a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2019

Ra mắt sách ‘Định lý Godel, Nền tảng của khoa học nhận thức hiện đại’ tại Hà Nội (19/7)

Giới thiệu sách mới tại Hà Nội: ‘Định lý Godel, Nền tảng của khoa học nhận thức hiện đại’

Khoa học thế kỷ 20 có nhiều sự thật trớ trêu, nhưng điều trớ trêu sau đây có thể đáng suy nghĩ nhất:
Định lý Gödel, tức Định lý Bất toàn (Incompleteness Theorem) của Kurt Gödel, được đánh giá là đột phá toán học #1 của thế kỷ 20, một trong những thành tựu khoa học vĩ đại nhất của loài người, sánh ngang với Thuyết tương đối của Einstein và Nguyên lý Bất định của Heisenberg,… 
Giới thiệu sách mới tại Hà Nội: ‘Định lý Godel, Nền tảng của khoa học nhận thức hiện đại’
Ấy thế mà cho đến nay…
  • Rất ít người biết đến định lý này, trong đó bao gồm nhiều nhà khoa học. 
  • Trong khi Thuyết tương đối và Nguyên lý Bất định đã trở thành kiến thức nền tảng của khoa học, được giảng dạy phổ cập tại tất cả các trường đại học, thì hầu như chưa có trường đại học nào chính thức giảng dạy Định lý Gödel! 
  • Trong khi Gödel được xem như nhà phát minh thực sự của ngôn ngữ lập trình và cấu trúc dữ liệu, ông tổ của lý thuyết thông tin, nhưng sinh viên ngành công nghệ thông tin tại nhiều nước trên thế giới không biết Định lý Gödel!
Cuốn sách “ Định lý Gödel, Nền tảng của Khoa học Nhận thức Hiện đại ” của tác giả Phạm Việt Hưng, do NXB Tri Thức xuất bản, là một nỗ lực nhỏ nhoi nhằm bù khuyết cho tình trạng trớ trêu nói trên. Đây là cuốn sách Việt ngữ đầu tiên về Định lý Gödel và về ảnh hưởng bao trùm của nó lên hết thảy các lĩnh vực khoa học hiện đại.
Thực ra, những ai đã biết rõ lịch sử khoa học thế kỷ 20 đều biết rằng Định lý Gödel đã từng bị chìm trong im lặng trong một thời gian RẤT DÀI, ít nhất trong khoảng nửa thế kỷ. Bằng chứng là mãi cho tới những năm cuối thế kỷ 20 sách báo giới thiệu về định lý này mới xuất hiện bùng nổ tại các hiệu sách ở Tây phương, mặc dù Kurt Gödel đã công bố định lý của ông lần đầu tiên trong một hội nghị khoa học ở Königsberg từ Tháng 09/1930, khi ông mới 24 tuổi!
Tại sao Định lý Gödel bị chìm trong im lặng? Có 2 nguyên nhân:
  1. Chứng minh của định lý này quá khó. Chỉ những chuyên gia giỏi thuộc chuyên ngành logic toán mới hiểu. Mặc dù ngày nay đã có những chứng minh mới đơn giản hơn chứng minh của Gödel, và định lý này đã được các nhà toán học hàng đầu diễn dịch sang những ngôn ngữ dễ hiểu hơn, nhưng về cơ bản, phần chứng minh của định lý vẫn nằm trong vương quốc đặc thù của logic toán học, nơi không phải ai cũng có thể dễ dàng thâm nhập. 
  2. Định lý Gödel mang tính chất “phê phán” toán học, đi ngược lại xu thế thời đại – xu thế đề cao tư duy lý trí, tư duy logic như một công cụ nhận thức vạn năng và duy nhất đúng! 
Trong 2 lý do trên, lý do thứ hai là chủ yếu, bởi vì việc chứng minh định lý dù khó đến mấy cũng sẽ đến lúc có thể hiểu được. Trong khi đó, Định lý Gödel không được cộng đồng toán học tiếp đón nồng hậu, đơn giản vì nó “phê phán” toán học, nó dội một gáo nước lạnh lên những ngọn lửa đang cháy hừng hực của chủ nghĩa duy lý trong toán học thế kỷ 20 mà đại biểu số 1 là David Hilbert, người được xem như một “ông thánh toán học” đương thời. 
Nếu không biết gì về Hilbert, sẽ không biết gì về toán học thế kỷ 20!
Nếu chủ nghĩa duy lý đã ra đời từ thời thượng cổ với những đại biểu xuất sắc như Euclid, Aristotle,… và đã phát triển tới đỉnh cao trong thời cận đại với những đại biểu trứ danh như René Descartes, Spinoza,… thì trong thời hiện đại nó đã kết tụ vào một đại biểu khổng lồ, hăng máu nhất, quyết liệt nhất, tự tin nhất, dứt khoát nhất, mạnh mẽ nhất, đó là David Hilbert. 
Hơn bất kỳ ai khác, Hilbert tuyên bố (nguyên văn xin xem trong sách): 
  • Trong toán học không có cái gì là tiền giả định (pre-assumption)
  • Không có bài toán nào là không giải được
  • Trong khoa học không có cái gì là không thể biết
  • Toán học không cần đến trực giác
  • We Must Know; We Will Know!
Với tinh thần duy lý tuyệt đối như thế, Hilbert đã lãnh đạo thế giới toán học đầu thế kỷ 20 đi tìm “siêu toán học” (meta-mathematics) – một hệ thống toán học tuyệt đối hoàn hảo, phi mâu thuẫn, cho phép quyết định dứt khoát mọi sự kiện toán học là trắng hay đen, đúng hay sai. 
