Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2024
Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2024
Marie Curie – Nhà Khoa Học Vĩ Đại và Những Di Sản Để Lại
Marie Curie là người phụ nữ đầu tiên nhận Giải Nobel và bà cũng là người duy nhất được trao giải này hai lần. Bà là nữ giáo sư đầu tiên tại Sorbonne và trong nhiều năm là người phụ nữ duy nhất tại đây. Sau này, khi không còn có thể ăn mừng giải thưởng của mình, bà đã trở thành người phụ nữ đầu tiên được chấp nhận vào Panthéon, lăng mộ tráng lệ dành cho những vĩ nhân của Pháp, mặc dù bà không phải là nam giới và đã sinh ra, lớn lên tại Ba Lan.
Cuối thế kỷ 19, Marie Sklodowska và chồng bà, Pierre Curie, đã phát hiện ra một chất phát ra bức xạ mạnh gấp bốn trăm lần uranium. Họ đặt tên cho nó là polonium, nhằm tôn vinh quê hương của Marie. Không lâu sau đó, họ đã tạo ra thuật ngữ "phóng xạ" và bắt đầu các thí nghiệm với radium, chất mạnh gấp ba ngàn lần uranium. Cả hai đã cùng nhau nhận Giải Nobel cho những đóng góp của mình.
Pierre Curie đã từng nghi ngờ: liệu họ có đang mang đến một món quà từ thiên đường hay địa ngục? Trong một hội nghị ở Stockholm, ông đã cảnh báo rằng trường hợp của Alfred Nobel, người sáng chế ra thuốc nổ, là một ví dụ điển hình: "Các loại thuốc nổ mạnh đã cho phép nhân loại thực hiện những công trình đáng ngưỡng mộ. Nhưng chúng cũng là một phương tiện tàn phá đáng sợ trong tay những kẻ tội phạm lớn, những người kéo mọi người vào chiến tranh."
Chẳng bao lâu sau, Pierre đã bị một chiếc xe chở bốn tấn trang thiết bị quân sự tông chết. Marie đã sống sót sau ông, nhưng cơ thể bà đã phải trả giá cho những thành công của họ. Bức xạ đã gây ra bỏng, vết thương và cơn đau dữ dội, cho đến khi bà cuối cùng qua đời vì thiếu máu ác tính.
Start
Câu chuyện bắt đầu với Alexander Đại đế, người đã chinh phục hầu hết thế giới được biết đến vào thời của ông. Campaspe, một trong những thiếp của Alexander, nổi tiếng với sắc đẹp tuyệt trần. Nhưng bên cạnh quyền lực quân sự, Alexander còn có lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với nghệ thuật. Ông mời Apelles, một trong những họa sĩ lừng danh nhất của thời kỳ cổ đại, đến để vẽ chân dung của Campaspe.
Để Apelles có thể nắm bắt trọn vẹn vẻ đẹp của Campaspe, Alexander đã ra lệnh cho nàng cởi bỏ trang phục trước mặt người họa sĩ. Trong khoảnh khắc ấy, Campaspe không chỉ là một người phụ nữ, mà trở thành hiện thân của cái đẹp trong nghệ thuật – tinh khiết, hoàn mỹ và đầy cảm xúc. Apelles, khi cầm cọ vẽ trước Campaspe, không chỉ vẽ nên một bức chân dung, mà dường như đã đắm mình vào sự quyến rũ của nàng, đến mức ông phải lòng người mẫu của mình.
Alexander, khi nhận thấy tình cảm của Apelles dành cho Campaspe, đã quyết định một hành động đầy nhân văn và cao thượng. Ông nhượng lại nàng cho Apelles, vì ông hiểu rằng tình yêu mà họa sĩ dành cho Campaspe không chỉ là yêu một con người, mà còn là yêu vẻ đẹp vĩnh cửu mà nghệ thuật đã khắc ghi. Tình yêu này không thuộc về quyền lực của vua chúa, mà thuộc về những tâm hồn tìm kiếm cái đẹp.
Bức tượng của Ottin tái hiện chính khoảnh khắc Campaspe cởi bỏ lớp trang phục, ánh mắt hướng về Apelles, và đôi bàn tay họa sĩ nắm chặt cây cọ, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp vượt qua mọi khuôn khổ trần tục. Tác phẩm không chỉ nói về vẻ đẹp của Campaspe, mà còn tôn vinh sự cao cả của nghệ thuật và mối quan hệ tinh tế giữa nghệ sĩ và cảm hứng sáng tạo. Đặt tại mặt tiền phía bắc của Cour Carrée, Louvre, bức tượng trường tồn với thời gian, kể lại câu chuyện về tình yêu, nghệ thuật và lòng vị tha của Alexander Đại đế.
Nguồn Fb Trd Xuan -ST
Tristan da Cunha là một phần của quần đảo nằm ở Nam Đại Tây Dương. Hòn đảo cách khu định cư gần nhất của con người, đảo Saint Helena, khoảng 2.400 km (1.500 dặm). Nó cũng cách Nam Phi khoảng 2.800 km (1.750 dặm) và cách Nam Mỹ hơn 3.200 km (2.000 dặm). Mặc dù vô cùng biệt lập, hòn đảo này vẫn là nơi cư trú của khoảng 260-270 người, chủ yếu sống ở một khu định cư nhỏ gọi là "Edinburgh của Bảy Biển."
Hòn đảo là một lãnh thổ hải ngoại của Anh, và dân cư của nó là hậu duệ của một số gia đình định cư ở đây từ thế kỷ 19. Cuộc sống trên Tristan da Cunha chủ yếu xoay quanh nông nghiệp tự cung tự cấp và đánh cá, với một số hoạt động thương mại và du lịch hạn chế. Cư dân trên đảo nổi tiếng với sự tự túc của họ, dù họ vẫn phụ thuộc vào các tàu cung cấp định kỳ và các liên kết liên lạc với thế giới bên ngoài.
Tristan da Cunha nổi tiếng với nguồn gốc núi lửa của nó, với một đỉnh núi lớn ở trung tâm cao hơn 2.000 mét (6.700 feet) so với mực nước biển. Dù hòn đảo rất đẹp, cuộc sống ở đây khá thách thức do sự biệt lập, thời tiết khắc nghiệt và cơ sở hạ tầng hạn chế. Hòn đảo không có sân bay, vì vậy cách duy nhất để đến đây là bằng đường biển, và có thể mất vài ngày từ cảng gần nhất.
Start
Vào đầu thế kỷ 20, những công nhân trên núi Washington ở New Hampshire đã sử dụng một phương tiện gọi là "Cog Slide" để xuống những sườn dốc nghiêng của ngọn núi, đây là một phương pháp vừa hồi hộp vừa thiết thực để vượt qua địa hình hiểm trở. "Cog Slide" là một tấm ván gỗ hoặc một thiết bị giống như xe trượt, được thiết kế cho các công nhân bảo trì Đường sắt Cog Mount Washington, loại đường sắt này đã hoạt động từ năm 1869. Đây là đường sắt tiêu chuẩn hẹp đầu tiên trên thế giới, cho phép du khách lên đến đỉnh núi Washington, đỉnh cao nhất ở Đông Bắc Hoa Kỳ.
Đường sắt Cog là một thành tựu kỹ thuật quan trọng, nhưng nó cần được bảo trì liên tục do điều kiện thời tiết khắc nghiệt và độ dốc cao. Những công nhân được giao nhiệm vụ bảo trì đường ray, hay còn gọi là "brakemen," đã sử dụng Cog Slide để di chuyển nhanh chóng xuống núi sau một ngày sửa chữa hoặc kiểm tra. Thiết bị này chạy trên cùng một đường ray với đường sắt, được trang bị một hệ thống phanh tay đơn giản giúp công nhân kiểm soát tốc độ khi xuống dốc.
Chuyến đi trên Cog Slide vừa nguy hiểm vừa thú vị. Xuống núi với tốc độ có thể đạt tới 96 km/h, các công nhân phải dựa vào kỹ năng và phản xạ của mình để điều khiển phanh tay và tránh mất kiểm soát. Cấu trúc gỗ của chiếc trượt kết hợp với các thanh ray bằng thép tạo ra một chuyến đi mượt mà nhưng đầy nguy hiểm xuống những sườn dốc. Các công nhân sẽ phải ngồi thấp trên slide, giữ thăng bằng khi họ lao nhanh xuống núi, gió thổi ào ào bên cạnh.
Phương pháp xuống dốc này vừa là một giải pháp thực tiễn cho công nhân, vừa là minh chứng cho tinh thần phiêu lưu của thời kỳ đó. Mặc dù đây là cách hiệu quả để di chuyển trên địa hình hiểm trở của ngọn núi, nó cũng thể hiện tính táo bạo của ngành đường sắt thời kỳ đầu trong một trong những môi trường khắc nghiệt nhất ở Mỹ.
Start
Thứ Năm, 24 tháng 10, 2024
CHỊ HAI CUA ĐỒNG
tìm được nhà nhau một cách dể dàng bằng phương thức hỏi thăm tên. Vì thế khi hỏi nhà Hai Cua Đồng thì sẽ có ngay một cậu nhóc dẫn bạn đến tận nhà.
Không phải chị Hai là người nổi tiếng hay giàu có gì, thậm chí chị khá nghèo so với những người khác và hình thức thì cũng không hơn ai.
Không nhiều người biết tên thật của chị nên ngày từ nhỏ, khi chị chuyên đi bắt cua bán cho mấy bà bún riêu ở chợ, cái tên Hai Cua Đồng có từ đó.
Theo lời bà Tư kể thì chị Hai khi còn nhỏ là đứa trẻ nhìn xinh xắn như bao đứa con nít khác. Rồi nhà chị xảy ra hoả hoạn, ba chị mất mạng, chị cũng bị lửa táp phỏng nặng. Sau đó di chứng xảy ra khiến chị bị nhiều vết sẹo lớn và chân rút gân khiến dáng đi của chị không bìnhthường, ngay thẳng như người khác.
