô tôi đã dạy biết bao lứa học trò nhỏ như chúng tôi thuộc nằm
lòng 24 chữ cái của Quốc Ngữ.
Phải công nhận rằng các thầy cô giáo dạy lớp Vỡ lòng cho ta.
Người đã nhẫn nại cầm tay chỉ dẫn ta cách cầm cây bút, giúp ta nắn nót viết nét
chữ đầu đời. Người đã dạy ta cách phát âm tròn vành rỏ chữ tiếng Việt, đó chính
là vị ân sư đầu tiên của đời ta.
5/12/2023
Vương Việt Hoa HD65
TÔI ĐI THI TIỂU HỌC - VƯƠNG VIỆT HOA HD65.
Hồi tôi học Tiểu Học, lối đầu thập niên 1960, trường Tư thục
và trường Công lập cũng có phân biệt đối xử nghen! Trường Công thì được miễn
thi Tiểu Học từ niên khóa 1962-1963, học sinh chỉ phải thi tuyển vô lớp Đệ thất
thôi, nếu muốn vô học trường Trung Học Công lập. Trong khi đó, học sinh trường
Tư vẫn phải thi lấy bằng Tiểu Học, rồi mới được dự tuyển thi vô trường Trung Học
Công Lập, nghĩa là phải trải qua 2 đợt thi. Niên khóa 1964-1965, tôi học lớp Nhất
trường Providence- Sóc trăng ( còn gọi trường Bà Phước). Vì vậy tôi phải bị thi
Tiểu Học khi kết thúc năm lớp Nhất. Tôi cũng chỉ thi một đợt thôi! Tôi không muốn
dự thi tuyển vô trường Công nếu có đậu Tiểu Học. Tôi không hạp với trường Công
lập. Học trường Công, tôi bị ở lại lớp Năm hai năm và lớp Tư cũng đúp-lê. Nên
tôi sợ trường Công lắm!
Tôi cũng phát mệt vì kỳ thi Tiểu Học này nữa! mặc dù Ma sơ
lúc nào cũng động viên: "Các con đừng sợ ! các con học đàng hoàng thì có kỳ
thi nầy mới chứng tỏ trường mình dạy học sinh học tốt". Kỳ thi Tiểu Học ở
quê tôi được tổ chức rất là nghiêm túc không khác chi kỳ thi Tú tài. Thí sinh
phải thi hai phần : thi viết và thi vấn đáp . Khổ ghê! con nít có 11, 12 tuổi
mà phải bị tra tấn thi hai phần như các anh chị 17, 18 tuổi thi Tú tài 1, Tú
Tài 2. Nghiệt ngã là trong kỳ thi vấn đáp có kèm thi môn tự do. Có thể thi đọc
Thơ hay thi Hát . Lớp tụi tôi, đứa nào cũng chọn môn thi Hát. Thi đọc Thơ thì
con nít lứa tuổi tôi đâu có thuộc bài thơ nào đâu ! Còn thi Hát thì tương đối dễ.
Chỉ cần thuộc ba bài hát, chép cẩn thận vô quyển vở để nộp khi thi. Thuở ấy, nhạc
vàng thịnh hành lắm. Ngày nào nhà nào mà chẳng có nghe nhạc vàng! Nhà tôi nằm
ngay đường Giữa của khu thị tứ. Đối diện nhà tôi là tiệm bán radio, máy hát
dĩa, loa ampli... Ngày nào cứ 6 giờ sáng, tiệm bán radio mở cửa, là họ mở loa
nhạc sến in ỏi, khiến ai trong khu phố cũng đều tỉnh giấc ngủ. Trưa thì có cái
rạp hát kế bên mở dĩa hát nhạc Tây nghe điếc óc. Cả ngày sáng trưa chiều tối
...tôi bị tra tấn bởi mấy bài ca từ máy hát dĩa. Nên tôi thuộc lòng nhiều bài lắm!
Mắc cười là ở tuổi 12, tui chọn thi ba bản nhạc tình phổ biến nhất thời đó.
- Đồi thông hai mộ.
- Những đồi hoa sim.
- Nỗi buồn gác trọ.