Chương trình tìm kiếm siêu toán học được gọi là Chương trình Hilbert. Chương trình này đã tập hợp dưới ngọn cờ của mình những nhà toán học giỏi nhất đương thời, mặc dù bị chống đối quyết liệt bởi Henri Poincaré, một trong những nhà toán học vĩ đại nhất mọi thời đại. 
Nếu không có Định lý Gödel, chắc chắn đến hôm nay tư tưởng duy lý của Hilbert vẫn đang tiếp tục thống trị toán học. Nhưng năm 1931, Định lý Gödel đã chứng minh rằng Chương trình Hilbert là một cuộc phiêu lưu không tưởng! Không tồn tại siêu toán học! Toán học rốt cuộc cũng bất toàn như bất kỳ một hệ logic nào khác:
  • Tồn tại những sự thật toán học không thể quyết định được (không thể chứng minh hoặc bác bỏ)
  • Toán học không thể tự chứng minh mình là một hệ logic nhất quán (Cái đúng của toán học phải tìm ngoài toán học, Tạ Quang Bửu). 
Đó là một đòn trời giáng lên chủ nghĩa duy lý Hilbert. 
Cho tới hôm nay, vẫn không có một cuốn sách nào dám nói rằng Hilbert SAI. Riêng điều đó đủ thấy uy tín của Hilbert lớn đến chừng nào. Nhưng Định lý Gödel tự nó đã chứng minh rằng chủ nghĩa duy lý của Hilbert là SAI. Nếu không hiểu Hilbert sai như thế nào, sẽ không bao giờ hiểu bản chất thật sự của toán học nói riêng, và khoa học nói chung. Bản chất ấy thực ra đã được Blaise Pascal tổng kết từ thế kỷ 17, nhưng người đời không để ý: 
“Bước cuối cùng của lý lẽ là nhận ra rằng tồn tại vô số thứ ở phía bên kia tầm với”
Nếu muốn với tới những thứ ở bên kia tầm với, theo Pascal, phương tiện duy nhất là trực giác, cái mà ông thường gọi là “nhận biết của trái tim”. Thậm chí, Pascal đề cao trực giác hơn lý lẽ, ông nói: 
“Trái tim có những lý lẽ của nó mà lý trí chẳng hiểu gì cả”
Tư tưởng này hoàn toàn phù hợp với Albert Einstein:
“Thứ duy nhất có giá trị là trực giác”, Einstein nhấn mạnh. Thậm chí, “trực giác là món quà thiêng liêng”, Einstein nói. 
Tuy nhiên, thất bại của Hilbert là một bài học vô cùng quý giá, vì nó dạy cho chúng ta biết bản chất toán học là gì, bản chất của tư duy duy lý là gì. Hơn thế nữa, chính vì tinh thần duy lý mạnh mẽ của Hilbert đã hối thúc các nhà toán học phải tìm câu trả lời cho siêu toán học. Và thay vì tìm ra một câu trả lời thuận, Gödel đã tìm ra câu trả lời nghịch với siêu toán học! Vì thế, Greg Chaitin, nhà toán học thuộc Viện Watson của IBM nhận định: Thất bại của Hilbert là một “thất bại vinh quang” (a glory failure). 
Bi kịch là ở chỗ Hilbert không bao giờ chính thức thừa nhận Định lý Gödel. Đó là lý do để Định lý Gödel bị chìm trong im lặng trong một thời gian rất dài. 
Nhưng cái gì của Ceasar phải trả lại cho Ceasar! Sự thật phải trả về cho sự thật!
Cuối cùng thì nhân loại đã thức tỉnh để nhận ra tầm vóc khổng lồ của Định lý Gödel, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của khoa học computer. 
Computer là một hệ logic tiêu biểu nhất. Vì thế, bản chất bất toàn của các hệ logic cũng lộ ra ở computer rõ rệt nhất. Thật vậy, những sự cố không thể khắc phục của computer để lộ cho thấy một cách rõ rệt bản chất bất toàn của mọi hệ logic mà Định lý Bất toàn của Kurt Gödel đã chứng minh từ năm 1931! 
Việc nghiên cứu và áp dụng tư tưởng của Định lý Gödel từ thập kỷ cuối thế kỷ 20 tới nay đã mở ra một thế giới mới, một chân trời mới vô cùng hấp dẫn cho khoa học. Cuốn sách “ Định lý Gödel, Nền tảng của Khoa học Nhận thức Hiện đại ” đã đưa chúng ta đến những chân trời ấy, băng qua nhiều khu vực nhận thức khác nhau, từ vật lý cho tới khoa học computer, khoa học về trí thông minh nhân tạo, những nghiên cứu về bản chất của ý thức, thậm chí tới một lĩnh vực tưởng chừng chẳng có liên hệ gì với Định lý Gödel, đó là lý thuyết về nguồn gốc sự sống. Trong cuộc hành trình tới những miền đất khác nhau này, chúng ta nhận thấy một điểm chung, đó là tham vọng của con người. Khi đó, Định lý Gödel xuất hiện trong vai trò của một công cụ điều chỉnh tham vọng. Nó giúp chúng ta nhận thấy tham vọng đang theo đuổi là không tưởng hay hiện thực. 