Năm chị mười lăm tuổi, má chị qua đời bởi nhiều năm đau bệnh, bỏ chị trơ trọi trên cõi đời với mái nhà xiêu vẹo. Tùy hình dáng xấu xí làm nhiều đứa con nít khác khiếp sợ và trải qua nhiều biến cố như thế nhưng chị
Hai không lấy làm buồn phiền.. Ai cũng nhìn nhận chị là người tốt với chòm xóm, nhà ai có chuyện, chị tới giúp như người nhà của mình.
Năm chị 27 tuổi, buổi chiều như bao ngày chị đi bắt cua về rồi đem giao cho mấy bà ở chợ. Nhưng khi trở về nhà vào chập choạng tối, ngang qua khu nghĩa địa, chị nghe tiếng con nít khóc. Chị sởn cả tóc gáy khi nhớ đến những câu chuyện bà con kể quanh nghĩa địa này và thầm nghĩ lẽ nào có ma…
Chị cố gắng bước nhanh. Tiếng con nít vẫn vọng theo gió kéo bước chân chị. Chị đắn đo “lý nào sớm vậy có ma”. Ma có nhát ai chứ làm sao dám nhát chị bởi chị còn xấu hơn nó kia mà. Hay là tiếng mèo hoang kêu rồi thần hồn nát thần tính nhưng lỡ đó là con nít thật thì sao?
Đắn đo mãi, cuối cùng chị quyết định bước vào nghĩa địa và lắng nghe xem tiếng khóc phát ra từ đâu. Chị đã định được hướng và đi về phía chòm mả của ông Cả Thượng được xây kiên cố, khang trang ở một góc nghĩa địa. Ngay giữa chòm mả ấy có một đống vải trơ trọi và tiếng khóc phát ra từ đó. Chị Hai rón rén bước đến với sự sợ sệt. Trời chập
choạng tối, ở giữa nghĩa địa vắng vẻ cộng với tiếng trẻ con khóc khiếnkhung cảnh có cái gì đó ma quái làm chị nổi cả gai ốc.
Gom hết can đảm, chị Hai thò tay vào đống vải ấy, khi chạm được cái khối thịt tuy có phần lạnh nhưng chị Hai xác định đó là da thịt con người chứ chẳng phải ma quái. Điều đó khiến chị mạnh dạn và giở những lớp vải phía trên ra. Đúng như chị nghi ngờ, chính giữa là một đứa con nít đang bị kiến bu cắn đỏ cả người, có lẽ nó khóc từ lâu lắm nên tiếng khóc bắt đầu khàn đặc. Chị phủi kiến và cứ như thế ôm nó đi về
nhà.
Nghe tin chị Hai nhặt được đứa con nít ở chòm mả một cách kỳ lạ như vậy, người ta kéo lại chật cái chòi của chị. Vài bà dì thương xót, phụ chị ủ, ẵm, pha sữa cho nó… Theo kinh nghiệm của họ, thằng bé sinh ra chưa tới một tháng. Đôi người đoán non, đoán già, ai mà bỏ con chắc cũng có nỗi khổ. Người thì rủa kẻ nào ác đức, “núm ruột” mà còn đem
bỏ, nhỡ chị Hai không tới kịp, nó chết thì sao?
Duy có chị Hai không bàn tán cũng chẳng ý kiến gì, chị ngồi yên lặng bên cạnh thằng bé, rờ nhẹ cánh tay của nó như sợ làm nó đau. Nhìn vết kiến lửa cắn chưa phai, chị ứa nước mắt.
Vốn đã nghèo, chị Hai tự nhiên “được thêm” cái khổ. Bởi chị ăn hà tiện được nhưng sữa cho thằng bé thì hà tiện làm sao? Bị cái tật ở chân, chị đi đứng đã khó khăn, còn ẵm thêm thằng bé. Nhiều người lắc đầu xót thầm cho chị. Bây giờ chị Hai kiêm luôn cái nghề lượm ve chai. Thấy cái gì có thể bán được, chị nhặt nhạnh đem về. Bà con thương chị, cócái nồi nhôm bể, hũ. lọ… cũng kêu chị để cho. Coi như cách phụ chị nuôi con bởi bà con ai cũng nghèo chứ khá giả gì đâu.
Vất vả, thiếu thốn là thế nhưng thằng bé bụ bẫm, ít bệnh vặt. Trộm vía trời thương nó, nó háo sữa và lớn lên thấy rõ. Năm nó giáp thôi nôi có ông người Hoa ở xóm chợ nhà toàn con gái, không con trai nên ngỏ ý muốn xin nó làm con. Ông hứa nếu chị Hai đồng ý, ông cho chị Hai tiền đủ mua ba công đất hẳn hoi.
Nhiều người khuyên chị nên cho nó đi đỡ khổ thân chị, thân nó cũng hưởng sung sướng. Ba công đất đâu có ít ỏi gì. Với người như chị Hai,
đó là niềm mơ ước. Nhưng chị Hai không giải thích hay trả lời gì, chị chỉ lắc đầu khi nhìn nụ cười của nó.
Năm tháng trôi qua, thằng bé tới tuổi đi học. Chị Hai càng chồng chất vất vả, chị làm không ngừng tay. Miếng đất nhỏ sau nhà chị biến thành vườn rau. Gà gáy sáng, chị đã ra đó. Có lẽ thấu hiểu lòng chị, thằng bé Hải (tên chị đặt cho nó) học rất giỏi. Ngoài giờ học, nó không chạy giỡn như bao đứa trẻ khác. Chị đi đâu, nó theo đó như bóng với hình. Chị làm gì, nó cũng phụ.
Năm nó mười một tuổi được lãnh thưởng Học sinh giỏi toàn trường cuối cấp. Chị Hai nghỉ bắt cua một bữa, diện cái áo mới nhất đi coi con nhận thưởng. Nhìn nó đứng trên bục cao mà chị thầm hạnh phúc. Chị nghĩ không biết nó có nhận ra chị giữa đám người lố nhố thế này không?
Buổi lễ tan, nó ôm phần thưởng chạy ào tới chị, hỏi:
– Má đứng lâu mệt không má.
Chị lắc đầu cười, lau mồ hôi trên trán rồi lật đật lấy chai nước đem theo đưa cho nó uống. Sau lưng chị có tiếng xì xào:
– Thằng nhỏ trắng trẻo, lớn con đẹp trai mà má nó nhìn thấy ghê vậy?
Đúng là mẹ cú đẻ con tiên.
Một tiếng khác đáp lời:
– Con đâu mà con, lượm đó. Bả làm gì mà đẻ được vậy. Thằng nhỏ vô phước, xui khiến gặp bà sống khổ muốn chết. Gặp người khác thì đỡ chút.
Chị hai bủn rủn tay chân, nụ cười tắt hẳn, chị nói với thằng Hải:
– Trễ rồi, về thôi con, má còn nhổ đám rau chiều nay.
Đang đi, thằng Hải chợt hỏi chị:
-Má, người ta nói má lượm con phải không má?
Điều chị hai sợ nhất cuối cùng đã xảy vào lúc này. Chị đã biết trước có ngày này nhưng không ngờ nó sớm thế.
– Chị chảy nước mắt gật đầu.
Thằng Hải hỏi chị tiếp:
– Má con là ai, sao bỏ con hả má?
Chị hai lắc đầu nói trong nước mắt:
– Má không biết… Nhưng má biết má thương con hơn mọi thứ trên đời.
Thằng Hải cắn môi im lặng rồi hỏi tiếp:
– Sao má khóc vậy má?
Chị lấy tay áo lau nước mắt nói:
– Con lãnh thưởng, má mừng, má khóc, ráng học cho sau này đỡ khổ, nghe con. Đừng có dốt, không biết chữ như má, cực khổ.
Thằng Hải nhìn mặt chị nói một cách mạnh dạn:
– Má đừng buồn, đừng khóc nữa má. Con lớn, con đi làm kiếm tiền, cấtnhà đẹp cho má ở nghe má.
Chị xoa đầu nó cười…
Học hết cấp hai ở xã, Hải phải lên thị trấn đi học vì xã không có trường trung học. Từ thị trấn về nhà hết tám cây số, thương con, chị Hai kêu nó ở trọ trong ký túc xá, để khỏi phải đạp xe hằng ngày vấtvả. Nó kiên quyết lắc đầu.
Ngày hai buổi, nắng hay mưa, nó cũng đạp xe đi về như thế. Ngoài giờhọc, công việc vườn rau nó làm thay chị. Nhưng năm nào nó cũng đạt danh hiệu học sinh giỏi. Hàng xóm hay lấy nó làm gương cho con mình.
Người ta mừng cho chị có chỗ dựa an ủi tuổi già.
Nó khôngcho chị bắt cua nữa nhưng những buổi sáng nó đi học, chị vẫn lén lút đi. Chị muốn chắt bóp thêm để cho nó ăn học bởi chị nghe người ta bảo, học trên Sài Gòn tốn kém lắm.
Sáng hôm nay, đầu xóm, tụi con nít “bu” lại, nhìn ngó chỉ trỏ một cái xe hơi đang đậu. Trong xe, ở băng ghế sau còn có một bà ăn bận thật đẹp, người cứ thơm phưng phức. Phía trước bên lề, có một bà kia đang hỏi lũ nhỏ nhà chị Hai Cua Đồng ở đâu chỉ giúp bà, bà cho tiền mua bánh. Gì chứ, chị Hai Cua Đồng, ai mà không biết, thế là lũ nhỏ nhao nhao chỉ trỏ. Một lát sau thì chiếc xe dừng trước nhà chị Hai. Bà kia
nói với người đàn bà ngồi băng ghế sau:
– Dạ em hỏi kỹ rồi bà chủ, không sai đâu. Cậu nhỏ bây giờ học lớp mười. Mười sáu tuổi ạ! Ở xóm này, ai cũng biết chị ấy lượm được conhết. Em đã điều tra rõ ràng rồi.
Người đàn bà đẹp thở dài, đưa khăn lên lau giọt nước mắt vừa tràn ra.