Thuở đó tôi cũng khờ lắm, đâu có biết bài nào là nhạc thiếu nhi, bài nào là nhạc tình của người lớn. Tôi chọn ba bài nầy vì đã nghe hoài từ năm nầy sang tháng nọ. Ngày nào cũng nghe, nên tôi thuộc nhừ tử rồi. Tôi chép ba bài ca vô quyển vở. Tôi gắng nắn nót nét chữ cho thiệt đẹp, lại còn trang trí vẽ thêm vài nhánh bông ở mỗi bài hát. Cho thêm hoa hòe để lấy điểm của giám khảo. Đến kỳ thi, tôi thi xong môn thi Viết, tiếp theo ngày sau là thi Vấn đáp ( thi oral) Buổi thi vấn đáp, tôi căng thẳng hơn buổi thi Viết nhiều lắm.Thí sinh được đọc tên cho vô phòng thi ngồi theo số báo danh. Đầu lớp có đặt một cái bàn dài, có hai thầy giám khảo ngồi. Thầy gọi tên thí sinh theo danh sách, thí sinh lên ngồi ghế đối diện thầy, trả lời vấn đáp. Ngồi dưới lớp, tôi hồi hộp quan sát mấy bạn được gọi lên thi trước tôi. Tôi thấy các thầy hỏi câu gì đó, thí sinh trả lời xong. Thầy lấy cuốn vở chép bài hát của thí sinh nộp, thầy chọn bài, rồi thí sinh hát. Tôi thấy hơi lạ vì có đứa chỉ cất giọng hát hai ba câu là thầy bảo thôi, trả tập cho về. Có đứa hát được nửa bài, thì thầy khoát tay ngừng hát, cho đi ra. Có đứa hát tới hết bài, thầy mới cho ra! Ngồi ở bàn dưới, tôi đoán có lẽ là: - Đứa nào hát dỡ quá, thầy chỉ nghe hai ba câu. - Đứa hát dỡ vừa vừa thầy nghe nửa bài. - Đứa nào hát hay, thầy mới nghe hết bài.
Tới phiên thầy gọi tên tôi lên thi. Tôi ôm cuốn tập giấy chép bài ca lên nộp. Đầu tiên mỗi thầy giám khảo chỉ hỏi tôi một câu trong chương trình lớp Nhất. Tôi trả lời xong, mà chẳng biết đúng sai! Sang phần thi hát, thầy cầm cuốn vở tôi chép 3 bài ca, lật qua lật lại. Thầy chọn bài "Những Đồi Hoa Sim". Đầu tiên thầy hỏi tôi: tên tác giả? Tôi ú ớ, tôi đâu biết trả lời thế nào! Vì tôi chỉ nghe ca sĩ hát trong dĩa hát rồi chép lại vô vở thôi! Có nghe tên tác giả trong dĩa hát đâu! Phải chi thầy hỏi ca sĩ nào hát bài nầy, thì tôi trả lời được liền. Đằng nầy lại hỏi tên tác giả, tôi làm sao biết là ai! Thấy tôi ấp úng không trả lời được, thầy bảo tôi hát bài đó.
Tôi đã mất bình tỉnh vì không trả lời câu hỏi của thầy, nên lúc đó run dữ lắm. Tôi cất tiếng hát mới có ba câu, thầy khoát tay, trả quyển vở, ghi điểm vào bảng danh sách, và cho tôi ra ngoài. Ra khỏi phòng thi, tôi nghĩ chắc tiêu rồi, vậy là rớt cái chắc! Bởi thầy hỏi tên tác giả, tôi đã bí. Còn hát, thì mới hát có ba câu đã bị cho về . Ai dè sau nầy hỏi lại, thì biết là các bạn tôi khi chép bài hát vô vở, đều có ghi tên tác giả đầy đủ, nên thầy chỉ kêu hát thôi, không có hỏi tên tác giả. Chỉ có tôi ngu quá! chép lời bài hát mà còn bài đặt vẻ bông vẻ hoa , hổng chịu tìm hiểu tác giả là ai để ghi vào mỗi bài hát, nên tôi mới bị thầy hỏi khó vậy! Và còn được biết là đứa nào hát bị lạc nhịp, sai lời thầy mới bắt nó hát tới nguyên bài, để tìm chỗ đúng của nó mà cho điểm đậu. Kết quả cuộc thi vấn đáp, thí sinh nào cũng được đậu cả, không có đứa nào rớt hết. Coi như phần thi vấn đáp của kỳ thi Tiểu Học mở ra rất nghiêm trọng, thấy phát sợ như vậy đó, nhưng các giám khảo đều cho điểm đậu 100% Vậy mà cũng hành tội con nít làm chi ! bắt thi nầy thi nọ đủ thứ!
Sau năm đó, kỳ thi Tiểu Học được bãi bỏ trên tất
cả các trường ở toàn miền Nam Việt Nam.