Thật vậy, vật lý học thế kỷ 20 cũng mơ tìm thấy một lý thuyết tương tự như siêu toán học, đó là TOE (Theory of Everything), tức Lý thuyết về Mọi thứ, một lý thuyết cho phép giải thích mọi hiện tượng vật lý. 
Liệu có thể có TOE của vật lý không? Phần lớn các nhà vật lý thế kỷ 20 nghĩ rằng có, trước sau vật lý sẽ tìm thấy Chiếc Chén Thánh của nó. Bản thân Stephen Hawking cũng từng nghĩ như vậy, nhưng mãi cho đến năm 2002, sau khi thấm nhuần Định lý Gödel, ông đã thay đổi quan điểm 180 độ! Trong Chương 3, độc giả sẽ biết rõ cuộc cách mạng trong nhận thức vật lý của Hawking thông qua 2 bài báo của chính ông: 
  • Gödel & sự kết thúc của vật lý (Gödel & The End of Physics).
  • Lý thuyết về Mọi thứ, một lý thuyết khó đạt được (The Elusive TOE).
Trong bài báo thứ nhất, Hawking nói rằng chúng ta không phải là những thiên thần nhìn vũ trụ từ bên ngoài, mà ngược lại, chúng ta và những lý thuyết của chúng ta là một bộ phận của vũ trụ, do đó theo Định lý Gödel, các lý thuyết vật lý sẽ là những hệ tự quy chiếu. Vì thế, các lý thuyết này hoặc không đầy đủ, hoặc mâu thuẫn. Có nghĩa là không thể có TOE, và không thể giải thích nguồn gốc vũ trụ. Nhưng tiếc thay, cuối đời, khi viết cuốn Grand Design, Hawking lại có những phát biểu về nguồn gốc vũ trụ trái với những quan điểm của chính ông trước đó.
Năm 2012, vật lý học khám phá ra Hạt Higgs, một hạt cơ bản được mệnh danh là “Hạt của Chúa”. Sự kiện chấn động này một lần nữa làm dấy lên niềm lạc quan sắp tìm thấy TOE. Nhưng niềm lạc quan ấy nhanh chóng bị dội một gáo nước lạnh bởi một câu hỏi bất ngờ: Ai truyền khối lượng cho Hạt Higgs? Người đặt ra câu hỏi ấy là một nhà vật lý người Pháp gốc Việt: GS Phạm Xuân Yêm. Câu chuyện lý thú về hạt Higgs và về câu hỏi của GS Yêm đã được trình bày trong Chương 3. 
Đọc Chương 4, chúng ta sẽ biết vì sao Gödel được coi là nhà phát minh thực sự của ngôn ngữ lập trình và cấu trúc dữ liệu, đồng thời là Ông tổ của Lý thuyết Thông tin. Một chuyên gia nổi tiếng về công nghệ thông tin là Peter O’Hearn, giám đốc kỹ thuật của Facebook và giáo sư Đại học College London, một trong hai người đoạt Giải Gödel 2016, nói: “Định lý Gödel có ảnh hưởng lớn đến những gì các nhà khoa học computer đang làm. Nó đặt ra một giới hạn cơ bản cho các câu hỏi chúng ta có thể trả lời bằng computer. Nó… giúp chúng ta tìm ra những câu trả lời đúng, nhưng không phải tất cả các câu trả lời đúng. Đó là một điều tích cực, bởi vì nó làm cho tôi không cố gắng làm những điều ngu ngốc, không cố gắng làm những điều bất khả”. 
Một chuyên gia công nghệ thông tin ở Úc, sau khi đọc bản thảo Chương 4 của cuốn sách này, đã thốt lên: “À, thì ra là như vậy, thì ra ngọn nguồn toán học của ngôn ngữ lập trình là như vậy,…”. 
Tuy nhiên, vấn đề sau đây còn quan trọng và hấp dẫn gấp bội so với điều vừa nói: 
Cuốn sách này chỉ ra một mạch logic từ Gödel đến một vấn đề tưởng như vô cùng xa lạ đối với toán học, đó là vấn đề “bản chất thật sự của con người là gì?” 
Con người đơn giản chỉ là một động vật cao cấp hay là một cái gì khác xa như thế? 
Câu trả lời nằm trong mạch logic mà cuốn sách đã vẽ ra:
  • Định lý Gödel kích thích sự ra đời của khoa học computer. 
  • Khoa học computer và lý thuyết thông tin, đến lượt nó, lại kích thích sự ra đời của khoa học AI (Artificial Intelligence), tức khoa học trí thông minh nhân tạo.
  • Khoa học AI kích thích việc nghiên cứu bản chất của trí thông minh. 
  • Việc nghiên cứu bản chất trí thông minh kích thích việc nghiên cứu bản chất của ý thức. 
  • Việc nghiên cứu bản chất của ý thức kích thích việc tìm câu trả lời cho câu hỏi “bản chất con người là gì?”. 
Mạch logic nói trên được mô tả thông qua những câu chuyện lý thú về những cuộc đọ sức trí tuệ giữa computer với con người: 
  • Thí nghiệm Turing, 
  • Cuộc đấu cờ lịch sử giữa vua cờ Garry Kasparov với Deep Blue, 
  • Chỗ đứng thực sự của con người là ở đâu?