Buổi trưa, thằng Hải đi học về nhà như thường lệ. Điều đập vào mắt nó
là cái xe hơi đang đậu trước sân. Chưa hết ngạc nhiên, bước vào nhà, nó thấy má nó đang khóc. Kế bên có một người đàn bà lạ cũng đang sụt sùi. Bên bộ ván có một người đàn ông và một người đàn bà nữa đang ngồi. Khi nó bước vô nhà thì bà đó nói:
– Dạ, cậu Hải về kìa bà chủ.
Nó cởi nón, gật đầu chào theo thông lệ và hướng ánh mắt về chị Hai thay câu hỏi ai vậy. Bởi xưa giờ, trừ người ta đến mua rau nhà nó, có khách bao giờ đâu mà mua rau cũng đâu. Ai sang trọng vậy?
Chị Hai kêu nó:
– Đi rửa mặt cho mát rồi vô má biểu.
Khi nó trở vô, chị kéo nó ngồi xuống kế bên nói:
– Dì này là má ruột của con đó. Má ruột của con tìm con vất vả lắm!
Lại gọi má đi con…
Nói tới đó thì chị Hai nghẹn lời vì nước mắt.
Người đàn bà kia òa khóc lớn và nắm tay nó nói:
Má xin lỗi con, không phải má bỏ con đâu. Bao năm nay má ăn không yên, ngủ không ngon, kiếm tìm con…
Thằng Hải nghe như đất dưới chân nó sụt xuống vậy. Dù từ lâu, nó hiểu nó không do chị Hai sinh ra nhưng nó không ngờ rằng má ruột đến tìm nó trong hoàn cảnh này. Trong lơ mơ, giữa những đoạn kể đứt quãng vì nước mắt của người má ruột nó, nó nghe câu được câu mất là:
– Má con nhà giàu, sống cùng cha và mẹ kế. Má thương ba con từ thời đi học nhưng ba con nhà nghèo. Bà mẹ kế muốn má lấy cháu ruột của bà ta vì gia sản của ông ngoại. Khi má sinh ra con, vì sợ ông ngoại, má phải giao con cho bà ta. Bà ta nói sẽ đưa con cho người khác nuôi giùm, nhưng thật sự bà ấy sai người vứt con đi.
Sau đó, cả gia đình ngoại con đi nước ngoài. Trời thương, cuối cùng ba má gặp lại nhau. Sau khi mẹ kế qua đời, ông ngoại con cũng hiểu ra, không ngăn cản như trước. Hiện con còn có thêm một đứa em trai nữa.
Khó khăn lắm má mới tìm được tung tích con. Vì ông ngoại con bệnh già nên ba con không về cùng má được. Gặp lại con như vầy, ông ngoại với ba con mừng lắm! Con thương má, đừng trách má tội nghiệp.
Khi má ruột kể thằng Hải nghe như vậy, chị Hai tới cái tủ thờ, lục lọi gì đó. Khi nó quay qua hỏi chị Hai:
Như vầy là sao hả má?
Chị Hai mếu máo, đúng rồi đó con, má con nói đúng, cái bớt son của con và cái lắc bạc đeo ở chân con. Khi má mang con về không cho ai biết bí mật này hết. Má gói giữ đây, định con lớn, giao cho con để con biết
gốc tích của mình. Má con khổ bao năm nay rồi.
Hải ngỡ ngàng sự thay đổi khi cuộc đời mình tự nhiên có thêm bà má, ba, em trai. Trước khi má ruột đi về, ba nói chuyện điện thoại với nó, bảo sẽ nhanh chóng đón nó qua đó cho trọn gia đình. Nó mừng vì mình có gia đình như bao người chứ không trơ trọi. Xóm làng ai cũng vui lây.
Một bước sung sướng, con nhà giàu. Nhưng nhiều lần nó cũng dò ý chị Hai khi nó đi rồi chị làm sao? Nó hy vọng chị ngăn cản nó nhưng lần nào chị cũng nói:
– Đi đi con cho có tương lai, qua đó được ăn học, đỡ cực khổ, sống với má mười mấy năm cực khổ rồi con. Ráng học thành người, trả hiếu má chưa muộn, má còn khỏe, má lo được, không sao hết con, còn chòm xóm bàcon.
Nó cũng yên tâm phần nào vì không thấy chị Hai buồn phiền gì hết.
Nhưng có một lần, nó đi học về sớm, khi ra vườn, nó thấy chị Hai vừa tưới rau, vừa quệt nước mắt. Cái dáng xiêu vẹo của chị in trong trờichiều như một dấu chấm hỏi.
Má nó về, dẫn nó đi làm thủ tục. Sau khi đi tới đi lui cũng thở phào nhẹ nhõm khi cầm trên tay cái visa. Chiều ngày mai thì nó theo má về gia đình thật của mình. Nhưng sao nó không thấy vui hay háo hức như nó nghĩ. Ngược lại, nó thấy như nó đang đánh mất cái gì đó quý lắm! Nó ngồi trước sân, miên man suy nghĩ, nhìn ra cây xoài đang ra trái non.
Nó thấy lại hình dáng ngày xưa của mình với má.
Hai má con cùng trồng rau. Nó nhớ cái dáng xiêu vẹo khi má xách thùng nước, nhớ đôi tay má chai sần và đầy vết cua kẹp chứ không mềm mại, mát rượi như tay má ruột nó. Bỗng tiếng chị Hai vang lên, cắt ngang dòng suy nghĩ của nó:
– Ngồi chi ngoài đó gió lạnh đó con. Tranh thủ ngủ sớm, mai má con xuống đón sớm đó. Vô đây má có chút chuyện dặn con.
Khi nó ngồi ngay ngắn trên bộ ván, chị Hai miệng nói, tay kéo cổ nó xuống:
– Sợi dây chuyền này má tính để dành cho con sau này đi học, có cầnthì dùng, bây giờ má nghĩ không cần nữa rồi. Má cho con làm kỷ niệm.
Má biết má con dư giả nhưng vạn nhất, chuyện gì con cũng có cái phòng thân. Má nghe mấy dì ngoài chợ nói xứ đó lạnh lắm! Con nhớ cẩn thận sức khoẻ, con hay bị khò khè khi chuyển gió. Mới lại, về bên đó, ăn nói từ tốn, ngoan ngoãn cho người ta thương ha con.. Cố gắng học nghecon…
Thằng Hải “nghe” vài giọt nước nhỏ lên cổ và giọng má đang nghẹn lại, nó biết má đang khóc. Nó an ủị:
-Dạ, con biết rồi má. Nhưng sợi dây má giữ đi, phòng thân có mình má bên đây, lỡ má đau bệnh. Con đi vài năm, con về với má liền.
Miệng nói, tay nó lần muốn tháo sợi dây chuyền ra. Chị Hai giơ tayngăn lại, nói tiếp:
– Đừng lo cho má, từ đó tới giờ má cũng sống vậy. Má con có ngỏ ý gởicho má số tiền ở trong ngân hàng phòng thân. Nhưng má bảo má không sao, để số đó lo cho con học hành. Giờ nhà mình cũng đâu khó khăn như xưa.
Sáng sớm, khi má ruột xuống đón Hải đi, bà con lại đến đưa tiễn, chúc nó lên đường bình an. Ai cũng ngỡ chị Hai sẽ khóc lóc nhưng trái với thông lệ, chị tươi cười vui vẻ, giống như thằng Hải đi học bao ngày chứ không phải là đi xa không biết bao lâu mới về. Khi xe chạy rồi, bà con ai về nhà nấy, chỉ còn duy nhất chị, chị ngồi bệt ngoài sân, dựa vô gốc xoài nức nở khóc.
Xe Chạy tới Bình Chánh, ngoại ô Sài Gòn, má thằng Hải nói:
– Chút về tới khách sạn, ăn xong, kiểm tra hành lý rồi má con mình rasân bay. Con đừng lo cho má con nhiều. Má mang ơn chị ấy không hết, má không để chị ấy thiếu thốn hay thiệt thòi gì đâu. Mỗi năm, má sẽ gửi tiền để chị ấy không phải vất vả, con yên tâm đi, vài năm con về thăm chị ấy.
Thằng Hải nhìn má nó rồi nói:
Má kêu xe dừng lại chút được không má? Con khát nước quá! Con muốn
nghỉ mệt chút, con đi xe không quen.
Xe tắp vô một cái quán võng bên lề. Sau khi uống nửa ly nước, thằng
Hải tự nhiên xoay qua má nó, nói một hơi như sợ ai cướp lời nó:
– Má… con không giận, không buồn gì má hết, con vui vì con biết hồi xưa má không phải vứt con như con nghĩ. Gặp má, con mừng lắm bởi con có cội có nguồn. Con thương má nhiều vì con biết bao năm nay má tìm kiếm con vất vả, buồn rầu, lo lắng cho số phần con. Nhưng… con thương má của con hơn, má không có con, má còn có ba, có em. Còn má con có một mình con. Khi nào má con không còn nữa, con sẽ về bên má. Má… con xin lỗi má…
Trong khi má thằng Hải còn đang chưa biết phải làm sao trước sự cố bất ngờ vậy thì nó chạy ào qua thanh chắn phân cách hai làn xe…
– Hải… Hải…
Nó đưa tay vẫy chiếc xe đò ngược chiều mà không thèm nhìn coi xe đi lỉnh nào, nó nhảy phóc lên xe. Xe chạy đi trước sự ngỡ ngàng của má nó bên kia lề và chú tài xế đang cố băng qua đường về phía nó.
°°°
Trời về chiều, những tia nắng từ hướng tây chiếu xuống cái sân trước nhà. Bếp núc lạnh tanh dù sáng giờ, chị Hai chưa có hạt cơm bỏ bụng.
Chị ngồi trong góc bếp hàng mấy giờ đồng hồ. Chị muốn đứng dậy đi ra sau vườn làm gì đó nhưng tay chân chị bủn rủn, không có sức lực. Chị thầm nghĩ: giờ này chắc Hải đang ngồi trên máy bay như mấy bà ở chợ nói. Chị tự dặn lòng phải mừng cho con chứ, sao mà ngồi ủ rũ như vậy?