9/12/2023
Vương Việt Hoa HD65
Thứ Ba, 22 tháng 11, 2022
QUẺ DỊCH – Cách lập & Giải đoán - NGUYÊN LẠC HD 61-68
[TRÍCH ĐOẠN]
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Phần thứ nhất: NHẬP MÔN KINH DỊCH/ ĐẠI CƯƠNG VỀ QUẺ DỊCH
I. Kinh Dịch
II. Thuật ngữ cần nhớ
III. Ý nghĩa các hào
IV. Quy tắc cần nhớ
Phần thứ hai: BÓI QUẺ DỊCH
I. Nghi thức bói và luật cảm ứng
II. Các phương pháp lập quẻ Dịch
III. Giải đoán quẻ
Phần thứ ba: PHỤ CHÚ
I. Phương pháp lập quẻ bằng thẻ tre
II. Bấm độn
Phần thứ tư: ÔN TẬP
I. Nước Việt của Câu Tiễn
II. Lập quẻ Dịch
III. Giải quẻ
IV. Chuyển đổi quẻ
LỜI KẾT
***
Lời nói đầu:
Bói Dịch không phải là mê tín, nó là khoa học. Có thể gọi là khoa học huyền bí. Vì vậy, Tiến sĩ Phân tâm học C.G. Jung (ông cùng với S. Freud là một trong những thủy tổ của khoa Phân Tâm Học, nghiên cứu về tiềm thức của loài người) năm 1949 đã dùng bói Dịch để biết việc quảng bá và giới thiệu Dịch (I Ching) từ tiếng Đức sang tiếng Anh có được thuận lợi hay không?. Bói được rất tốt, ông tiến hành và Dịch đã trở thành kinh điển cho các học giả và các trường đại học Tây Phương học hỏi!
Có 2 lý do để tôi viết tiểu luận này:
1/ Chúng ta chỉ sợ những gì mình không hiểu: Thí dụ như sợ Ma, vì chúng ta không biết rõ Ma là gì?. Nếu biết thì sẽ không sợ. Cũng vậy, chúng ta sợ chết, vì không biết chết ra sao, sau khi chết như thế nào?. Nếu chúng ta biết rõ thì chắc chúng ta cũng sẽ không sợ. Đó là lý do Phật giáo khuyên chúng ta nên tìm hiểu về sự chết (Tử)
Tôi viết tiểu luận này mong độc giả tìm hiểu rõ về Bói Dịch, không sợ nó nữa, để các ông thầy Bói toán, Phong thủy (giả), vì tư lợi, không còn “hù” ta được nữa. Bói Dịch mà vì tư lợi sẽ không bao giờ linh ứng.
2/ Kinh Dịch là 1 trong 5 Kinh chính của triết lý Đông Phương. Các nhà trí thức (Nho gia) xưa phải lào thông nó mới có thể đi thi. Điều đó chứng tỏ nó rất quan trọng. Bói Dịch rất khó hiểu đối với các người trẻ, người mới bắt đầu. Ngay cả sách được cho là kinh điển của cụ Ngô Tất Tố, phần giải thích về bói cũng rất khó hiểu. Tôi mong làm nó đơn giản hơn, dễ hiểu hơn để giúp các bạn trẻ, ai muốn tìm hiểu sẽ dễ dàng hơn, hầu mong giữ gìn những quý giá của ông cha không bị mai một!
Lại nữa, ý của Dịch cho rằng: con người tự mình vẫn có thể sửa đổi được số mạng của mình một phần nào; thế thì tại sao chúng ta không tự tìm hiểu, tự bói quẻ tìm phương thức đối ứng, mà phải nhờ người khác làm thay cho mình? Biết chắc họ thật sự là bậc thức giả không? Ở đời, biết đâu hư biết đâu thực, biết đâu chân biết đâu giả.
.
PHẦN THỨ NHẤT
NHẬP MÔN KINH DỊCH
ĐẠI CƯƠNG VỀ QUẺ DỊCH
I. KINH DỊCH
Kinh Dịch là một trong ba bộ kinh cổ nhất của Trung quốc, sau Kinh Thi và Kinh Thư, nhưng nguồn gốc của nó (tức bát quái) thì có thể sớm hơn, vào cuối đời Ân, khoảng 1.200 năm trước Tây Lịch.
Nó không do một người viết, mà do nhiều người góp sức trong một ngàn năm, từ Văn Vương nhà Chu mãi đến đầu đời Tây Hán.
Điều kỳ dị nhất của Dịch là nó chỉ dựng trên thuyết âm dương, trên một vạch liền ____ tượng trưng cho dương, một vạch đứt __ __ tượng trưng cho âm. Hai vạch đó chồng lên nhau, đổi lẫn cho nhau nhiều lần thành ra tám hình bát quái, rồi tám hình bát quái này lại chồng lẫn lên nhau thành sáu mươi bốn hình mới: Lục thập tứ quái.
Dùng sáu mươi bốn hình này người ta sẽ diễn giải được tất cả các quan niệm về vũ trụ, nhân sinh. Từ những hiện tượng trên trời dưới đất, những luật thiên nhiên cho tới những công việc thường ngày như trị nước, ra quân, trị nhà, cưới hỏi, ăn uống, xử thế…
— Mới đầu chỉ có lưỡng nghi: dương (vạch liền: ___ ) và âm (vạch đứt: _ _ )
— Bên dương, nếu lấy dương chồng lên dương, rồi lấy âm chồng lên dương, chúng ta sẽ được hai hình tượng:
– (vạch dương/ vạch dương): thái dương
– (vạch âm/ vạch dương): thiếu dương
Bên âm cũng vậy, nếu lấy âm chồng lên âm, rồi lấy dương chồng lên âm, chúng ta sẽ được hai hình tượng nữa:
– (vạch âm/ vạch âm): thái âm
– (vạch dương/ vạch âm): thiếu âm
Như vậy được bốn hình tượng, gọi là tứ tượng.
Tứ tượng có tên: Thái dương, thiếu dương, thái âm, thiếu âm
— Sau cùng, lấy dương lần lượt chồng lên cả bốn hình trên, chúng ta sẽ được 4 hình:
Ly (Li), Càn (Kiền), Tốn, Cấn.
Rồi lấy âm lần lượt chồng lên cũng cả bốn hình đó, chúng ta sẽ được thêm 4 hình nữa:
Chấn, Ðoài (Đoái), Khảm, Khôn.
Sự hình thành bát quái
Như vậy được hết thảy 8 hình gọi là bát quái (tám quẻ). Mỗi quẻ có 3 vạch (gọi là 3 hào), xuất hiện lần lần từ dưới lên trên. Cho nên khi gọi tên hào, khi đóan quẻ, phải đếm và xét từ dưới lên trên: Hào dưới (cũng là hào 1), rồi lên hào 2, hào 3…
[HẾT TRÍCH]
Đọc toàn bộ sách hoặc Download xin theo links dẫn dưới đây:
Hoặc:
QUẺ DỊCH-Cách lập và Giải đoán
______________________
Phụ lục:
@ Về Bác sĩ Nhân Tử NGUYỄN VĂN THỌ (1921-2014)
Bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ sinh ngày 15 tháng 12 năm 1921 tại Chi Long, Hà Nam, Bắc Việt. Tốt nghiệp Đại học Y khoa Hà Nội năm 1952. Phục vụ ngành Quân Y từ năm 1952 đến năm 1965 với cấp bậc Thiếu Tá và giữ chức vụ Chỉ huy Tổng Y Viện Duy Tân (Đà Nẵng) từ năm 1956 đến 1963. Từ năm 1967 cho đến 1975, Bác sĩ là Giáo sư trường Đại học Saigon và Minh Đức (Saigon), phân khoa Văn Khoa: dạy Triết Học Đông Phương, đặc biệt có giảng dạy thêm về Kinh Dịch. Năm 1960 tác giả được trao giải thưởng văn chương Tinh Việt Văn Đoàn qua tác phẩm Trung Dung Tân Khảo.
Năm 1982 Bác sĩ cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ và lấy bằng Bác Sĩ Y Khoa tương đương tại Hoa Kỳ vào năm 1983. Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ từng là cộng tác viên của nhiều nguyệt san tại Việt Nam, Hoa Kỳ, Canada, Đức, Úc và đã hoàn tất 18 tác phẩm với khoảng 7000 trang về hai đề tài chính là Triết Học Đông Phương và Tôn Giáo Đối Chiếu (Khổng Học Tinh Hoa, Chân Dung Khổng Tử, Dịch Kinh Đại Toàn, Phật Học Chỉ Nam, Lão Trang Giản Lược, Đạo Đức Kinh Đường Vào Triết Học Và Đạo Học v.v…)
Lúc ở California thập niên 1980, bác sĩ Thọ có mở lớp dạy Kinh Dịch miễn phí vào cuối tuần tại chùa Việt Nam (12292 Magnolia St, Garden Grove, CA 92641). Lớp dạy phải giải tán vì bác sĩ Thọ bị tai biến mạch máu não năm 1989.
Bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ tạ thế ngày 07 tháng 01 năm 2014 tại Issaquah, WA, USA, hưởng thọ 93 tuổi.
Link trang web BS Nhân tử Nguyễn Văn Thọ
– Văn hóa Đông phương (Có bộ sách Dịch Kinh đại toàn E – Book)
http://nhantu.net/
.
Nguyên Lạc HD 61-68
Thứ Sáu, 4 tháng 11, 2022
TẢN MẠN VỀ TRÀ (Khảo Luận) – E Book. NGUYÊN LẠC
Giới thiệu:
Ông bà ta có câu “Khách đến nhà không trà thì rượu”. Với nhiều người, uống trà không chỉ đơn thuần là giải khát, mà còn là thú vui tao nhã thưởng thức hương vị thơm, ngọt, chát, nồng của ” Dịch thể ngạnh ngọc bào” – bọt của chất lỏng màu ngọc bích (Tên người xưa gọi nước trà). Trà, rượu và cà-phê là 3 thức uống hầu như hiện nay ai cũng yêu thích. Đối với cụ Trần Tế Xương thì: “Một trà, một rượu, một đàn bà/ Ba cái lăng nhăng nó quấy ta”. Về “yêu trà”, tôi xin dẫn ra đây vài lời của nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh, trong chương sách Nghệ Thuật Yêu Trà của bà, đại khái:
– “Yêu là cả một nghệ thuật, mà đã là nghệ thuật thì cần phải có sự nghiên cứu kỹ càng, và sự hướng dẫn chu đáo. Muốn yêu ai thì cần phải tìm hiểu tính tình, biết cả từ tính tốt đến tính xấu, những ưu khuyết điểm, xét xem có thích hợp với mình không. Khi đã biết rõ rồi mới yêu thì tình mới bền. Trà cũng như người, cổ nhân gọi trà là Tình Nhân, và ngày xưa cũng như bây giờ có những người yêu trà, chờ đợi giờ phút được ngồi cạnh ấm trà như chờ đợi giờ phút hò hẹn với người yêu”- (Minh Đức Hoài Trinh)
Ngồi cạnh ấm trà một mình vào buổi sáng tinh sương hay với tri kỷ trong đêm khuya, thì không cần phải dùng đến lời nói; đọc cho nhau nghe một câu thơ, hay mỗi người nói một mẩu chuyện rồi thả tâm tư suy nghĩ; chẳng cần bàn cãi nhiều lời, khói trà và hương trà sẽ đưa hai tâm tư đến cùng một điểm. Hai người tri âm tri kỷ đã trở thành một.
Chúng ta hãy cùng nhau nhắp một chén trà. Ánh sáng xế trưa đương chiếu vào bụi trúc, dòng suối đương róc rách vui tai, và tiếng ngàn thông đương rì rào trong ấm trà của chúng ta. Hãy thả hồn mơ vào chỗ vô thường, tha thẩn trong cái vẻ cuồng dại mỹ miều của vạn vật.
Lý Chi Lai, (Lichilai) một kẻ yêu trà, một thi sĩ đời Tống đã cho rằng, đời có 3 mối hận nhất là: “Những thanh niên ưu tú bị hư hỏng vì một chế độ giáo dục sai lầm; những bức danh họa bị mất giá trị vì những kẻ phàm phu tục tử tán thưởng; và những cánh trà ngon bị hao phí quá nhiều vì những bàn tay bất tài vầy vò”.
Trà không có cái tính chất tự tôn xằng như của rượu, tự ý thức như của cà phê, hay ngây thơ khờ khạo như của ca cao – (Bảo Sơn – Trà Đạo, dịch từ cuốn The Book of Tea của Okakura Kakuzo)
….
[NGƯNG TRÍCH]
.
Các bạn có nhã hứng đọc toàn bộ sách hoặc Download, xin theo link dưới đây:
https://t-van.net/nguyen-lac-tan-man-ve-tra-khao-luan/?fbclid=IwAR2J5zD-28ESCJssym7WKIwdvuk971WJrCyKKriupQhfTSSpp-5WELizPXA
hoặc:
https://nguyenlac.wordpress.com/2022/10/29/nguyen-lac-tan-man-ve-tra-khao-luan-e-book/
Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2022
CHUYỆN HỌC HÀNH CÙNG KÝ ỨC TUỔI THƠ