  • Trực giác mới là thế mạnh thực sự của con người
Hoá ra việc nghiên cứu “tư duy” của computer lại giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản thân mình! Xem thế đủ thấy khoa học computer không chỉ có ý nghĩa giúp con người trút bớt gánh nặng tư duy xuống cho tên nô lệ của mình là computer, mà còn để trả lời câu hỏi quan trọng nhất trong tất cả các câu hỏi: “Con người là gì?”. Đó là câu hỏi thuộc bản thể luận, xưa nay thuộc về triết học, văn học, sinh học. Nhưng bây giờ Định lý Gödel giúp chúng ta một cách vô cùng đắc lực trong việc tìm câu trả lời cho câu hỏi khó nhất đó. 
Vì thế, Chương 4 có thể sẽ làm hài lòng không chỉ những em bé ngây thơ hiếu kỳ, mà sẽ còn thoả mãn các nhà triết học thâm trầm khó tính.
Đối với một số người, và có thể là rất nhiều người, Chương 5 có thể là chương gây nên nhiều tranh cãi nhất, chứa đựng nhiều điều bất ngờ nhất, vì không mấy ai nghĩ rằng một định lý toán học như Định lý Gödel lại có thể có ý nghĩa rất quan trọng đối với một lý thuyết sinh học xa lạ với nó như Thuyết Phi Tạo Sinh (Abiogenesis) – một lý thuyết về nguồn gốc sự sống, trong đó cho rằng sự sống đầu tiên đã hình thành một cách tự phát và ngẫu nhiên từ vật chất vô sinh. 
Bằng lập luận logic dựa trên Định lý Gödel, tác giả Phạm Việt Hưng chứng minh rằng Thuyết Phi Tạo Sinh là bất khả thi. Khẳng định này không dừng lại ở suy luận triết học, mà được hỗ trợ bởi một loạt luận cứ khoa học chính xác:
  • Định luật Tạo sinh do Louis Pasteur khám phá năm 1861
  • Định luật Bất Đối Xứng của Sự Sống do Louis Pasteur khám phá năm 1848
  • Xác suất sự sống hình thành ngẫu nhiên từ vật chất không sống. 
  • Mã DNA và Lý thuyết Thông tin
  • Định luật 2 của Nhiệt động lực học (Định luật Entropy)
  • Nghịch lý Con gà / Quả trứng
Tóm lại, kết luận rút ra từ hệ quả của Định lý Gödel hoàn toàn phù hợp với những định luật cơ bản của sinh học và những luận cứ toán học và vật lý học. Đó là lý do để những thí nghiệm lớn về nguồn gốc sự sống tự phát như Thí nghiệm Urey-Miller năm 1953 và Thí nghiệm của Jack Szostak năm 2016 đều thất bại! 
Thí nghiệm Urey-Miller 1953 thất bại vì không thể tạo ra acid amin bất đối xứng, một đòi hỏi bức thiết của sự sống. 
Thí nghiệm Szostak 2016 thất bại vì không thể chứng minh RNA có khả năng tự sao chép mà không cần enzymes!
Hơn thế nữa, câu hỏi “nguồn mã DNA là gì?” đã dồn Thuyết Phi Tạo Sinh đến bước đường cùng!
Tất cả những gì được đề cập trong bài giới thiệu này đều chỉ là những tóm tắt rất sơ lược của những sự kiện khoa học lớn trình bày trong cuốn “ Định lý Gödel, Nền tảng của Khoa học Nhận thức Hiện đại ”. Để thoả mãn sự hiểu biết, độc giả nên tìm đọc trực tiếp cuốn sách này. 
Hy vọng cuốn sách này sẽ là một món ăn tinh thần thú vị và bổ dưỡng cho trí tuệ, giúp độc giả hiểu được vì sao Gödel và Định lý Gödel nhận được những đánh giá rất đặc biệt sau đây:
  • Kurt Gödel là một trong hai nhà toán học vĩ đại nhất thế kỷ 20 (Tạp chí TIME 31/12/1999)
  • Gödel là nhà logic vĩ đại nhất kể từ Aristotle (John von Neumann, Giáo sư Viện nghiên cứu cao cấp Princeton, tác giả thiết kế 2 chiếc máy tính điện tử đầu tiên của Mỹ, ENIAC và EDVAC)
  • Thành tựu của Kurt Gödel trong logic hiện đại vô cùng độc đáo và kỳ vĩ – thực ra nó còn hơn cả một tượng đài, đó là một cột mốc sẽ được tiếp tục nhìn thấy từ xa trong không gian và thời gian… Với thành tựu của Gödel, đối tượng của logic chắc chắn đã hoàn toàn thay đổi bản chất và khả năng của nó (John von Neumann)
  • Định lý Bất toàn của Gödel là một trong những khám phá khoa học vĩ đại nhất thế kỷ 20, sánh ngang với Thuyết tương đối của Einstein và Nguyên lý Bất định của Heisenberg (The New Yorker, 29/06/2016)
  • Định lý Bất toàn của Gödel là khám phá toán học số 1 của thế kỷ 20 (Perry Marshall)
  • Gödel là nhà phát minh thực sự của ngôn ngữ lập trình và cấu trúc dữ liệu (Douglas Hofstadter, Giáo sư về khoa học nhận thức tại Đại học Stanford, tác giả cuốn sách đoạt Giải Pulitzer 1978 “Gödel, Escher, Bach”). 
  • Ông tổ của Lý thuyết Thông tin và có lẽ là gương mặt chủ yếu của lịch sử tư tưởng nhân loại hiện nay (George Gilder, một nhà kinh tế, tác giả nhiều cuốn sách nổi tiếng, sáng lập viên của Viện Discovery)
  • Tôi “đến viện nghiên cứu chỉ cốt để có vinh dự được đi bộ về nhà cùng với Gödel” (Albert Einstein).