Chợt chị nghe nhà trên có tiếng động, sợ con mèo mun nhảy lung tung như thường ngày, làm đổ bể cái gì, chị níu cây cột đứng lên, cố nheo mắt nhìn coi. Có cái bóng đen che ngang trước cửa nhà và tiếng thằng Hải gọi như bao lần đi học về:
– Má ơi…
Chị quỵ chân xuống, môi cười mà nước mắt tuôn như mưa. Ngoài sân, trời về chiều, gió ngoài sông thổi nhẹ từng cơn...
Song Nhi
Bà Loan vẫn còn đương xuân và trẻ lắm, thì ông địa chủ bị nghẽn mạch tim mà chết, để lại nhà cửa ruộng nương cho bà. Nhưng bà chẳng vui gì với gia tài sung túc này. Hằng ngày bà phải trông coi thợ cấy thợ cày bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông.
LÒNG MẸ.
Vợ chồng tôi dọn về ở trong cái làng nhỏ này đã hơn ba tháng. Mấy đứa con của chúng tôi nói: Ba má già rồi mà ở trong Paris đâu có tốt. Nội cái không khí ô nhiễm cũng đủ làm cho ba má bịnh lên bịnh xuống hoài . Vậy là chúng nó kiếm mua một cái nhà ở xa Paris . . .
Nhà có đất chung quanh, có mấy cây pomme, mấy cây cerise. Hồi dọn về là đầu mùa xuân , mấy cây đó trổ bông màu hường màu trắng đầy cành. Ở mấy nhà hàng xóm cũng vậy, hoa nở rộ hầu như cùng một lúc, nên trông thật là đẹp mắt.
Biết là mùa xuân nhờ hoa nở và chồi non, chớ thật ra thời tiết ở Pháp mấy năm gần đây đi . . . trật lất. Mùa xuân mà cứ tưởng như mùa thu, cứ mưa lất phất rồi hết mưa là trời đổ sương mù. Cứ như vậy kéo dài đến bây giờ, theo trong lịch, là đã đầu mùa hè mà vẫn còn nghe lành lạnh !
Hôm nay tự nhiên trời bỗng trở nắng. Nắng thật ấm, thật trong. Người ta vội vã mang đồ ra phơi đầy sân : quần áo, drap, mền . . . Đủ màu sắc, đủ cỡ, coi vui nhộn như một ngày lễ !
Tôi cũng thấy phấn khởi, bèn rủ nhà tôi đi chơi một vòng. Bởi vì từ ngày dọn về đây, ngoại trừ những lúc phải ‘xẹt’ ra tiệm thịt, lò bánh mì, hàng rau cải v.v. . . chúng tôi cứ ru rú ở trong nhà vì thời tiết xấu. Nhà tôi không chịu đi, nên tôi đi mình ên . . .
Làng này tuy nhỏ nhưng ngăn nắp, sạch sẽ. Ở đâu cũng thấy trồng bông : dọc theo vỉa hè, ở các ngã ba ngã tư, mặt tiền nhà phố . . . Giữa làng là một nhà thờ nho nhỏ nằm trên một vuông đất cao hơn mặt đường gần một mét, cũng trồng đầy bông.
Chảy ngang qua làng là một con suối nhỏ, rộng độ mươi thước, chui dưới cây cầu đá rối uốn khúc quanh quanh trước khi rời làng xuôi về phía dưới. Hai bên bờ suối là hai con đường tráng xi-măng chạy dọc theo hai hàng cây. Rải rác, có mấy băng gỗ đóng thô sơ, nhưng vẫn nằm giữa những lùm bông đầy màu sắc. Có nơi, không hiểu sao người ta đặt băng gỗ nằm cạnh bờ nước giống như làm chỗ ngồi cho người đi câu !
Tôi ngồi xuống một cái băng cạnh bờ nước. Vì không nằm dưới tàn cây nên ở đó đầy nắng. Tôi đốt điếu thuốc rồi nhìn quanh : chẳng có ai hết. Nhớ lại, dân trong làng chỉ đổ ra đường vào ngày chủ nhựt, bởi vì ngày đó nhóm chợ lộ thiên và lại là ngày phải đi Lễ nhà thờ. Còn ngày thường thì chỉ có mấy ông già bà già đi khệnh khạng trên hè phố hay dọc bờ suối khi nào trời tốt. Hôm nay, trời tốt đó chớ, nhưng sao chẳng thấy ai đi. Tự nhiên, tôi cảm thấy bơ vơ lạc lõng . . . Lại nhìn quanh, chỉ thấy xa dưới kia là gác chuông nhà thờ một mình đứng cao lêu nghêu !
Con suối không sâu, nước trong nhìn thấy đáy. Dòng nước chảy nhanh nhanh. Khi gặp mấy tảng đá lớn, nước bắn lên trắng xóa coi thật sinh động, nhìn không chán.
Lòng suối đầy đá cuội tròn tròn. Cũng có những cục đá to nhưng chẳng có viên đá nào còn góc cạnh. Viên nào cũng nhẵn thín.
Nhìn nước chảy, nhìn đá mòn, tôi bỗng nhớ đến hai câu chót của bài học thuộc lòng thuở nhỏ:
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào khê nước chảy
vẫn còn trơ trơ. . .
Hai câu thơ đó không có gì hết, vậy mà nó làm tôi ứa nước mắt ! Không phải nó chỉ nhắc tôi thời thơ ấu, thuở học vui học buồn bằng quyển vở Quốc Văn Giáo Khoa Thư, mà nó còn nhắc tôi một cái gì sâu đậm hơn là kỷ niệm, một cái gì to rộng mênh mông hơn là không gian thời gian, một cái gì mà trong cuộc đời lưu vong này tôi vẫn mang mênh trong tâm tư, giống như một chất ma túy : nó nhắc tôi quê hương, cái quê hương xa cách ngàn trùng !
Tính ra, tôi bỏ xứ ra đi đã hơn hai mươi bốn năm. Một phần tư thế kỷ ! Trôi nổi đó đây với nhiều âu lo dằn vật, thêm tuổi đời cứ chồng chất mãi lên. . . nên ký ức bị xói mòn theo năm tháng. Đến nỗi chuyện gì xảy ra hôm tuần rồi, hôm tháng trước. . . có khi không nhớ ! Vậy mà hình ảnh của quê hương vẫn còn nằm nguyên đâu đó ở trong lòng, với những kỷ niệm vụn vặt của năm sáu chục năm về trước ! Chỉ cần một chất xúc tác là nó bật lên rõ rệt, không thiếu một chi tiết, làm như mình đang sống trong đó mới hôm qua hôm kia. . . Tình yêu quê hương sao mà kỳ diệu như vậy được ?
Nơi tôi sanh trưởng cũng là một cái làng nho nhỏ. Nó không ngăn nắp sạch sẽ, không được trang hoàng bằng những bông hoa đầy màu sắc như ở đây. Cũng không có con suối nhỏ chảy ngang để hai bờ được nối với nhau bằng cây cầu đá. . .
Làng tôi nằm bên tả ngạn một con sông lớn, quá lớn nên thấy cái làng như nhỏ xíu ! Con sông đó có cái tên chẳng chút gì ‘văn chương’ : sông Vàm Cỏ. Trong làng chỉ có một con đường tráng nhựa : đó là đường liên tỉnh, cũng còn được gọi là ‘con lộ cái’ nối xóm trên xóm dưới. Ngoài ra, toàn là đường đất mà tiền thân của chúng nó là những con đường mòn, nối xóm Nhà Máy, xóm Lò Heo qua xóm Lò Gạch, xóm Chùa ... Cho nên những con đường trong làng đều chạy cong cong quanh quanh !
Làng tôi cũng có chợ nhà lồng, ngày nào cũng nhóm, nhưng chỉ nhóm có buổi sáng. Nằm cạnh chợ là ‘Nhà Việc’, nơi . . . làm việc của những ‘nhà chức trách’ trong làng. Xế xế về phía con lộ cái là trường tiểu học với hàng rào cây bông bụp, lá xanh um láng mướt.
Làng tôi không có nhà thờ nhưng có một ‘kiểng’ chùa nằm trên một khu đất cao, có rào tre xanh chung quanh. Hồi tôi còn nhỏ, thấy cũng nằm xa dân chúng, vắng vẻ u tịch (hồi đó, tôi ít dám đi ngang qua đó một mình vì . . . sợ ma ! ) Về sau, dân chúng càng ngày càng đông, nhà cửa cứ xây cất tiếp nối nhau kéo dài ra hướng chùa, rồi ‘đi’ xa hơn về phía con lộ cái. Vì vậy, chùa bị lọt trũm giữa khu nhà dân, không còn biệt lập như trước.
Nhà cửa trong làng nhỏ lớn gì cũng có hàng rào. Phần nhiều là hàng rào cây xương rồng và cây bông bụp (cũng gọi là bông lồng đèn) Xương rồng cũng trổ bông lai rai, hoa trắng nõn nà mỏng manh như lụa, khác hẳn với thân cây mang đầy gai góc ! Còn bông bụp thì cứ nở thè lè đỏ cây. . .
Đó ! Làng tôi đó! Quê trân ! Chẳng chút màu mè. Vậy mà sao tôi vẫn thương.
. . .Thương những con đường đất mà hai bên là bờ cỏ may. Đến mùa, cọng cỏ may đưa bông lên tua tủa tím ngắt, chỉ chực bám đầy ống quần nào bất chợt đi ngang.
. . .Thương những đoạn đường quen, mùa mưa nước ngập phải xăn quần tém áo để đi qua, trong lúc trẻ con một lũ ở truồng nằm lăn chập chũm, tóe nước nhau cười vui như hội.
. . .Thương bờ sông Vàm Cỏ với những cây dừa trồng không thẳng hàng, cũng không chia đều khoảng cách, giống như ‘mạnh ai nấy trồng’ ! Mấy cây dừa đó, nằm quá gần bờ nước nên rất nhiều cây thiếu đất để giữ gốc, chúng nằm dài ra phía sông cách mặt nước độ một đôi thước rồi uốn mình đưa ngọn đứng thẳng lên cao. Vậy mà cũng đơm bông kết trái ! Trẻ con thường trèo lên đó để phóng xuống nước nô đùa lặng hụp, và dân ở dọc bờ sông hay đem mền chiếu ra vắt lên đó để phơi.