Tác giả: GS Phạm Việt Hưng
Sự thật về thuyết tiến hóa: Nhà sinh học đoạt giải Nobel cũng phạm sai lầm
GS Phạm Việt Hưng. (Ảnh: photobucket)
Giáo sư Phạm Việt Hưng từng giảng dạy các môn Toán Kinh tế; Cơ học Lý thuyết; Sức bền Vật liệu; Toán luyện thi đại học. Hiện ông đang thỉnh giảng Toán cao cấp tại một đại học ở Việt Nam. Ông đang có nhiều hoạt động báo chí với nhiều bài viết được đăng trên nhiều báo in và báo mạng, ví như Khoa học & Đời sống của Hội Liên hiệp Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam, Tạp chí Vật lý Ngày nay của Hội Vật lý Việt Nam, Tạp chí Tia Sáng của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Trang mạng Vietsciences.
Website: viethungpham.com

Bí quyết công nghệ: Dùng đá lạnh tăng lực ‘thần tốc’ cho iPhone


Bí quyết công nghệ: Dùng đá lạnh tăng lực ‘thần tốc’ cho iPhone

Nếu bạn từng phải cài lại máy (restore) các thiết bị iDevices, bạn sẽ nhận thấy rằng đó là một quá trình chờ đợi rất lâu. Nhưng quá trình này sẽ nhanh hơn rất nhiều nếu bạn biết sử dụng đá lạnh. 
Theo trang genk.vn , sở dĩ việc cài lại máy chậm là do CPU của iPhone khi hoạt động hết công suất trong một thời gian nhất định sẽ bị nóng và giảm hiệu năng (throttling). Chính vì vậy, việc ‘kẹp’ iPhone giữa những viên đá mát lạnh sẽ làm cho quá trình cài đặt nhanh hơn rất nhiều.. Justin Searls, người phát hiện ra điều này đã chia sẻ trên Twitter cá nhân của anh như: ‘Thực sự rất hiệu quả, nó làm giảm thời gian cài đặt xuống còn một nửa.’
Bí quyết công nghệ: Dùng đá lạnh tăng lực ‘thần tốc’ cho iPhone
Nhưng Justin Searls cũng khuyến cáo người dùng nên cẩn thận khi làm theo thủ thuật này, không nên để thiết bị bên trong tủ đá vì đá có thể tan chảy khiến cho các linh kiện điện tử bị hỏng. Điều này rất quan trọng bởi các dòng iPhone và iPad thế hệ cũ, chúng không được trang bị tính năng chống nước. Người dùng cũng có thể để chúng vào túi zip hoặc dùng đá khô để tránh hiện tượng này.
Ngăn mát tủ lạnh là một trong những giải pháp “hạ hỏa” tạm thời cho chiếc iPhone
Bí quyết công nghệ: Dùng đá lạnh tăng lực ‘thần tốc’ cho iPhone
Nếu muốn “hạ hoả” iPhone nhanh chóng, hãy để điện thoại “giải lao” 15 phút cho hạ nhiệt và đặt vào tủ lạnh. (Ảnh: vitrino.com)
Theo trang   saostar.vn . Điện thoại hoạt động Wi-Fi liên tục trong thời gian dài sẽ khiến chip thu sóng Wi-Fi bị nóng lên nhất thời và xảy ra tình trạng lỗi Wi-Fi. Những lúc này, tốt nhất bạn nên tắt nguồn iPhone và chuyển sang sử dụng các thiết bị điện tử khác.
Nếu bạn vẫn muốn sử dụng điện thoại vì tính linh hoạt của nó, hãy để điện thoại “giải lao” 15 phút cho hạ nhiệt và đặt vào tủ lạnh. Cách này sẽ làm giảm nhiệt độ của iPhone một cách nhanh chóng và nhanh hơn so với việc để ngoài không khí. Tuy nhiên, cũng giống như ở trên, bạn cần chỉ nên áp dụng với ngăn mát tủ lạnh (hoặc sử dụng nước đá khô).
Lưu ý: Đây chỉ là một phương án tạm thời. Nếu iPhone thường xuyên bị lỗi kết nối Wi-Fi, thì tốt nhất bạn nên đến trung tâm bảo trì để kiểm tra các thành phần bên trong máy. Để đảm bảo điện thoại được bền bỉ, bạn nên sử dụng đúng cách, luôn giữ máy ở hiệu suất nhất định, tránh sử dụng quá nhiều tính năng cùng lúc nhằm tránh gây hại cho các linh kiện bên trong.
Thủy Chi

Mắt người có khả năng phát hiện các hạt lượng tử và sự tồn tại của ‘con mắt thứ ba’


Mắt con người có khả năng phát hiện các hạt lượng tử và sự tồn tại của ‘con mắt thứ ba’

Nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh những khả năng đặc biệt của mắt người.
Người ta vẫn nhìn nhận rằng, mắt người có khả năng hạn chế khi chỉ nhìn thấy được các vật thể hiện hữu trong không gian này. Muốn nhìn thấy các lớp hạt siêu nhỏ bằng mắt thường là điều không thể. Nhưng một số nghiên cứu trong nhiều năm qua chứng minh rằng, mắt người thậm chí có khả năng phát hiện các hạt ở mức độ lượng tử.
Mắt con người có khả năng phát hiện các hạt lượng tử và sự tồn tại của ‘con mắt thứ ba’
Trước đây, việc nhìn thấy các lớp hạt siêu nhỏ bằng mắt thường được cho là không thể. (Ảnh: qua pixabay / Muff 1.0)
Phát hiện được các hạt lượng tử
Các thí nghiệm kiểm chứng mắt người có khả năng phát hiện các hạt như photon hay không đã có từ vài thập kỷ trước. Một nhóm các nhà nghiên cứu từ Đại học Columbia đã báo cáo vào năm 1941 cho biết mắt người có khả năng nhìn thấy một tia sáng từ 5 photon đáp xuống võng mạc. Khoảng 30 năm sau, nhà sinh lý học Barbara Sakitt từ Đại học California, cũng cho rằng mắt người có thể nhìn thấy các photon. Tuy nhiên, kết luận của các nhà nghiên cứu này không có bằng chứng đáng tin cậy. Do vậy, khả năng mắt người có thể nhìn thấy các hạt lượng tử phần lớn vẫn ở dạng lý thuyết mơ hồ.
Vào năm 2015, Rebecca Holmes, một nhà vật lý từ Đại học Illinois tại Urbana-Champaign và nhóm nghiên cứu của cô đã tiến hành các thí nghiệm với nỗ lực giải khai bí ẩn này. Họ đã viện đến các công nghệ mới nhất thường được sử dụng trong các phòng thí nghiệm quang học lượng tử có khả năng xác định số lượng photon trong một tia laser.
Mắt con người có khả năng phát hiện các hạt lượng tử và sự tồn tại của ‘con mắt thứ ba’
Năm 2015, các nhà nghiên cứu từ Đại học Illinois tại Urbana-Champaign đã tiến hành các thí nghiệm để xác định liệu các tình nguyện viên có thể nhận biết các photon hay không. (Ảnh: YouTube)
Họ mời một nhóm tình nguyện viên đứng trong khu vực nhiều ánh sáng, với mỗi đèn flash chứa 30 photon. Các tình nguyện viên phải đoán xem ánh đèn flash là từ bên trái hay bên phải trong khi nhìn chằm chằm vào mục tiêu X. Các nhà nghiên cứu kỳ vọng ​​10 phần trăm các photon này sẽ đi vào võng mạc của tình nguyện viên. Kết quả, các tình nguyện viên có thể đoán hướng đi của ánh đèn flash chính xác hơn so với trong trường hợp bình thường, cho thấy mắt họ thực sự đã phát hiện được các tia sáng 3 photon.
Năm 2016, Alipasha Vaziri, một nhà vật lý tại Đại học Rockefeller, đã thực hiện một thí nghiệm tương tự. Lần này, mục đích của thử nghiệm là kiểm chứng xem liệu con người có thể phát hiện ra những tia sáng chỉ chứa 1 photon hay không.
“Ba tình nguyện viên ngồi trong bóng tối hoàn toàn khoảng 40 phút và nhìn chằm chằm vào một hệ thống quang học. Khi họ nhấn nút, họ nghe thấy hai âm thanh, cách nhau một giây. Thỉnh thoảng, khi âm thanh phát ra một photon sẽ phát xạ. Những người tham gia phải cho biết khi nào thì họ nghĩ rằng họ đã nhìn thấy một photon và họ chắc chắn về điều đó đến mức nào (trên thang điểm từ 1 đến 3). Trong rất nhiều trường hợp, họ đã đoán sai. Tuy nhiên, những người tham gia thí nghiệm đã trả lời đúng nhiều hơn so với tỷ lệ dự đoán ngẫu nhiên – và mức độ chắc chắn của họ cao hơn khi họ trả lời đúng”, theo Nature.
Mắt con người có khả năng phát hiện các hạt lượng tử và sự tồn tại của ‘con mắt thứ ba’
Một nghiên cứu do Zlatko Minev từ Đại học Yale dẫn đầu đã chỉ ra rằng bước nhảy lượng tử thực sự là một quá trình dần dần. (Ảnh: YouTube)
“Phát hiện của chúng tôi, phù hợp với các giả thuyết cơ bản về việc không có các thông số có thể điều chỉnh, hỗ trợ lý thuyết quỹ đạo lượng tử hiện đại và sẽ cung cấp nền tảng mới cho việc khám phá các kỹ thuật can thiệp vào thời gian thực trong việc kiểm soát các hệ lượng tử, như phát hiện sớm các hội chứng lỗi trong việc sửa lỗi lượng tử”, các nhà nghiên cứu nói một cách trừu tượng (Theo Nature).
Thí nghiệm không chỉ giới hạn trong việc tìm hiểu bản chất của thời gian trong một bước nhảy lượng tử. Các nghiên cứu cũng có khả năng “làm gián đoạn” một bước nhảy lượng tử giữa chừng và đảo ngược nó. Những gì trước đây từng được coi là ngẫu nhiên trong vũ trụ lượng tử thì giờ đây đã được chứng minh là có thể kiểm soát được.
Không chỉ có khả năng phát hiện các hạt lượng tử, mắt người còn có những khả năng siêu thường khác mà khoa học hiện đại cũng phải thừa nhận..