. . .Thương con đường lên chùa có hai bờ tre xanh lả ngọn giao nhau làm cho con đường giống như một cái hang mát rượi. Ở đó, mỗi trưa đứng bóng, những người dọn hàng từ chợ về nhà thường dừng chân núp nắng, và chiều chiều đường vắng cũng thấy thẫn thờ một cặp gái trai . . .
. . .Thương cả cây phượng nằm bên bờ đường trước nhà ông Cả. Thân nó to bằng ba người ôm, gốc rễ lấn luôn ra mặt đường. Ai đi qua cũng phải bước vòng để tránh ! Đó là cây phượng độc nhứt ở trong làng. Không biết ai trồng và tại sao lại trồng ở đó ? Chỉ biết hằng năm vào mùa thi là cây trổ hoa đỏ trời. Sau đó là hoa rụng đỏ đất.
. . .Và còn thương nhiều thứ nữa, kể biết bao giờ cho hết !
Nhà tôi ở trong Xóm Mới. Gia đình tôi nghèo. Cha tôi trồng rau cải, mẹ tôi hằng ngày gánh xôi ra ngồi bán ngoài chợ. Cha mẹ tôi chỉ có hai đứa con trai : tôi và thằng Cu, nhỏ hơn tôi sáu tuổi. Cha tôi chết bịnh hồi mẹ tôi sanh thằng Cu . . .
. . .Nhớ hoài, thời tôi học tiểu học. Sáng nào, sau khi húp tô cháo với miếng đường thẻ, tôi ôm cặp đựng sách vở mà ông nội tôi làm bằng giấy dầu để khỏi bị ướt nước mưa, đi theo mẹ tôi ra chợ. Vì phải đem thằng Cu theo - lúc đó nó được hơn hai tuổi - mẹ để nó ngồi trong một cái thúng, gióng ở đầu đòn gánh phía trước, còn lá chuối, xôi, nhưn, dừa nạo v.v... vồn trong một thúng gióng ở đầu sau. Mẹ gánh như vậy mà bước chân đi sai sải. Đòn gánh nhún lên nhún xuống làm thằng Cu khoái lắm. Lâu lâu, mẹ đổi vai, đầu đòn gánh nhún xuống hơi sâu và tưng lên hơi cao làm anh ta cười hắc hắc để lòi bốn cái răng cửa nhỏ xíu. Những lúc đó, anh ta thuờng gọi tôi để khoe : ‘Hai ! Hai ! Coi nhè ! Coi nhè !’.
Tôi học chỉ có buổi sáng. Mẹ tôi bán ở chợ cũng vậy. Trưa, chợ tan sớm hơn trường học, mẹ gánh thằng Cu đến ngồi đợi tôi dưới cây trứng cá gần cổng trường. Thấy tôi ra, thằng Cu đứng lên, vừa nhảy tưng tưng trong cái thúng vừa la : ‘Hai ! Hai !’. Anh ta ở truồng - lúc nào cũng ở truồng - bên trên bận áo bà ba vải đen của bà nội may cho, đầu đội cái nón hình chóp bằng lá chuối mẹ xếp rồi ghim bằng cọng chân nhan . . . Mẹ đưa tôi gói xôi (đã thành lệ, ngày nào mẹ cũng chừa cho tôi một gói) tôi ngồi xổm cạnh mẹ, vừa ăn vừa đút cho thằng Cu. Ăn xong, tôi chạy qua bên kia đường xin một gáo nước ở nhà thầy giáo Hiển, rồi mang cho ba mẹ con uống (vì trong trường chỉ có một lu nước, không đủ cho đám học trò nên thầy Hiển đặt trước nhà thêm một lu. Vào giờ ra chơi, học trò bu qua đó đông như kiến) Uống xong, mẹ gánh thằng Cu bước đi thong thả, tôi lon ton chạy theo song song . . .
Hồi đó, vì phải chạy lúp xúp nên có lần tôi nhìn xuống bước chân của mẹ, coi mẹ đi cách nào mà mình cứ phải chạy theo lúp xúp ! Mẹ đâu có bước lẹ, mẹ bước đều. Mẹ đi chân không, mỗi bước chân của mẹ giậm xuống làm tung lên một chút bụi đường. Tôi nhìn chỉ thấy có như vậy. Bây giờ, hơn sáu chục năm sau, ngồi ở trời Tây này, tôi đâu cần nhìn mà sao vẫn thấy được - thấy rõ - hai bàn chân của mẹ. Hai bàn chân to bề ngang, mấy ngón chân chè bè không bao giờ xếp lại được. Hai bàn chân xấu xí đó chưa từng đụng tới đôi giày đôi dép. Hai bàn chân chỉ biết có đôi guốc dong khi rửa chân đi ngủ, hay khi đi dự dám giỗ, đám tang . . . Hai bàn chân đó đã bám lấy đất để đứng vững một mình nuôi hai thằng con, hỏi sao không chè bè cục mịch cho được ?
Tôi đốt điếu thuốc, thở một hơi khói dài. Lại nhớ hồi học lớp nhứt, có hôm tôi bắt chước bạn bè lén hút thuốc. Mẹ tôi thấy được, lôi tôi vào nhà bắt đứng khoanh tay để ‘hỏi tội’ : ‘Hai ! Ai cho mầy hút thuốc, hả ? Ai dạy mầy hút thuốc, hả ? Mầy bắt chước ai, nói tao nghe coi ? Mới có bây lớn đó mà bày đặt hút thuốc !’. Rồi mẹ chụp cây chổi chà dựng gần đó : ‘Tao phải đánh mầy cho mầy chừa’. Mẹ vừa nói ‘Chừa nè !’ vừa đập cây chổi lên đít tôi thật mạnh. Cứ mỗi một câu ‘Chừa nè ! ‘ là một phát chổi. Mẹ đánh một lúc rồi liệng cây chổi, trèo lên bộ ván, ngồi co chân, rút cái khăn rằn đấp lên mặt khóc. Tôi đứng chết điếng, nghe mồ hôi chảy dài theo xương sống, không thấy đau ở đít mà đau ở đâu trong lòng. Bởi vì đó là lần đầu tiên tôi làm cho mẹ tôi khóc. Tôi mếu máo, rặn ra mấy tiếng : ‘Dạ . . . con xin chừa . . .’
Vậy mà lớn lên, khi ra đời, tôi đã . . . không chừa ! Tôi tập tành hút thuốc hồi tôi đi lính, bởi vì ‘ở tiền đồn trời khuya đêm lạnh, ta chia nhau điếu thuốc ấm lòng’. . . Mỗi lần về phép, chẳng bao giờ tôi dám hút ở nhà vì trận đòn chổi chà thuở nhỏ vẫn còn đeo theo ám ảnh ! Tôi hút ngoài đường . . .
Một hôm, đang đứng hút thuốc với mấy thằng bạn cùng xóm, bất thần mẹ tôi đi qua. Tôi vội vã liệng điếu thuốc xuống đất. Mẹ tôi dừng lại, mỉm cười: ‘Mầy làm cái gì vậy, Hai ? Mầy lớn rồi chớ bộ còn con nít sao. Bây giờ, mầy có hút thuốc, tao cũng đâu có bắt mầy chừa!’ Rồi bỏ đi một nước!
Mẹ tôi như vậy đó. Quê mùa mộc mạc như làng của tôi, vậy mà tôi vẫn thương. Tôi thương, đâu cần mẹ tôi phải đẹp, quê hương tôi phải sang. Tôi thương, vì tất cả đều gắn liền với tôi từ thuở tôi ra chào đời. Tôi đã quen thở, quen sống trong vòng tay của mẹ, giữa lòng quê hương ; đã lớn lên trong cái thật thà chân chất đó. Cho nên hình ảnh của mẹ, của quê hương đã ghi sâu vào lòng tôi đến độ khi thiếu vắng, tôi thương tôi nhớ. Và tình thương đó vẫn chưa thấy mòn, mặc dầu bây giờ tôi đã ngoài bảy mươi . . .
------‐----
Mặt trời đã lên cao. Thấy có vài người hứng nắng bên bờ suối. Tôi đứng lên đi về nhà mà miên man nghĩ : ‘Những hình ảnh mà mình vừa gợi lại khi nãy sao mà dễ thương như vậy. Mình phải viết ra để cho nó có chỗ đứng bên ngoài ký ức, cho các con các cháu của mình thấy và hiểu tại sao hơn hai mươi bốn năm sống trên đất Pháp, cha và ông của chúng nó không nói ‘thương nước Pháp’ mà cứ nhắc hoài người mẹ đi chân đất và cái làng quê mùa không có đến hai con đường tráng nhựa !‘
Vào nhà, tôi đi thẳng lại bàn viết. Vợ tôi chắc đang nấu bếp nên nghe phất ra thơm phức mùi thịt kho tiêu. Tôi lấy xấp giấy trắng, không cần đốt điếu thuốc, không cần hớp mấy ngụm nước trà để trợ hứng. Bởi vì cái hứng đang ở ngay trong tôi, căng đầy . . .
Tôi cầm bút nắn nót viết cái tựa bằng chữ hoa : ‘Đá Mòn Nhưng Dạ Chẳng Mòn’
Tiểu Tử
Có một người đàn ông trung niên mặc bộ đồ rất giản dị, đi vào một nhà hàng rất sang trọng thuộc bậc nhất của thành phố, vừa bước vào cổng, anh bảo vệ chặn lại, nhìn từ trên xuống dưới thấy vị khách mặc bộ đồ cũ kỷ liền nói:
- Thức ăn và thức uống ở đây đắt gấp 5 lần so với các nhà hàng khác... Ở đây toàn là khách quý tộc... Tôi nói điều này để anh suy nghĩ rồi quyết định khi bước vào bên trong.
Vị khách nghe thế, nhìn anh bảo vệ một lúc rồi mĩm cười đi thẳng vào trong. Ở đây đa số khách đều ăn mặc sang trọng, họ khoác lên mình những bộ đồ đắt tiền, khi thấy anh ta đi vào bao nhiêu cặp mắt đều đổ dồn về vị khách này, có người thì nhỏ to với nhau rồi cười chúm chím, có người thì nhìn anh ta với cặp mắt soi mói, có vẻ như họ đang cười chế giễu. Mặc cho những cặp mắt không mấy thiện cảm của mọi người xung quanh, vị khách tiến thẳng lại một cái bàn trống ngồi xuống, ngồi được một lúc khá lâu nhưng nhân viên phục vụ ở đây không ai thèm để ý đến anh ta. Vị khách vẫn kiên nhẫn ngồi đợi... Thấy cô phục vụ đi ngang qua vị khách liền gọi
- Cô cho tôi hỏi, hiện nhà hàng có món gì đặc biệt?
Cô phục vụ nhìn vị khách một lúc rồi trả lời:
- Ở đây món gì cũng có, món rẻ nhất ở đây bằng 2 ngày làm việc của một người lao động như ông, còn món đặc biệt thì chắc phải bằng cả tháng lương của ông đấy ạ.
Vị khách vẫn vui vẻ trả lời:
- Vậy cô cho tôi mấy món đặc biệt mà cô đã nói.
Thấy cô phục vụ nhìn mình bằng ánh mắt nghi ngờ, vị khách liền móc trong túi ra một cục tiền khá lớn rồi nói:
- Cô hãy tính tiền luôn những món tôi vừa gọi... À cô cho tôi mỗi thứ 2 phần ăn nhé.
Lại một lần nữa các cặp mắt của các vị khách nhìn về anh ta, có người thì nghĩ "Chắc anh ta mới bán được lúa nên chơi nổi đây mà"... Có người thì nghĩ "Chắc nhà ông ta mới bị giải tỏa đền bù và có một số tiền kha khá nên vào đây cho biết đấy mà".
Sau khi thức ăn đã dọn ra đầy đủ trên bàn, nhưng không thấy vị khách này ăn mà chỉ gắp bỏ vào chén đối diện không người ngồi, mọi người vô cùng ngạc nhiên xen lẫn tò mò... Bổng ông chủ nhà hàng từ ngoài đi vào nhìn thấy vị khách này và nhận ra anh ta là một doanh nhân thành đạt mà ông chủ nhà hàng đã từng gặp trong những buổi làm ăn lớn, đi thẳng đến chỗ anh ta ngồi mừng rỡ la to:
- Wow... ngọn gió nào đưa một vị thương gia lừng lẫy này đến nhà hàng tôi thế này.... Hân hạnh thật là hân hạnh cho tôi quá.
Mọi người kể cả khách lẫn nhân viên phục vụ ngạc nhiên và ngỡ ngàng khi nghe ông chủ nhà hàng nói thế, họ càng chú ý hơn câu chuyện giữa vị khách và chủ nhà hàng.
Sau khi chào hỏi và bắt tay nhau, ông chủ nhà hàng kéo ghế ngồi bên rồi hỏi vị khách:
- Anh có hẹn khách tại nơi này ah?
Vị khách trả lời:
- Không. Tôi đến đây một mình.
Chủ nhà hàng ngạc nhiên liền hỏi:
- Oh, vậy tại sao trên bàn lại có 2 cái chén và chén kia lại đồ ăn đầy thế kia?
Nghe hỏi thế vị khách bổng trầm ngâm một lúc, lau vội giọt nước mắt, vị khách từ từ trả lời:
- Chén đối diện là của Mẹ tôi đấy... Lúc tôi còn nhỏ Mẹ tôi dẫn tôi đến trước nhà hàng này ăn xin... mỗi lần đến đây Mẹ tôi cứ nhìn vào nhà hàng thấy mọi người ăn uống mà Mẹ tôi cứ nuốt nước miếng vào lòng... Thấy thế, tôi tự hứa với lòng, lớn lên tôi sẽ cố gắng làm việc kiếm thật nhiều tiền để đưa Mẹ tôi đến đây ăn những món mà Mẹ tôi thích... Bây giờ tôi có thể đưa mẹ tôi đi khắp thế giới và ăn những món ngon thì Mẹ tôi không còn nữa... Hôm nay là ngày của mẹ, tôi đến đây tìm lại cho mình những hình ảnh mà Mẹ tôi đã từng cơ cực, xin từng đồng nuôi tôi khôn lớn trưởng thành.
Nói xong vị khách thở dài một tiếng não ruột và đôi mắt đỏ hoe.
Anh ta về đây để tìm lại cho mình những khoảnh khắc ngày xưa mà để lòng mình thổn thức, anh ta đang nhớ đến Mẹ.
Còn mọi người xung quanh nghe xong câu chuyện của vị khách đều ngậm ngùi, khâm phục và xấu hổ. Họ ngậm ngùi vì vị khách này là một người con hiểu thảo, họ khăm phục dù giàu có nhưng anh ta không quên cội quên nguồn, không hề che đậy sự xuất thân bần hàn của mình, họ xấu hổ vì lúc nãy họ đã giễu cợt và chê cười vị khách này và vô tình vị khách này đã dạy cho họ một bài học đừng bao giờ TRÔNG MẶT MÀ BẮT HÌNH DONG. . .
____________________________
Bộ sách chữa lành, Combo 4 Cuốn Lén Nhặt Chuyện Đời + Dẫu Có Ra Đi Vẫn Sẽ Cười + Ai Rồi Cũng Sẽ Bình Yên + Lữ Khách Ven Đường
Ở TUỔI TRUNG NIÊN TÔI CÓ THAY ĐỔI.
- Trước đây tôi yêu bố mẹ, anh chị em, ông xã, con cái, bạn bè... giờ tôi bắt đầu biết yêu thêm chính mình.
- Không mặc cả với những người bán rau, bán cá nữa, trả thêm cho họ ít tiền không làm tôi nghèo túng, biết đâu số tiền đó lại góp phần nhỏ bé trong học phí cho con cái của họ.
- Tôi không chờ lấy tiền thừa khi đi taxi, tiền boa đó tôi được đổi lại một nụ cười, một lời "cảm ơn", dù sao anh ta cũng sống vất vả hơn mình mà.
- Đi ăn hàng quán, dù tiệm có ghi "giữ xe miễn phí", nhưng tôi luôn "hào phóng" gửi tặng anh 5k hay10k , vì lương tháng giữ xe của họ rất ít ỏi.
- Tôi thôi không bận tâm đến những vết bẩn trên áo quần, dù sao nhân cách vẫn quan trọng hơn vẻ bên ngoài.
- Càng ngày tôi càng xa lánh những kẻ xem thường mình, bởi có họ hay không có họ, giá trị thực của tôi cũng chẳng thay đổi .
- Tôi thôi không bắt lỗi khi người khác sai, bởi vì mình không có trách nhiệm làm cho họ trở nên hoàn hảo.
- Tôi luôn miệng khen tặng người khác, khen để người ta vui, mình cũng được vui lây.
- Không vì bảo vệ quan điểm của mình mà tôi đánh mất tình bạn, hãy để mọi người cùng vui hơn là thoả mãn một mình.
- Tôi sẽ xem mỗi ngày là ngày cuối cùng của đời mình.... để tôi luôn sống tốt với mọi người... trước sau gì ngày ấy cũng sẽ đến mà...
- Tôi cũng hiểu ra rằng mình không phải là Thượng đế, mình không thể gánh nổi cả thế gian này...
- Tôi cũng học cách Buông bỏ để tâm mình được an yên hơn vì đơn giản là mình sống cho mình chứ không phải mình sống để làm hài lòng người khác…
- Và tôi luôn nhớ làm những gì mình yêu thích để tận hưởng cuộc sống này, đó là trách nhiệm lớn nhất dành cho chính mình.
Dẫu biết rằng cuộc đời này là vô thường, chuyến hành trình mà Thượng Đế cho chúng ta đến thế gian này, cuối cùng cũng là để ra đi, vậy sao chúng ta không học cách cho đi dù chỉ là sự
"TỬ TẾ "
Sách chữa lành
Thứ Ba, 22 tháng 10, 2024
NƯỚC TRO TÀU THAN CỦI CỦA MỘT THỜI…
Goodbye tạm biệt, thì thào Whisper
Lie nằm, Sleep ngủ, Dream mơ
Thấy cô gái đẹp See girl beautiful
I want tôi muốn, kiss hôn
Lip môi, Eyes mắt ... sướng rồi ... oh yeah!
Long dài, short ngắn, tall cao
Here đây, there đó, which nào, where đâu
Sentence có nghĩa là câu
Lesson bài học, rainbow cầu vồng
Husband là đức ông chồng
Daddy cha bố, please don"t xin đừng
Darling tiếng gọi em cưng
Merry vui thích, cái sừng là horn
Rách rồi xài đỡ chữ torn
To sing là hát, a song một bài
Nói sai sự thật to lie
Go đi, come đến, một vài là some
Đứng stand, look ngó, lie nằm
Five năm, four bốn, hold cầm, play chơi
One life là một cuộc đời
Happy sung sướng, laugh cười, cry kêu
Lover tạm dịch ngừơi yêu
Charming duyên dáng, mỹ miều graceful
Mặt trăng là chữ the moon
World là thế giới, sớm soon, lake hồ
Dao knife, spoon muỗng, cuốc hoe
Đêm night, dark tối, khổng lồ giant
Fund vui, die chết, near gần
Sorry xin lỗi, dull đần, wise khôn
Burry có nghĩa là chôn
Our souls tạm dịch linh hồn chúng ta
Xe hơi du lịch là car
Sir ngài, Lord đức, thưa bà Madam
Thousand là đúng...mười trăm
Ngày day, tuần week, year năm, hour giờ
Wait there đứng đó đợi chờ
Nightmare ác mộng, dream mơ, pray cầu
Trừ ra except, deep sâu
Daughter con gái, bridge cầu, pond ao
Enter tạm dịch đi vào
Thêm for tham dự lẽ nào lại sai
Shoulder cứ dịch là vai
Writer văn sĩ, cái đài radio
A bowl là một cái tô
Chữ tear nước mắt, tomb mồ, miss cô
Máy khâu dùng tạm chữ sew
Kẻ thù dịch đại là foe chẳng lầm
Shelter tạm dịch là hầm
Chữ shout là hét, nói thầm whisper
What time là hỏi mấy giờ
Clear trong, clean sạch, mờ mờ là dim
Gặp ông ta dịch see him
Swim bơi, wade lội, drown chìm chết trôi
Mountain là núi, hill đồi
Valley thung lũng, cây sồi oak tree
Tiền xin đóng học school fee
Yêu tôi dùng chữ love me chẳng lầm
To steal tạm dịch cầm nhầm
Tẩy chay boycott, gia cầm poultry
Cattle gia súc, ong bee
Something to eat chút gì để ăn
Lip môi, tongue lưỡi, teeth răng
Exam thi cử, cái bằng licence...
Lovely có nghĩa dễ thương
Pretty xinh đẹp thường thường so so
Lotto là chơi lô tô
Nấu ăn là cook, wash clothes giặt đồ
Push thì có nghĩa đẩy, xô
Marriage đám cưới, single độc thân
Foot thì có nghĩa bàn chân
Far là xa cách còn gần là near
Spoon có nghĩa cái thìa
Toán trừ subtract, toán chia divide
Dream thì có nghĩa giấc mơ
Month thì là tháng, thời giờ là time
Job thì có nghĩa việc làm
Lady phái nữ, phái nam gentleman
Close friend có nghĩa bạn thân
Leaf là chiếc lá, còn sun mặt trời
Fall down có nghĩa là rơi
Welcome chào đón, mời là invite
Short là ngắn, long là dài
Mũ thì là hat, chiếc hài là shoe
Autumn có nghĩa mùa thu
Summer mùa hạ, cái tù là jail
Duck là vịt, pig là heo
Rich là giàu có, còn nghèo là poor
Crab thì có nghĩa con cua
Church nhà thờ đó, còn chùa temple
Aunt có nghĩa dì, cô
Chair là cái ghế, cái hồ là pool
Late là muộn, sớm là soon
Hospital bệnh viện, school là trường
Dew thì có nghĩa là sương
Happy vui vẻ, chán chường weary
Exam có nghĩa kỳ thi
Nervous nhút nhát, mommy mẹ hiền.
Region có nghĩa là miền,
Interupted gián đoạn còn liền next to.
Coins dùng chỉ những đồng xu,
Còn đồng tiền giấy paper money.
Here chỉ dùng để chỉ tại đây,
A moment một lát còn ngay ringht now,
Brothers-in-law đồng hao.
Farm-work đồng áng, đồng bào Fellow- countryman
Narrow- minded chỉ sự nhỏ nhen,
Open-hended hào phóng còn hèn là mean.
Vẫn còn dùng chữ still,
Kỹ năng là chữ skill khó gì!
Gold là vàng, graphite than chì.
Munia tên gọi chim ri
Kestrel chim cắt có gì khó đâu.
Migrant kite là chú diều hâu
Warbler chim chích, hải âu petrel
Stupid có nghĩa là khờ,
Đảo lên đảo xuống, stir nhiều nhiều.
How many có nghĩa bao nhiêu.
Too much nhiều quá , a few một vài
Right là đúng, wrong là sai
Chess là cờ tướng, đánh bài playing card
Flower có nghĩa là hoa
Hair là mái tóc, da là skin
Buổi sáng thì là morning
King là vua chúa, còn Queen nữ hoàng
Wander có nghĩa lang thang
Màu đỏ là red, màu vàng yellow
Yes là đúng, không là no
Fast là nhanh chóng, slow chậm rì
Sleep là ngủ, go là đi
Weakly ốm yếu healthy mạnh lành
White là trắng, green là xanh
Hard là chăm chỉ, học hành study
Ngọt là sweet, kẹo candy
Butterfly là bướm, bee là con ong
River có nghĩa dòng sông
Wait for có nghĩa ngóng trông đợi chờ
Dirty có nghĩa là dơ
Bánh mì bread, còn bơ butter
Bác sĩ thì là doctor
Y tá là nurse, teacher giáo viên
Mad dùng chỉ những kẻ điên,
Everywhere có nghĩa mọi miền gần xa.
A song chỉ một bài ca.
Ngôi sao dùng chữ star, có liền!
Firstly có nghĩa trước tiên
Silver là bạc, còn tiền money
Biscuit thì là bánh quy
Can là có thể, please vui lòng
Winter có nghĩa mùa đông
Iron là sắt còn đồng copper
Kẻ giết người là killer
Cảnh sát police, lawyer luật sư
Emigrate là di cư
Bưu điện post office, thư từ là mail
Follow có nghĩa đi theo
Shopping mua sắm còn sale bán hàng
Space có nghĩa không gian
Hàng trăm hundred, hàng ngàn thousand
Stupid có nghĩa ngu đần
Thông minh smart, equation phương trình
Television là truyền hình
Băng ghi âm là tape, chương trình program
Hear là nghe watch là xem
Electric là điện còn lamp bóng đèn
Praise có nghĩa ngợi khen
Crowd đông đúc, lấn chen hustle
Capital là thủ đô
City thành phố, local địa phương
Country có nghĩa quê hương
Field là đồng ruộng còn vườn garden
Chốc lát là chữ moment
Fish là con cá, chicken gà tơ
Naive có nghĩa ngây thơ
Poet thi sĩ, great writer văn hào
Tall thì có nghĩa là cao
Short là thấp ngắn, còn chào hello
Uncle là bác, elders cô.
Shy mắc cỡ, coarse là thô.
Come on có nghĩa mời vô,
Go away đuổi cút, còn vồ pounce.
Poem có nghĩa là thơ,
Strong khoẻ mạnh, mệt phờ dog- tiered.
Bầu trời thường gọi sky,
Life là sự sống còn die lìa đời
Shed tears có nghĩa lệ rơi
Fully là đủ, nửa vời by halves
Ở lại dùng chữ stay,
Bỏ đi là leave còn nằm là lie.
Tomorrow có nghĩa ngày mai
Hoa sen lotus, hoa lài jasmine
Madman có nghĩa người điên
Private có nghĩa là riêng của mình
Cảm giác là chữ feeling
Camera máy ảnh hình là photo
Động vật là animal
Big là to lớn, little nhỏ nhoi
Elephant là con voi
Goby cá bống, cá mòi sardine
Mỏng mảnh thì là chữ thin
Cổ là chữ neck, còn chin cái cằm
Visit có nghĩa viếng thăm
Lie down có nghĩa là nằm nghỉ ngơi
Mouse con chuột, bat con dơi
Separate có nghĩa tách rời, chia ra
Gift thì có nghĩa món quà
Guest thì là khách chủ nhà house owner
Bệnh ung thư là cancer
Lối ra exit, enter đi vào
Up lên còn xuống là down
Beside bên cạnh, about khoảng chừng
Stop có nghĩa là ngừng
Ocean là biển, rừng là jungle
Silly là kẻ dại khờ,
Khôn ngoan smart, đù đờ luggish
Hôn là kiss, kiss thật lâu.
Cửa sổ là chữ window
Special đặc biệt normal thường thôi
Lazy... làm biếng quá rồi
Ngồi mà viết tiếp một hồi die soon
Hứng thì cứ việc go on,
Còn không stop ta còn nghỉ ngơi!
Cằm CHIN có BEARD là râu
RAZOR dao cạo, HEAD đầu, da SKIN
THOUSAND thì gọi là nghìn
BILLION là tỷ, LOOK nhìn, rồi THEN
LOVE MONEY quý đồng tiền
Đầu tư INVEST, có quyền RIGHTFUL
WINDY RAIN STORM bão bùng
MID NIGHT bán dạ, anh hùng HERO
COME ON xin cứ nhào vô
NO FEAR hổng sợ, các cô LADIES
Con cò STORKE, FLY bay
Mây CLOUD, AT ở, BLUE SKY xanh trời
OH! MY GOD...! Ối! Trời ơi
MIND YOU. Lưu ý WORD lời nói say
HERE AND THERE, đó cùng đây
TRAVEL du lịch, FULL đầy, SMART khôn
Cô đơn ta dịch ALONE
Anh văn ENGLISH , nổi buồn SORROW
Muốn yêu là WANT TO LOVE
OLDMAN ông lão, bắt đầu BEGIN
EAT ăn, LEARN học, LOOK nhìn
EASY TO FORGET dễ quên
BECAUSE là bỡi ... cho nên , DUMP đần
VIETNAMESE, người nước Nam
NEED TO KNOW... biết nó cần lắm thay
SINCE từ, BEFORE trước, NOW nay
Đèn LAMP, sách BOOK, đêm NIGHT, SIT ngồi
SORRY thương xót, ME tôi
PLEASE DON'T LAUGH đừng cười, làm ơn
FAR Xa, NEAR gọi là gần
WEDDING lễ cưới, DIAMOND kim cương
SO CUTE là quá dễ thương
SHOPPING mua sắm, có sương FOGGY
SKINNY ốm nhách, FAT: phì
FIGHTING: chiến đấu, quá lỳ STUBBORN
COTTON ta dịch bông gòn
A WELL là giếng, đường mòn là TRAIL
POEM có nghĩa làm thơ,
POET Thi Sĩ nên mơ mộng nhiều.
ONEWAY nghĩa nó một chiều,
THE FIELD đồng ruộng, con diều là KITE.
Của tôi có nghĩa là MINE,
TO BITE là cắn, TO FIND kiếm tìm
TO CARVE xắt mỏng, HEART tim,
DRIER máy sấy, đắm chìm TO SINK.
FEELING cảm giác, nghĩ THINK
PRINT có nghĩa là in, DARK mờ
LETTER có nghĩa lá thơ,
TO LIVE là sống, đơn sơ SIMPLE.
CLOCK là cái đồng hồ,
CROWN vương niệm, mã mồ GRAVE.
KING vua, nói nhảm TO RAVE,
BRAVE can đảm, TO PAVE lát đường.
SCHOOL nghĩa nó là trường,
LOLLY là kẹo, còn đường SUGAR.
Station trạm GARE nhà ga
FISH SAUCE nước mắm, TOMATO là cá chua
EVEN huề, WIN thắng, LOSE thua
TURTLE là một con rùa
SHARK là cá mập, CRAB cua, CLAW càng
COMPLETE là được hoàn toàn
FISHING câu cá, DRILL khoan, PUNCTURE dùi
LEPER là một người cùi
CLINIC phòng mạch, sần sùi LUMPY
IN DANGER bị lâm nguy
Giải phầu nhỏ là SUGERY đúng rồi
NO MORE ta dịch là thôi
AGAIN làm nữa, bồi hồi FRETTY
Phô mai ta dịch là CHEESE
CAKE là bánh ngọt, còn mì NOODLE
ORANGE cam, táo APPLE
JACK-FRUIT trái mít, VEGETABLE là rau
CUSTARD-APPLE mãng cầu
PRUNE là trái táo tàu, SOUND âm
LOVELY có nghĩa dễ thương
PRETTY xinh đẹp, thường thường SO SO
LOTTO là chơi lô tô
Nấu ăn là COOK, WASH CLOTHES giặt đồ
PUSH thì có nghĩa đẩy, xô
MARRIAGE đám cưới, SINGLE độc thân
FOOT thì có nghĩa bàn chân
FAR là xa cách, còn gần là NEAR
SPOON có nghĩa cái thìa
Toán trừ SUBTRACT, toán chia DIVIDE
PLOUGH tức là đi cày
WEEK tuần MONTH tháng, WHAT TIME mấy giờ?
Sưu tầm
Bí ẩn cách treo quan tài trên vách đá? Các chuyên gia treo giải 1,3 tỷ, cụ nông dân đưa ra đáp án 'trúng phóc'!
Trong số rất nhiều phương pháp sắp đặt kỳ lạ, việc chôn cất quan tài treo ở Giang Tây là bí ẩn và kỳ lạ nhất. Một câu hỏi được đặt ra là quan tài được đặt trên vách đá như thế nào? Các chuyên gia đã treo thưởng 400.000 tệ (1,3 tỷ đồng) cho ai giải được thắc mắc này. Đáng nói, 1 người nông đã tìm ra câu trả lời.
So với chôn cất truyền thống, treo quan tài trên vách đá (huyền táng) là một hình thức mai táng vô cùng đặc biệt khi quan tài được treo trên một vách đá dựng đứng. Địa hình nơi có vách đá rất dốc, thậm chí leo lên nó cũng rất nguy hiểm. Và trong điều kiện lúc đó, công nghệ leo núi và các biện pháp an toàn vẫn chưa được phát triển. Việc treo một chiếc quan tài nặng hàng trăm kg trên một vách đá là điều khó thực hiện được với trình độ phát triển lúc bấy giờ. Hơn nữa, địa hình ở Giang Tây rất nguy hiểm, vừa có vực sâu, vừa có sông chảy xiết. Nhiều người cho rằng quan tài trên vách đá được đặt thủ công.
Nhưng số lượng quan tài khổng lồ trên núi Long Hồ ở Giang Tây khiến người dân không còn cách nào khác là phải chấp nhận sự thật rằng những chiếc quan tài được đặt bằng cách nhờ đến dụng cụ hỗ trợ. Vậy câu hỏi đặt ra là người ta đã đặt quan tài lên vách đá vào thời điểm đó như thế nào? Ngay từ những năm 1970, nhiều chuyên gia và học giả đã bắt đầu nghiên cứu vấn đề này, nhưng các chuyên gia cũng lúng túng trong việc đưa ra câu trả lời.
Để tìm ra câu trả lời chính xác, các chuyên gia, học giả thậm chí còn trả giá rất cao để mời người dân đưa ra quan điểm, ý kiến nhằm giải đáp những bí ẩn chưa có lời giải về việc huyền táng.
Phản ứng từ công chúng rất lớn, mọi người đều động não nhưng có rất ít manh mối hữu hiệu được đưa ra. Bí ẩn về việc chôn cất quan tài treo vẫn chưa được giải quyết.
Đúng lúc mọi người đang ngơ ngác thì một ông lão nông dân đã giải quyết vấn đề này một cách bình tĩnh. Hóa ra một học giả nghiên cứu bí ẩn về quan tài treo cổ đã đến vùng nông thôn gần núi Long Hổ để tiến hành điều tra và nghiên cứu. Trong một cuộc trò chuyện thông thường, lời nói của một ông lão nông dân địa phương đã khiến chuyên gia này ngộ ra sự thật. Những người nông dân già đã sống ở nơi này qua nhiều thế hệ. Khi người nông dân già còn trẻ, ông vô tình nghe được từ thế hệ đi trước rằng quan tài trên vách đá đã được "xe trời" chở đến vách đá.
Sau đó, sau khi các chuyên gia có manh mối, họ tiến hành nghiên cứu chuyên sâu và kết luận rằng cái gọi là "xe trời" hẳn là một chiếc tời khổng lồ được các thế hệ trước sử dụng ròng rọc chế tạo. Những người đi trước đã sử dụng các nguyên tắc liên quan của bánh xe và trục để tạo ra một cỗ máy nâng. Các chuyên gia rất vui mừng khi đưa ra kết luận chính xác. Họ áp dụng ý tưởng của mình vào thực tế và tiến hành các thí nghiệm ở rìa vách đá. Thí nghiệm tại chỗ đã khôi phục thành công phương pháp chôn cất quan tài treo, kết quả đã chứng minh phương pháp “hạ cẩu” mà người nông dân xưa đề cập là hoàn toàn đúng.
Bí ẩn về việc chôn cất quan tài treo cổ mà bấy lâu nay người ta chưa giải đáp được đã được giải đáp bằng cách này. Những người biết được sự thật một lần nữa chân thành ca ngợi sự khéo léo của những người đi trước.
Theo Văn Hóa và Phát Triển
Bên trong hầm chứa vàng lớn nhất thế giới
Ở tầng sâu nhất, sâu 24 mét so với mặt đất, là một kho dự trữ vàng lớn nhất được biết đến trên thế giới. Trong kho cất giữ khoảng 6.350 tấn vàng, khoảng 508.000 thỏi, có tổng giá trị hàng trăm tỷ USD.
Phần lớn số vàng được cất giữ bắt nguồn từ thời Thế chiến II. Sau khi Đức phát động chiến tranh bằng việc tấn công Ba Lan vào năm 1939, hơn 1 tỷ USD vàng đã chuyển vào kho cất giữ của Fed. Tới khi Thế chiến II kết thúc, “lượng dự trữ vàng nước ngoài tại Fed đã tăng lên hơn 4 tỷ USD”.
Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York tính phí xử lý các giao dịch vàng của chủ tài khoản, bao gồm cả khi vàng được đưa vào hoặc ra khỏi kho, chuyển quyền sở hữu và di chuyển giữa các ngăn.
Hiện tại, kho vàng có 122 ngăn. Trong đó, 98% lượng vàng dự trữ thuộc về ngân hàng trung ương của 36 quốc gia; 2% còn lại thuộc sở hữu của Mỹ và các tổ chức quốc tế khác nhau. Ước tính số vàng được lưu trữ tại đây tương đương với khoảng 25% trữ lượng vàng của thế giới.
Do đó, kho vàng cũng được bảo vệ vô cùng nghiêm ngặt. Chỉ có một cách duy nhất để vào bên trong đó là thông qua một cánh cửa thép nặng 90 tấn. Mỗi khi cánh cửa này được mở ra, cần tới 3 người có mặt, bao gồm một kiểm toán viên của Cơ quan Dự trữ New York, để đảm bảo số vàng còn nguyên vẹn và được bảo vệ an toàn tuyệt đối.
Khi vàng được chuyển vào kho, Cơ quan Dự trữ New York cũng sẽ phải sử dụng một cân để cân và định giá các thỏi vàng. Vàng sau đó được cất giữ trong các tủ được đánh số riêng và trang bị 3 lớp khoá.
Zoom cận bức tranh cổ niên đại 1.200 năm, hậu thế kinh ngạc vì phát hiện chi tiết rùng rợn
Tại Bảo tàng Nghệ thuật Boston (Mỹ) trưng bày một bức tranh cổ Trung Quốc niên đại khoảng 1.200 năm, có từ thời nhà Tống. Tên của nó là "Trang tịnh sĩ nữ đồ", được vẽ bởi họa sĩ Tô Hán Thần. Bức tranh có kíc thước dài x rộng lần lượt là 25,2 cm x 26,7 cm. Nội dung của nó xoay quanh hình ảnh một mỹ nữ thời nhà Tống đang ngồi trang điểm trước gương và bên tay trái có một cô gái khác.
Thoạt nhìn ai cũng nghĩ bức tranh chỉ miêu tả hoạt động thường ngày của một cô gái song đến khi phóng to, zoom cận, người ta kinh ngạc phát hiện ra những chi tiết rùng rợn được tác giả cài cắm. Đầu tiên là khuôn mặt của cô gái phản chiếu trong gương. Rõ ràng là gương mặt trong gương to gấp đôi, biểu cảm kì dị, khác hẳn với gương mặt nhỏ thanh tú bên ngoài. Điều này được cho là sự ẩn dụ về việc bên trong vẻ ngoài dịu dàng, hiền lành đôi khi lại là tâm hồn đáng sợ, mưu mô. Không thể đọc một cuốn sách chỉ qua trang bìa được.
Điểm thứ hai khiến người ta sợ hãi là chiếc"đầu người" xuất hiện dưới ghế của người phụ nữ. Chi tiết này không khác gì trong "Liêu trai chí dị", thường được dùng để biểu thị cho sự hiện diện của cái chết hoặc sự tồn tại của một linh hồn bên cạnh cô gái.Chi tiết thứ ba là tấm vải trắng vắt trên bàn. Theo quan niệm thời xưa, vải trắng thường được dùng trong các buổi lễ tế tự và tang lễ. Từ đó có thể suy đoán rằng có thể có một cái chết đã diễn ra và có liên quan đến người phụ nữ trong tranh.