Bịt mắt mà vẫn làm được mọi việc – khả năng dị thường của con người
Khái niệm “con mắt thứ ba” đã được nhắc tới từ khá lâu trong nhiều tôn giáo và tín ngưỡng. Người có “con mắt thứ ba” khai mở là người có khả năng đặc biệt: vẫn có thể làm mọi việc, nhìn mọi thứ dù bị bịt kín cả hai con mắt. Trên thế giới và tại Việt Nam đã có khá nhiều trường hợp là minh chứng chân thực và thuyết phục cho sự tồn tại của “con mắt thứ ba”. 
Trên thế giới đã ghi nhận trường hợp của cô bé 9 tuổi người Ấn Độ là người có được khả năng dị thường này. Cô bé Yogamaatha có thể đọc được một cách chính xác mọi thứ dù bị bịt kín cả hai mắt. Khả năng đặc biệt của em đã được kiểm chứng trước sự chứng kiến của nhiều người.
Mắt con người có khả năng phát hiện các hạt lượng tử và sự tồn tại của ‘con mắt thứ ba’
(Ảnh: Boldsky.com)
Mắt con người có khả năng phát hiện các hạt lượng tử và sự tồn tại của ‘con mắt thứ ba’
(Ảnh: Sia Magazin)
Vùng Nam Hải, Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông, có một bé gái 8 tuổi tên là Tiểu Vi có thể đọc sách, viết chữ trong khi bị bịt kín mắt lại. Khi ký giả hỏi cô bé rằng có thể làm được những gì nếu che mắt lại, cô bé trả lời rằng có thể làm được bất cứ gì.
Còn tại Việt Nam, một trường hợp nổi tiếng đã gây xôn xao giới khoa học nhiều năm qua là chị Hoàng Thị Thiêm sinh năm 1970, trú tại xóm Mới, thôn Bùi Trám, xã Hòa Lương, Lương Sơn, Hòa Bình. Chị Thiêm là một nhà ngoại cảm có tiếng, đã từng hợp tác với Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. 
Chị Hoàng Thị Thiêm khiến nhiều người chứng kiến phải trầm trồ kinh ngạc khi bị bịt kín cả hai mắt mà vẫn có thể đọc sách báo, thậm chí đi xe máy và làm mọi việc như bình thường. Đã có nhiều cuộc kiểm tra, khảo sát công khai của các cơ quan nghiên cứu khoa học đối với chị.
Mắt con người có khả năng phát hiện các hạt lượng tử và sự tồn tại của ‘con mắt thứ ba’
Chị Hoàng Thị Thiêm trước hàng chục phóng viên các báo đài, truyền hình khảo cứu, phỏng vấn, ghi hình…(Ảnh dẫn qua doisongphapluat.com)
 Năm 2007, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người đã thực hiện nhiều cuộc khảo sát với sự chứng kiến của nhiều người về khả năng dị thường này của chị. Họ đi đến kết luận rằng, chị Hoàng Thị Thiêm thật sự có khả năng nhìn mọi vật dù bị bịt mắt thông qua một điểm nằm phía trên sống mũi, giữa hai lông mày (trong nhân thể học gọi là ấn đường). 
Mắt con người có khả năng phát hiện các hạt lượng tử và sự tồn tại của ‘con mắt thứ ba’
Chị Hoàng Thị Thiêm lái xe máy trong trạng thái bị bịt mắt. (Ảnh: kienthuc.net.vn)
Lần gần đây nhất là năm 2015, một nhóm các nhà khoa học tại Viện Vật lý – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã phối hợp với Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người một lần nữa tiến hành kiểm tra với chị. Trong lần kiểm tra này, lại một lần nữa chị khiến những người chứng kiến phải tâm phục khẩu phục khả năng đặc biệt của mình khi có thể nhận biết hình dáng, màu sắc của các vật thể, thậm chí có thể nối 5 điểm thành hình một ngôi sao trong hoàn cảnh vẫn bịt cả hai mắt. Ngoài ra, các nhà khoa học ở các nước như Đức, Pháp, Nhật, Hàn Quốc đã mời chị sang để kiểm chứng khả năng siêu thường của chị. Tất cả đều phải gật đầu thán phục.
Mắt con người có khả năng phát hiện các hạt lượng tử và sự tồn tại của ‘con mắt thứ ba’
Chị Hoàng Thị Thiêm trong buổi phát sóng trực tiếp tại đài truyền hình NHK Nhật Bản (Ảnh chụp màn hình youtube)
Chị Hoàng Thị Thiêm cho biết, chị có khả năng này từ khi còn nhỏ nhưng do lúc đó nghĩ rằng ai cũng như mình nên chị không nói ra. Ngoài ra, chị Thiêm còn có khả năng giao tiếp được với người đã chết. Bằng khả năng này của mình, chị đã giúp nhiều gia đình tìm lại mộ thân nhân đã thất lạc hoặc tìm được xác người chết đuối.
“Con mắt thứ ba” có thể nhìn được cự ly xa 
Không chỉ nhìn được mọi vật dù bịt kín mắt, những người có “con mắt thứ ba” còn có khả năng nhìn được từ cự ly xa (trong khí công gọi là công năng dao thị). Năm 1995, Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA giải mật và chấp thuận công bố một số tài liệu tiết lộ về việc tham gia một chương trình bí mật có tên Stargate kéo dài 25 năm. Ghi nhận trong nghiên cứu cho biết, Ingo Swann , một người tham gia chương trình này có thể nhìn thấy được các vòng tròn đặc trưng bao quanh sao Mộc trước khi NASA chụp ảnh nó bằng tàu không gian Pioneer 10. Một số cá nhân cũng có thể nhìn được vật thể và con người ở các phòng riêng biệt, vốn hoàn toàn bị chặn từ vị trí người quan sát.
Mắt con người có khả năng phát hiện các hạt lượng tử và sự tồn tại của ‘con mắt thứ ba’
Ingo Swann. (Ảnh: ĐKN)
Ngoài ra, còn rất nhiều báo cáo ghi nhận về những trường hợp có khả năng tương tự ở nhiều nơi trên thế giới cho thấy sự tồn tại của “con mắt thứ ba” không phải là điều gì đó mê tín.
Tác dụng của “con mắt thứ 3” khác với chức năng của con mắt thông thường. Con mắt này có những năng lực siêu nhiên như “tha tâm thông” và “dao thị”, tức là có thể biết trước được sự việc tương lai hay nhìn xuyên thấu qua các không gian.
Vậy “con mắt thứ ba” tồn tại như thế nào?
Trong nhiều tôn giáo và tín ngưỡng, đặc biệt trong giới tu luyện đã từ lâu nhắc tới sự tồn tại của “con mắt thứ ba”. Tổ sư của tôn giáo Sikh (Ấn Độ) đã từng nói rằng “con mắt thứ ba” là một bộ phận trong thân thể người, có thể biết trước mọi chuyện. Các nhà triết học Hy Lạp cổ cũng cho rằng, “con mắt thứ ba” nằm ở bộ vị trung tâm của đại não, là cánh cổng mà năng lượng vũ trụ tiến nhập vào cơ thể người.
Mặc dù sự hiểu biết của con người về “con mắt thứ ba” còn vô cùng hạn chế nhưng cho đến nay, khoa học hiện đại đã công nhận rằng, phía trước tuyến tùng quả trong bộ não cũng có một cấu trúc giống y hệt con mắt người. Các nhà khoa học phát hiện, “con mắt thứ 3” chính là cái được gọi là “con mắt thoái hóa”. Khi phôi thai của con người phát triển đến tháng thứ 2, tức là giai đoạn hình thành tế bào thần kinh trong bộ phận cảm quang và khu vực giữa não, thì xuất hiện “con mắt thứ 3”, nhưng nó vừa mới xuất hiện, lập tức thoái hóa, cuối cùng trở thành thể tùng quả lớn như hạt đậu ở trước tiểu não.
Mắt con người có khả năng phát hiện các hạt lượng tử và sự tồn tại của ‘con mắt thứ ba’
Ảnh chụp thể tùng bị vôi hóa (ảnh: phytoactive.net)
Các nhà khoa học còn chứng thực được thể tùng quả có đầy đủ kết cấu tổ chức hoàn chỉnh của một con mắt, hơn nữa còn có an-bu-min phân biệt ánh sáng và màu sắc. Nhà sinh vật học ở Saint Petersburg nước Nga đã phát hiện, tế bào tổ hợp thành thể tùng quả tương tự như những tế bào sắc tố của võng mạc, có thể tiết ra Serotonin và Melatonin. Melatonin được tiết ra vào ban đêm, có tác dụng giữ bình tĩnh, Serotonin thông thường tiết ra vào ban ngày, có thể kích thích hoạt tính của cơ thể. Nghiên cứu này đã từng được công bố ở Hiệp hội Lão khoa Quốc tế được tổ chức ở Vancouver, Canada.
Vậy vì sao chỉ ở một số ít người “con mắt thứ ba” mới khởi tác dụng. Y học đã phát hiện rằng thể tùng quả của hầu hết mọi người đều bị vôi hóa. Thể tùng quả của người trưởng thành bị vôi hóa giống như một cục canxi nằm ở giữa não bộ. Nguyên nhân của việc vôi hóa được cho là do con người hiện nay vẫn đưa vào cơ thể hàng ngày các chất Flo/Clo qua nước uống, thức ăn, kem đánh răng… Nhiều nhà khoa học tin rằng sự vôi hoá thể tùng làm mù “con mắt thứ ba”, ngăn cản chúng ta có được các năng lực đặc biệt. Những người thực hành tu luyện nhìn nhận rằng, “con mắt thứ ba” của trẻ em dưới sáu tuổi rất dễ khai mở do trẻ em ở độ tuổi này còn rất ngây thơ, trong trắng. Giải thích này khá trùng hợp với phát hiện của giới khoa học: trẻ em dưới6 tuổi thì thể tùng quả ít bị vôi hóa , còn thanh niên trưởng thành hầu hết có thể tùng quả bị vôi hóa.
Mắt con người có khả năng phát hiện các hạt lượng tử và sự tồn tại của ‘con mắt thứ ba’
Trẻ em từ sáu tuổi trở xuống được xem là những người có con mắt thứ ba dễ được khai mở nhất (ảnh: crystallinks)
Các nhà khoa học phát hiện, những người dành trọn cả đời cho tôn giáo hoặc thích trầm tư, thân thể sẽ phát sinh những biến đổi về hoóc-môn, khiến cho phần sọ trở nên mỏng. Như vậy sẽ khiến cho việc tiếp thụ năng lượng đến từ vũ trụ của thể tùng quả trở nên dễ dàng hơn. Rất nhiều người, đặc biệt những người tu luyện giữ gìn tâm tính có thể có được loại công năng đặc biệt này. Con người, nếu có thể khai mở được “con mắt thứ ba” này thì mới đúng là nhìn được những điều chân thực của nhân loại và vũ trụ. 
Vy Huy

Không có nhận xét nào: