a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT MÙA GIÁNG SINH VÀ NĂM MỚI 2025 AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM MỚI 2025 VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Hai, 14 tháng 12, 2015

Điều chưa biết về thị trấn lạnh lẽo nhất hành tinh

Từ thành phố Yakutsk có một con đường dẫn đến thị trấn Oymyakon - nơi được mệnh danh lạnh lẽo nhất hành tinh với mức nhiệt mùa hè cao nhất là -10 độ C.
Yakutsk là thành phố thủ phủ của vùng Sakha thuộc viễn Đông Siberi của nước Nga. Ở đây, mức nhiệt những ngày lạnh nhất có thể xuống còn -64 độ C, còn khi trời ấm trong mùa đông có thể -40 độ C.
Điều chưa biết về thị trấn lạnh lẽo nhất hành tinh
Mức nhiệt độ trung bình mùa đông tại nơi này là -58 độ C. Năm 1924, mức nhiệt thấp kỷ lục được ghi nhận là -96 độ C. Nhiệt độ trung bình mùa hè ở mức 30 độ C. Cho nên mức nhiệt chênh lệch rất lớn.
Điều chưa biết về thị trấn lạnh lẽo nhất hành tinh
Người dân ở thành phố Yakutsk thích ứng tốt với nhiệt độ siêu lạnh. Mùa đông đến khắp thành phố là lớp băng trắng xóa trên đường, trên cầu, trên nóc nhà, bên những cánh rừng…Những cốc trà đen và rượu của vùng này giúp họ vượt qua mùa đông lạnh giá.
Điều chưa biết về thị trấn lạnh lẽo nhất hành tinh
Thị trấn lạnh lẽo nhất hành tinh
Yakutsk có con đường đến Oymyakon – thị trấn lạnh lẽo nhất hành tinh. Khoảng cách giữa Yakutsk và Oymyakon không xa nhưng khi đi vào mùa đông rất vất vả do con đường chính bị đóng băng.
Các cư dân ở đây vẫn sưởi ấm bằng gỗ, than. Họ sử dụng nhà vệ sinh ngoài trời vì đường ống trong nhà có thể bị đóng băng đến tắc nghẽn.
Điều chưa biết về thị trấn lạnh lẽo nhất hành tinh
Thị trấn chỉ có 500 người dân sinh sống bên cạnh sông Indigirka. Nằm cách Bắc Cực 350km, nên nhiệt độ mùa đông ở đây vô cùng thấp về mùa đông. Năm 1933 còn ghi nhận được mức nhiệt -67,7 độ C. Mùa hè mức nhiệt lên cao hơn nhưng cũng chỉ -10 độ C.
Thực phẩm ở đây khan hiếm do cây trồng khó tồn tại. Nguồn thức ăn chủ yếu là săn tuần lộc lấy thịt. Cả thị trấn chỉ có 1 nhà vệ sinh công cộng.
Nhiệt độ quá thấp nên người dân không thể sản xuất nông nghiệp, thay vào đó nhiều người vào thành phố làm việc ở các nhà máy nhiệt điện. Đồ ăn chủ yếu là các loại súp, thịt...
Điều chưa biết về thị trấn lạnh lẽo nhất hành tinh
Điều chưa biết về thị trấn lạnh lẽo nhất hành tinh
Trạm xăng trong thị trấn mở cửa 24/24h, bởi xe chạy ở đây phải hoạt động liên tục, nếu dừng lại quá lâu, xe sẽ không thể khởi động được. Các nhân viên trạm xăng làm việc 2 tuần, 2 tuần được nghỉ.
Nếu có đám tang, họ sẽ phải đốt một đám lửa to nhằm cho băng tan ra để đào huyệt đưa quan tài xuống.

Đây là thảm họa núi lửa khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại

Với sức công phá khoảng 800 triệu tấn TNT, vụ núi lửa Tambora phun trào ngày 10/4/1815 tại Sumbawa, Indonesia là vụ nổ gây chấn động lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
Đây là thảm họa núi lửa khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại
Tambora là một núi lửa trên đảo Sumbawa, Indonesia. Ngọn núi lửa này có độ cao 2.772 m so với mặt nước biển. Tambora phun trào năm 1815 được đánh dấu là lần phun trào núi lửa mạnh nhất trong lịch sử hiện đại.
Theo ước tính, có khoảng 10.000 người chết trực tiếp do vụ phun trào và khoảng 70.000 người chết do hậu quả khí hậu mà nó để lại.
Trước khi phun trào, núi Tambora có độ cao khoảng 4.300 m nhưng sau đó chiều cao nó chỉ còn khoảng 2.850 m.
Thảm kịch 72 giờ
Không ai có thể ngờ, thảm họa núi lửa lớn nhất trong lịch sử hiện đại lại chỉ xảy ra vỏn vẹn... 3 ngày.
Đây là thảm họa núi lửa khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại
Mỗi giây, Tambora phun khoảng 300-500 triệu kg magma. Hình minh họa
"Thức giấc" lúc 7 giờ tối ngày 10/4/1815, núi Tambora bắt đầu phun trào và trở thành thảm họa khiến hàng chục nghìn người chết.
Ước tính, Tambora phun khoảng 300-500 triệu kg magma (mắc-ma) mỗi giây! Tiếng nổ của nó có thể được nghe thấy từ tận Sumatra, cách địa điểm phun trào khoảng 2.600 km.
Đây là thảm họa núi lửa khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại
Tầm ảnh hưởng của vụ phun trào núi lửa năm 1815.
Sức phá hủy khủng khiếp của Tambora
Vụ phun trào núi Tambora được ước tính có sức công phá khoảng 800 triệu tấn TNT, mạnh hơn 14 lần bom Sa hoàng.
Núi lửa tạo nên một cột bụi cao đến 43 km và phân tán bụi ra bầu khí quyển và bao quanh Trái Đất.
Những dòng sông nham thạch nóng thoát ra khỏi miệng núi có độ cao khoảng 4.000 m, khiến cho 10.000 người chết do không kịp di tản.
Núi lửa phun ra một lượng tro, bụi, nham thạch và khí có tổng thể tích vào khoảng 50 tỷ m khối. Một lượng khí sulphur dioxide (SO2) khổng lồ cũng bay vào khí quyển.
Đám mây bụi từ núi lửa Tambora khiến nhiệt độ toàn cầu giảm từ 0,4 tới 0,7 độ C. Một năm sau đó, nhiều khu vực ở châu Âu và Bắc Mỹ không có mùa hè.
Xem video:
Đây là thảm họa núi lửa khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại
Đám bụi này đã che phủ Mặt Trời và khiến cho năm 1816 trở thành năm lạnh lẽo xếp thứ 2 trong lịch sử. Vụ mùa thất thu và đói kém xảy ra triển miên khắp châu Âu và Bắc Mỹ.
Thậm chí, dòng sông Pennsylvania còn đóng băng giữa tháng 8 mùa hè. Vì thế, người ta đã gọi năm 1816 định mệnh ấy là “năm không có mùa hè”.
Đây là thảm họa núi lửa khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại
Núi Tambora ngày nay
Đây là thảm họa núi lửa khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại
Sương giá khiến mùa màng tại Canada và vùng New England của Mỹ thất bát. Châu Âu cũng khốn đốn vì sự suy giảm nhiệt độ.
Sau thảm họa, mùa màng và môi trường bị phá hủy, con số người chết vì thiếu lương thực lên tới 82.000 người.
Đây là thảm họa núi lửa khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại
Bức tranh của Joseph Mallord William Turner miêu tả thảm họa núi lửa Tambora
Hậu quả của núi lửa Tambora cũng để lại dấu ấn trong khoa học và nghệ thuật.
Giới khoa học cho rằng đám mây bụi từ núi lửa Tambora là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhiều bức tranh tả cảnh hoàng hôn khá lạ lùng của Joseph Mallord William Turner (1775-1851), một danh họa nổi tiếng người Anh.
*Tham khảo nhiều nguồn
Theo Trí Thức Trẻ

CUNG ĐÀN LỖI NHỊP





Bạn Ảo


 
 
Lúc này cô Hai chỉ chơi với người ảo, bởi vì người thiệt rắc rối quá, sanh nạnh tị hiềm, phe phái, đố kỵ chà đạp lẫn nhau không chừa một thủ đọan nào đến nỗi cô bị nightmare mắc bệnh sợ người không muốn gặp ai nữa.

Nghe nói thời buổi này trên mạng lưới thế giới có xuất hiện những người ảo, cô Hai nghĩ chắc người ảo dễ chơi hơn, không ai biết ai, không đụng chạm quyền lợi nhau thì làm gì có chuyện sinh sự chưởi bới thù hằn. Nghĩ vậy cho nên cô Hai nhờ thằng em sắm cho cái laptop rồi cài đặt sẵn mọi nhu liệu cần thiết để cô lên mạng tìm người ảo làm bạn coi thử có khác với người thiệt trước mắt sờ sờ hay không. 

Mỗi ngày, sau khi xong hết mọi công việc nhà, cô hí hửng ngồi vào bàn mở cái laptop ra check email. Lúc đầu, khi thấy năm ba cái mail chớp chớp trong inbox là cô mừng húm rồi. Cô trân trọng đọc kỹ từng bài, xem từng hình ảnh. Thấy hay và hữu ích, thú vị, cô không ngần ngại tìm người chia sẻ. Có được bao nhiêu người quen có địa chỉ email là cô gởi cho hết bấy nhiêu. Dần dà chuyển qua chuyển lại, cô quen được nhiều người ảo hơn nhưng cô vẫn chưa thấy đủ. Cô bèn “thân chinh đầu quân” vào vài ba diễn đàn làm thành viên trong đó hy vọng có thể thâu thập được nhiều tài liệu phong phú và giá trị hơn, biết đâu hên hên “lượm được một mớ vàng” làm hành trang cho cuộc sống.

Quả nhiên, sau một thời gian bền chí đãi sạn, cô Hai đã tìm được những hạt  châu quý báu trong kho tàng dưới đáy biển của một anh lính thủy về hưu. Với số trân châu được chia lại đó, cô ký cóp để dành để rồi thỉnh thỏang rải tung lên mạng tặng lại cho người khác, cho những ai hữu duyên gặp gỡ trên thế giới ảo vô hình.   

Nhưng thói thường, có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Đâu cũng vậy, người hiền chỉ đếm được trên đầu ngón tay còn kẻ dữ thì ôi thôi lủ khủ, tràng giang đại hải! Bởi vậy ngày ngày tuy nhận được mấy trăm cái mail nhưng cô chỉ chọn được chừng hơn chục bài xứng đáng để giữ lại, còn kỳ dư là cho vô thùng rác nhận nước xả trôi cho rảnh mắt, trống hộp thơ.

Thiệt tình cô không hiểu nổi, đã nói là người ảo không từng biết nhau, không từng gặp gỡ, vậy mà duyên cớ nào lại tới nông nổi đem sân hận giải quyết trên diễn đàn, hơn thua tranh chấp, mạt sát nhau bằng những lời lẽ tục tằn bẩn thỉu mà đến dân ma cô hay đứng bến cũng còn phải ngã nón chào thua. Vậy đó!
 
Thì ra một khi đã mang danh hiệu con người thì cho dù là người thật hay người ảo đi nữa thì cũng y chang như nhau. Ai cũng mắc phải ba trạng thái tâm lý gọi là tam độc “Tham Sân Si” mà ngày nào chưa chuyển hóa hay giác ngộ được thì ngày ấy vẫn còn khổ lụy triền miên trong cuộc đời… Chạy trời không khỏi nắng! Biết làm sao!
 
Nhân sinh một kiếp phù du
Cõi trần chỉ tạm lãng du chờ về
Hư vô một cõi đi về
Khi đi tay trắng khi về tay không
Xin người hiểu suốt hiểu thông
Xin trời soi sáng hiệp thông lòng người
 
 
  Người Phương Nam

ĐƯỜNG VỀ QUÁ KHỨ





 
Một sớm nọ tôi có ý muốn viếng lại cái chợ Cầu Ông Lãnh, nơi mình từng sống ba năm Tiểu học và những năm  Trung học để tìm về một chút quá khứ tuổi mới lớn. Sau khi lòng vòng trong những con đường tum húm của khu Chợ Cháy trước đây vốn là khu bán guốc, bán gạo, bán đường đậu, bán thuốc rê, bán nhang đèn…, nhìn chỗ những gian hàng sung túc ngày xưa bây giờ bị xẻ thành hai, thành ba căn phòng nhỏ híu cho từng gia đình trú ngụ tôi chắc lưỡi thầm than cho chuyện đời đổi thay tuột dốc.
May quá, thằng bạn xóm giềng gần chục năm tuổi trẻ của tôi dầu xa cách hằng bốn thập kỷ vẫn còn sống ở đây. Nó phải mất chừng mười phút lục tung ký ức mờ phai mới nhận ra bạn cũ sau khi tôi nói xa gần về thời niên thiếu của nó. Nào là nó bị thằng Mẹo đánh bầm mắt, a-má nó phải luộc cả chục hột gà để lăn và ông Bảy, ngoại thằng Ba, phải đốt nhang khoán bùa hết mấy lần. Nào là có lần nó đi tắm mưa với bạn, vật lộn với tụi bên vựa trái cây và vựa chuối tới tàn cơn mưa, về nhà bị bịnh ban cua hai con mắt trỏm lơ. Nào là bọn trẻ lối xóm tối  tối rủ nhau ra đường ‘Bồ-rệt’ chơi đá lon trốn kiếm thì nó phải đứng ngoài coi chừng má thằng nào tới thì báo động vì nó quá cao giò so với tụi tôi cùng lứa. Nào là mấy bữa có hát Tiều ở Chùa Bà thiên hạ người ta đi coi nườm nượp, đông quá trời mà a-má nó hễ thấy nhà thiếu mặt con Tẻng thì bắt nó đi kiếm vì sợ con nhỏ cặp bè cặp bạn đi coi hát với thằng bán thuốc…

Tôi nói tới đây thì thằng Mắc mở mắt ra thiệt lớn, cặp mắt nó tới bây giờ hơi kéo mây vẫn còn màu xanh ngơ ngác của người có trộn chút máu phương Tây, biểu lộ một sự vui mừng tuyệt cùng:

‘Vậy tao nhìn ra được mầy rồi, mầy là thằng S. hồi đó tối tối mầy ngồi bán thuốc lẽ dưới đường trước quán cơm lòng bò của chú Ba Tiều.’
‘Ừ chính thiệt là tao!’

Nhận ra lý lịch nhau rồi chúng tôi trao đổi về kỷ niệm cũ, thằng nào nhớ chuyện gì thì hào hứng kể ra, tranh nói cho hết chuyện như sợ thằng kia kể mất phần. Gần già rồi mà cảnh đời tuổi thơ của hai đứa hiện về liền xì bốc khiến hai ly cà phê đá vợ thằng Mắc đem tới mời nảy giờ tan ra nguội ngắt, mồ hôi ly tuông nhỏ giọt xuống cái bàn cũ kỹ trước mặt chúng tôi. Vui ớn gì! Chúng tôi vổ vai nhau thân thiết như những ngày mới lớn, coi như không có khoản thời gian diệu vợi mấy mươi năm lướt xẹt qua đời mình.
Vậy mà khi chia tay với thằng Mắc thì lòng tôi buồn rười rượi, bước ra chỗ lấy xe cách có mấy trăm thước mà chưn bước đi xiêu bồng... Nó nói con Tẻng ở Mỹ cũng hơn hai chục năm rồi, có nhà hàng lớn đại ở khu phố Lion miền Bắc Cali mà hình như là không được hạnh phúc, chồng nó nhậu lu bù, gan ruột phổi phèo u nần chẳng kể số gì hết! Buồn  không phải vì nghe những chi tiết mình không muốn nghe về người xưa mà vì mấy chữ không được hạnh phúc từ miệng của người bạn trẻ thời đăng đẳng xa xưa.

Đường Sàigòn đông như hội, xe gắn máy chạy loạn xạ như đạn bắn Tết Mậu Thân ở vùng quận Sáu mà tôi thì bất chấp, cứ miên man nghĩ về chuyện xưa. Những cái háy hó khinh bĩ hay những cái nhìn bằng con mắt hình mũi tên diệt thù bao nhiêu lần phóng vô mặt mà tôi thì cứ như người cõi trên hạ xuống trần coi thế sự để về tấu Ngọc Hoàng. ‘Tao qua đó làm công cho vợ chồng nó năm năm mà tụi nó đối xử còn hơn người dưng nước lạnh, bắt làm thêm nhiều giờ mà vẫn trả lương tối thiểu theo tiêu chuẩn ngày làm tám tiếng… Tánh tao ưa thương người, thấy mấy thằng Mỹ trắng, Mỹ đen ‘hôm-lết’ rách rưới đói khổ nên múc đồ ăn cũ ra cho. Ỷ mình làm anh tao không cần hỏi chủ, có lần nó thấy, nó xỉa xói là làm như vậy tụi ‘hôm-lết’ quen thói, kéo tới đông thì chủ nhà hàng có nước xập tiệm thôi, đồ cũ để o lại bán cũng được vậy! Tao quê với mấy cô bồi bàn kể gì… thiếu điều trốn vô ‘toi-lết’ gục mặt ở trỏng luôn. Buồn tủi quá tao về đây ở lì không thèm qua bển nữa, bỏ mẹ nó không thèm chờ lãnh tiền già. Thêm xốn mắt chuyện nó tính tiền gian lận khách hàng, mỗi người ít thì chừng 2, 3 đồng nhiều thì 1, 2 chục cộng với tiền thuế không bao giờ nạp đủ  cho chánh phủ.  Tao nói hoài là tích tiền thì tổn đức,  nó bỏ ngoài tai lại còn chê tao cù lần, nhiếc móc nào là đạo đức cù bơ chẳng lo thân chừng sau nầy già nằm một chỗ than khổ chẳng có thằng cha con mẹ ‘hôm lết’ nào tới trả ơn…

Ờ há! Tôi rười rượi buồn vì mấy lời của thằng Mắc về con em nó. Như có một sự ngửa úp hai mặt đồng tiền đối với tánh tình trước đây và hiện giờ của người con gái tôi từng để ý.

Chạy lòng vòng một đổi không biết đi đâu. Tôi quành lại Chùa Bà đường Nguyễn Công Trứ kêu một ly đá chanh của quán trước chùa. Xách cái ghế vô ngồi một mình tuốt trong sân, chỗ kế bên hồ nuôi rùa để thả ký ức về thời quá khứ. Sân chùa gần thế kỷ có lẽ, thênh thang phủ lớp gạch Tàu đỏ au phẳng phui và không một chút rêu xanh. Nơi đây có một lần duy nhứt tôi và con Tẻng đứng chen chưn nghe hát hội.

Chúng tôi không có nhiều kỷ niệm nhưng một hai sự kiện xưa cũng đủ nhói tim khi nhớ về. Chiều hôm đó khi tiệm bán đường đậu của nó dọn hàng đóng cửa xong thì đằng chùa Bà vang dội tiếng ò-e của gánh hát Tiều cúng Bà. Thấy tôi lơn tơn đi tới, con nhỏ nói trỏng: Hát vui lắm.  Rồi không rủ rê gì hết, nó đi thẳng về phía có tiếng đờn và tiếng chập chõa vang rền. Tôi như bị nam châm thu hút lẻo đẻo đi theo. Cũng chẳng nói gì với nhau, đi là đi vậy thôi, đứa trước đứa sau. Tới nơi, người chật cứng, hai đứa phải đi xát vô nhau. Tôi lần đầu tiên có cảm giác bay hồn về hơi nóng của người trang lứa khác phái. Con nhỏ mê hay làm bộ mê mà mắt chăm bẳm ngó lên sân khấu nghe đào kép Tiều i-ê. Tôi thì chẳng mê ca hát cù lần kiểu nầy, chẳng hiểu gì hết mê sao nỗi! Nhưng tôi phân tích thái độ của nó, chịu đứng trước mặt, gần xát đến nỗi truyền thân nhiệt vô bụng tôi, chắc là rồi đây tôi phải chịu nhục thêm nữa về những cái nhìn ác cảm của a-má nó. Bà ta hễ gặp tôi là phóng một tia mắt bén như dao cau vừa khinh khi vừa ghét bỏ rồi ngó qua chỗ khác liền. Nếu có nó ở gần đó thế nào  bà ta cũng chưởi nó bằng mấy tràng tiếng Tiều khiến con nhỏ chù ụ mặt. Tính trong bụng nầy nọ  như vậy tôi nắm một bàn tay buông thỏng của nó hồi nào không hay. Thằng Mắc hiện ra kêu em nó về, nói nhỏ với tôi giọng không có gì là mất thiện cảm: ‘A Chệt thì không sao, nhưng a-má không ưa mầy.’

Tôi gần như thẩn thờ cả tháng vì đi qua lại nhiều lần trước tiệm của nó đều không bao giờ thấy mặt, mà cũng chẳng còn thấy nó lượn qua cửa hàng của cô tôi để  đi qua chợ  hàng bông như thông thường.

Biết được tôi mê conTẻng mà bị a-má nó làm kỳ đà cản mũi, thằng Mẹo chọc tôi: Thôi, bỏ qua đi Tám, để tao vô cho, nhà tao giàu hơn nhà mầy nhiều. Tôi tức mình muốn gây sự nhưng thấy bộ dạng dềnh dàng của nó thì nuốt nước miếng nhịn thua.

Tuổi mới lớn cũng dễ quên. Với lại kỳ thi Tú Tài I trước mắt mới bắt đầu mà những bài Toán Lượng Giác thì không phải dễ nuốt, tôi quên lững con nhỏ một thời gian dài.
Cho tới sau ngày tôi thi đậu đâu chừng một tháng thì thằng Mắc kêu tôi qua nhà nó chơi. Cũng là chuyện bình thường. Bạn mời thì đi. Đường quận Tư, Xóm Bến tàu vô trong thì lầy lội, nhà cửa cất sâu trong đất ruộng, đi vô nhà sình dính vô giày ‘san đan’ trĩu nặng như dính keo, chẳng khác nào có ai kéo trì xuống. Tôi vô cùng cảm động khi nó hiện ra với cái thau nước kêu tôi rửa cẳng rồi tự tay nó rửa giày tôi đem phơi. Con nhỏ nói sau nầy giàu nó sẽ không cất tiền trong nhà mà sẽ đắp đường sạch sẽ cho thiên hạ khỏi khổ. Tôi chịu cái lòng từ thiện của nó và nói bây giờ có tiền ít mà Tẻng có cho người nghèo không? Thằng Mắc cướp lời rằng trên đường từ chợ về lần nào nó cũng cho tiền ba bốn người ăn mày, trong xóm nầy ai cũng biết nó ưa bố thí.

Tôi ngó trộm gương mặt nó. Tròn trịa và rực rỡ như tiên nữ. Nó vừa xối nước rửa tay tôi vừa hỏi nho nhỏ: Đẹp hơn con Tuyết, cháu ngoại bà bán nhang không?

Những đứa bán giấy số rượt đuổi nhau kéo tôi về thực tại. Chộp ực ly đá chanh nhưng sao thấy nhạt phèo. Quá khứ là ký ức, là đời sống ảo, không hiện hữu. Ngay cả nhớ về quá khứ còn không thể làm được hoàn toàn huống gì đi tìm một chút gì đó mong còn lưu tồn của quá khứ. Tôi bỏ hẳn ý định khi trở lại Mỹ sẽ lái xe xuống San Jose gặp Tẻng mặc dầu từ thành phố Fresno xuống đó cũng chẳng bao xa. Tôi tưởng tượng ra mình và Tẻng như hai con kiến bò theo xương sống của một loài cá có xương tua tủa. Tẻng đã rẽ vô một xương rẽ nào đó, rồi gặp ngã rẽ nữa, ngã rẽ nữa…, còn tôi bò tới một nhánh nào khác rồi cũng rẽ và rẽ, và rẽ…. Làm sao hai đứa có thể găp nhau khi ở trên những nhánh xương khác nhau. Như hai phân tử máu chạy trong mạch của thân thể, khó gặp nhau vô cùng. Gặp nhau thì cả hai đã cũng đổi hình thay dạng quá nhiều, không còn ‘vô vướng bận’ và thanh khiết như ngày trước…

Tôi nghĩ điều khiến mình rười rượi buồn là vì thâm tâm biết không thể nhảy vô quá  khứ để tìm lại  những gì  thời gian đã làm cho biến mất. Điều làm tôi xiêu bồng là tiếc một lòng nhân hậu không được phát triển, cũng như cảm thấy bi thương cho người xưa cũ nay đắm chìm trong những tính toán lợi lộc lừa đảo nên sẽ chẳng bao giờ tìm thấy hạnh phúc, trong tâm hồn cũng như trong thực tế.


 (Ảnh trên Internet)
Tôi hỏi một em bán giấy số có bộ mặt thông minh nhứt khi thấy nó cầm tập giấy số xòe rẽ quạt phất phất trước mặt như mấy bà xòe bài tứ sắc dùng bài quạt khi quá nực một câu làm em ngơ ngác: Có vé trúng đường về quá khứ không? Nó trả lời bằng bộ mặt thiểu não của người buôn bán ế ẩm, nảy giờ chú ngồi đây lâu quá, con đi qua lại ba vòng mà chú vẫn còn ngồi. Thôi mua cho con mấy tờ đi, biết đâu lại trúng độc đắc.

Thằng nhỏ an ủi để tôi vui lòng mua  thôi. Trúng độc đắc cũng như gặp được di vật  mình ưa thích  thời quá khứ, khó dàng trời mây!  Dễ gì!


Nguyễn Văn Sâm (Victorville, CA, 12- 12- 2015)

Chủ Nhật, 13 tháng 12, 2015

Sự thật chết người về nỗi cô đơn


(rclassenlayouts/iStock)
(rclassenlayouts/iStock)
Hầu như tất cả chúng ta đều đã từng nếm trải sự cô đơn tại một số thời điểm. Đó là nỗi đau mà chúng ta đã cảm thấy sau một cuộc chia tay, có lẽ là sự mất mát của một người thân yêu, hoặc đi đâu đó xa nhà. Chúng ta rất dễ bị tổn thương bởi cảm giác cô đơn ở bất kỳ thời điểm nào trong cuộc sống của chúng ta.
Sự cô đơn thường được sử dụng để mô tả một trạng thái cảm xúc tiêu cực khi người ta thấy có sự chênh lệch giữa các mối quan hệ mà người ta muốn có và những điều người ta cảm nhận mình đang có.
Những cảm giác khó chịu của sự cô đơn là chủ quan; các nhà nghiên cứu đã phát hiện rằng sự cô đơn không có liên quan đến khoảng thời gian một người dành cho người khác hay ở một mình. Nó có liên quan nhiều hơn đến chất lượng của các mối quan hệ, chứ không phải số lượng. Một người cô đơn cảm thấy những người khác không hiểu được mình, và có thể không nghĩ họ đang có các mối quan hệ đầy ý nghĩa.

Một người cô đơn cảm thấy những người khác không hiểu được mình.

Đối với một số người, sự cô đơn có thể là tạm thời và được khuây khoả đi một cách dễ dàng (chẳng hạn như một người bạn thân chuyển chỗ, hoặc người vợ/chồng trở về sau một chuyến công tác). Đối với những người khác, sự cô đơn không thể dễ dàng được giải quyết (ví như cái chết của một người thân hoặc sự tan vỡ cuộc hôn nhân) và có thể rất dai dẳng khi một người không có kết nối với những người khác.
Từ một luận điểm về tiến hóa, chúng ta phải dựa vào các nhóm xã hội để đảm bảo sự tồn tại của chúng ta như là một loài. Do đó sự cô đơn có thể được xem như một hiệu lệnh để kết nối với những người khác. Điều này làm cho nó khác biệt chút ít với cơn đói, khát hay nỗi đau thể xác, vốn là những dấu hiệu cho thấy cần phải ăn, uống hoặc tìm kiếm sự chăm sóc y tế.
Tuy nhiên, trong những xã hội hiện đại giàu có, việc tắt đi các tín hiệu báo động sự cô đơn lại trở nên khó khăn hơn việc thỏa mãn cơn đói, khát hoặc sự cần thiết phải đi khám bệnh. Đối với những người không được nhiều người xung quanh quan tâm, sự cô đơn có thể tồn tại dai dẳng.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện sự cô lập với xã hội là một yếu tố nguy cơ gây bệnh tật và tử vong sớm. Những khám phá của một bài phê bình tổng hợp gần đây đã chỉ ra rằng sự thiếu kết nối xã hội đặt ra một nguy cơ gây chết sớm tương tự như các dấu hiệu về thể chất – như bệnh béo phì.
Cô đơn là một yếu tố nguy cơ gây ra nhiều trở ngại về sức khỏe thể chất, từ khó ngủ, chứng mất trí nhớ đến khả năng làm việc của tim mạch kém đi.
(David Hodgson/Flickr/CC BY)
Một số cá nhân có thể dễ bị tổn thương về mặt sinh học do cảm giác cô đơn. (David Hodgson / Flickr / CC BY)
Ngoài ra một số cá nhân có thể dễ bị tổn thương về mặt sinh học do cảm giác cô đơn. Bằng chứng từ các nghiên cứu về các cặp sinh đôi cho thấy sự cô đơn có thể một phần do di truyền.
Nhiều nghiên cứu đã tập trung vào việc liệu sự cô đơn có thể là kết quả kết hợp của những loại gen nhất định với các yếu tố xã hội hay môi trường cụ thể (chẳng hạn như hỗ trợ của cha mẹ).
Sự cô đơn phần lớn bị bỏ qua và không được xem như là một điều kiện cần quan tâm đối với tình trạng sức khỏe tâm thần. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa hiểu đầy đủ về mức độ ảnh hưởng của sự cô đơn đến sức khỏe tâm thần. Hầu hết các nghiên cứu về sự cô đơn và sức khỏe tâm thần chỉ tập trung vào việc cô đơn liên quan đến trầm cảm như thế nào.
Mặc dù cô đơn và trầm cảm có phần nào liên quan, nhưng chúng khác nhau. Sự cô đơn có quan hệ một một cách cụ thể đến những cảm xúc tiêu cực của thế giới có tính xã hội, trong khi trầm cảm được quy vào một tập hợp tổng quát hơn của những cảm xúc tiêu cực.
Theo một nghiên cứu trong khoảng thời gian năm năm đo lường sự cô đơn ở người lớn tuổi, sự cô đơn có thể dẫn đến trầm cảm, nhưng không phải là ngược lại.

Giải quyết vấn đề cô đơn

Sự cô đơn có thể bị nhầm là một triệu chứng trầm cảm, hoặc có lẽ người ta giả định rằng sự cô đơn sẽ biến mất một khi giải quyết xong các triệu chứng trầm cảm. Nói chung, những người “cô đơn” được khuyến khích tham gia vào một nhóm hoặc chơi với một người bạn mới, dựa trên giả định rằng sự cô đơn sau đó sẽ biến mất.
Social isolation is a risk factor for disease and premature death. (Christopher Furlong/Getty Images)
Cô lập về mặt xã hội là một yếu tố nguy cơ bệnh tật và tử vong sớm. (Christopher Furlong / Getty Images)
Trong khi việc tạo ra những cơ hội để kết nối với những người khác đã cung cấp một nền tảng cho sự tương tác xã hội, xoa dịu nỗi đau từ những mối quan hệ xã hội không phải là đơn giản như vậy. Những người cô đơn có thể nghi ngại về tình trạng xã hội và kết quả là có những biểu hiện thái độ không chấp thuận. Những người này có thể bị hiểu sai là không thân thiện, và mọi người xung quanh cá nhân cô đơn cũng hành xử tương tự. Từ đó sự cô đơn có thể trở thành một chu kỳ liên tục.
Một nghiên cứu đã thẩm tra tính hiệu quả của các loại phương pháp điều trị khác nhau nhằm chữa trị sự cô đơn. Kết quả cho thấy những phương pháp điều trị tập trung vào việc thay đổi suy nghĩ tiêu cực về người khác có hiệu quả hơn phương pháp cung cấp cơ hội giao tiếp xã hội.

Các bằng chứng khoa học ngày càng làm nổi bật những hậu quả tiêu cực của sự cô đơn đối với sức khỏe thể chất và tinh thần có thể không còn bị bỏ qua.

Một cách để giải quyết đầy hứa hẹn đối với vấn đề cô đơn là nâng cao chất lượng các mối quan hệ, đặc biệt bằng cách xây dựng sự thân mật với những người xung quanh chúng ta. Sử dụng một phương pháp tâm lý tích cực, tập trung vào việc tăng cảm xúc tích cực trong các mối quan hệ xã hội hoặc gia tăng các hành vi xã hội, có thể khuyến khích các kết nối sâu sắc hơn và có ý nghĩa hơn với những người khác.
Thật vậy, ngay cả những người đã từng bị chẩn đoán mắc bệnh tâm thần nghiêm trọng đã báo cáo những tiến triển về tình trạng sức khoẻ và các mối quan hệ của họ, sau khi chia sẻ những cảm xúc tích cực và thực hiện nhiều hoạt động tích cực hơn những người khác. Tuy nhiên, nghiên cứu sử dụng phương pháp tâm lý tích cực để điều trị sự cô đơn vẫn còn trong giai đoạn trứng nước.
Chúng tôi tiếp tục đánh giá thấp khả năng sự cô đơn có thể dẫn đến chết người và là một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Các công cụ hiện đại như phương tiện truyền thông xã hội, trong khi tưởng như thúc đẩy sự kết nối xã hội, lại ưa chuộng các tương tác ngắn gọn với nhiều người quen biết, hơn là phát triển những mối quan hệ tuy không thường xuyên hơn nhưng có ý nghĩa hơn. Trong xu hướng này, điều thách thức là giải quyết vấn đề cô đơn và tập trung vào việc xây dựng những mối quan hệ ràng buộc có ý nghĩa với những người xung quanh chúng ta.
Các bằng chứng khoa học ngày càng làm nổi bật những hậu quả tiêu cực của sự cô đơn đối với sức khỏe thể chất và tinh thần có thể không còn bị bỏ qua.
Michelle H Lim, giảng viên tâm lý học và lâm sàng, đại học công nghệ Swinburne. Bài viết này ban đầu được công bố trên The Conversation.
Tác giả: Michelle H Lim, Swinburne University of Technology | Dịch giả: Xuân Dung

Mười lời khuyên để ngăn ngừa ung thư

Dix conseils à suivre pour prévenir le cancer
(Ảnh Pixabay)
Ba thành viên của Học viện Kỹ thuật Trung Quốc, Hao Xishan, Sun Yan et Zeng Yixin, là những chuyên gia trong việc điều trị ung thư. Dưới đây là 10 lời khuyên họ đưa ra để ngăn ngừa ung thư:
  1. Duy trì một trọng lượng hợp lý

Đây là lời khuyên đầu tiên, quan trọng nhất, theo như kết luận của một nghiên cứu do 21 nhà khoa học từ khắp nơi trên thế giới thực hiện trong 5 năm. Tế bào ung thư có thể phát triển ở những người thừa cân vì mô mỡ có thể sản xuất những hocmon, chẳng hạn như insulin hoặc estrogen. 
  1. Không bao giờ sử dụng các chất bổ sung dinh dưỡng phòng chống ung thư

Tôi không đồng ý với việc sử dụng các chất bổ sung dinh dưỡng để ngăn ngừa ung thư“, Hao Xishan cho biết. “Đây là cái chỉ có hiệu quả trong xét nghiệm tế bào hoặc các xét nghiệm được thực hiện trên động vật”.
  1. Không bao giờ ăn thực phẩm chiên

“Để phòng chống ung thư, tránh ăn thực phẩm giàu chất béo, muối, đường với số lượng quá nhiều, chẳng hạn như khoai tây chiên kiểu Pháp,” Hao Xishan cho biết.
   4   Không ăn thức ăn thừa
Thói quen xấu là ăn thực phẩm kém chất lượng hoặc để quá lâu có thể gây ra ung thư dạ dày. Sun Yan nói rằng một cơn đau dạ dày bất chợt không phải là một vấn đề, nhưng nếu nó tái phát thường xuyên, Yan khuyến cáo nên thực hiện một cuộc kiểm tra y tế. Viêm dạ dày mãn tính kết hợp với nhiễm Helicobacter pylori, có thể là nguyên nhân của các tổn thương tiền ung thư.
  1. Ăn ở nhà càng nhiều càng tốt

Rối loạn tiêu hóa, hút thuốc, uống rượu và ăn quá nhiều – thường gây ra bởi các bữa ăn trưa ở bên ngoài – có thể dẫn đến tăng cân cũng như tổn thương dai dẳng đến dạ dày, có thể gây ung thư. Sun Yan khuyến khích ăn ở nhà càng nhiều càng tốt.
  1. Không bao giờ hút thuốc

Hút thuốc liên quan đến ung thư phổi và là một trong những yếu tố chính dẫn đến ung thư vòm họng.
  1. Thực hiện kiểm tra sức khỏe một năm hai lần

Phương pháp chính để phát hiện ung thư ở giai đoạn đầu là kiểm tra sức khỏe hàng năm. Sun Yan khuyên hai kỳ mỗi năm. “Việc kiểm tra sức khỏe cần được thực hiện mỗi năm. Kiểm tra toàn diện cơ thể thực hiện với một tần suất dày hơn là đặc biệt cần thiết cho người cao tuổi. Hậu môn và các bộ phận cơ thể khác nên được kiểm tra”.
  1. Bất kỳ môn thể dục nào cũng tốt hơn so với không tập gì

Sun cho biết các bài tập thể dục có thể thay đổi từ người này sang người khác. Nhưng khi chúng ta di chuyển thì điều đó luôn luôn có lợi, cho dù đó là chạy bộ, bơi lội hoặc bất kỳ hình thức vận động nào khác. Không cần địa điểm hoặc thời gian cụ thể, bạn có thể thực hiện một số động tác thể dục trong khi làm việc hoặc trong quá trình giải trí. 
  1. Loại bỏ các thói quen xấu

Nhiều khối u có liên quan đến thói quen xấu. Ví dụ, ăn quá nhiều thực phẩm giàu chất béo, thịt, hoặc không ăn đủ trái cây và rau quả có thể gây ra bệnh ung thư ruột kết, ung thư phổi thụ động do hít phải khói thuốc…Do đó quan trọng là có một lối sống lành mạnh, dành thời gian để ăn, ngủ và luyện tập các bài tập thể dục thường xuyên.
  1. Hãy là một người vui vẻ và học cách để cảm thấy hài lòng

Căng thẳng, trầm cảm và lo âu là những yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư. Những cảm xúc tiêu cực lâu dài sẽ gây ra căng thẳng, làm suy yếu hệ thống miễn dịch, điều đó có thể là một phần nguyên nhân dẫn đến sự tiến triển ung thư.
Duy trì một tinh thần vui vẻ sẽ góp phần tạo nên một sức khỏe thể chất tốt. Bằng cách làm theo những lời khuyên này, bạn chính là trên con đường để có một cuộc sống khỏe mạnh và không bị ung thư.
Tác giả: Monica Song | Dịch giả: Kim Xuân

Lễ Giáng Sinh: Sứ điệp Hòa Bình với Tình Thương bao la Thượng Đế ban cho nhân loại



Lễ Giáng Sinh là truyền thống Văn hóa dân tộc
Lễ Giáng sinh, Noel, Christmas hay Xmas còn được gọi là lễ Thiên Chúa Giáng Sinh.
Từ tiếng Pháp Noël, viết tắt từ gốc Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, là một ngày lễ kỷ niệm ngày Chúa Giê-su thành Nazareth sinh ra đời của phần lớn người Cơ Đốc Giáo.
Họ tin là Chúa Giê-su được sinh tại Bethlehem thuộc tỉnh Judea của nước Do Thái, lúc bấy giờ đang dưới quyền thống trị của Đế quốc La Mã giữa năm 6 TCN và năm 6.
Nhiều nước ăn mừng ngày này vào 25 tháng 12, một số nước khác, vào tối ngày 24 tháng 12.
Theo Công giáo Rôma, lễ chính thức là ngày 25 tháng 12 còn gọi là “lễ chính ngày”, còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi là “lễ vọng”, nhưng lễ đêm 24 tháng 12 thường thu hút tin đồ tham dự nhiều hơn.
-Ý nghĩa từ “Merry Christmas” (Lễ Giáng Sinh Vui).
Tĩnh từ “Merry” gieo vào lòng chúng ta một niềm hân hoan, một cảm giác ấm áp hạnh phúc vì nó gắn liền với dịp lễ Giáng sinh. Mặc dù các hoạt động tổ chức lễ Giáng sinh đã bắt đầu từ thế kỷ thứ IV sau công nguyên, nhưng chỉ đến năm 1699, thì từ “Merry Christmas” mới được phổ biến.
Người có công lớn về nguồn gốc của cụm từ này là một sỹ quan hải quân vì ông đã sử dụng từ này lần đầu tiên trong một bức thư thân mật vào năm 1699. Cụm từ này xuất hiện lần thứ hai vào năm 1843 trong một tác phẩm của Charles Dickens “Bài hát đón mừng lễ Giáng sinh”.
Trong dịp lễ Giáng sinh, không chỉ có đạo Thiên Chúa mà hầu như tất cả mọi người dù ở các giai tầng hay tôn giáo khác nhau cũng đều gửi đến nhau lời chúc “Merry Christmas”. Trong cụm từ Merry Christmas, “Merry” có nghĩa là niềm vui còn “Christmas” có nghĩa là các con chiên của chúa (cách dùng trong tiếng Anh cổ).
-Biểu tượng Giáng sinh và ý nghĩa của Vòng lá mùa vọng 
Vòng lá mùa vọng là vòng tròn kết bằng cành lá xanh thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người trông thấy. Cây xanh thường được trang hoàng trong các bữa tiệc của dịp Đông chí – dấu hiệu của mùa đông sắp kết thúc. Trên vòng lá đặt 4 cây nến. Tục lệ này khởi xướng bởi các tín hữu Pháo Lutheran ở Đức vào thế kỷ 16 để nói lên sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối.
Vòng lá có hình tròn nói lên tính cách vĩnh hằng và tình yêu thương vô tận của Thiên Chúa. Màu xanh lá nói lên hy vọng rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu con người. Bốn cây nến bao gồm ba cây màu tím – màu của Mùa Vọng. Cây thứ 4 là màu hồng, là màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng (Gaudete Sunday).
-Ngôi sao Giáng Sinh
Ngôi sao 5 cánh thường xuất hiện rưc rỡ đủ màu sắc trong mùa Giáng sinh. Một ngôi sao to lớn được treo ở chỗ cao nhất của tháp chuông nhà thờ. Từ đó căng giấy ra bốn phía,có nhiều ngôi sao nhỏ, treo đèn lồng và kết hoa rất đẹp mắt.
Ngôi sao trong lễ Giáng sinh có ý nghĩa đặc biệt, theo tương truyền lúc Chúa vừa chào đời thì xuất hiện một ngôi sao rực rỡ. Ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm còn nhìn thấy. Từ các vùng phía đông xa xôi nay thuộc lãnh thổ Iran va Syria, có 3 vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp phép lạ gọi là lễ ba vua.
Từ đó, 3 vị tìm theo sự dẫn đường của ánh sáng để đến được thành Bethelem nơi Chúa đã ra đời. Ba vị này thân quỳ trước mặt Chúa, dâng lên Chúa các vật phẩm trầm hương và vàng bạc châu báu.
Ngôi sao trở thành biểu tượng ý nghĩa trong mùa Giáng sinh và được treo chỗ sang trọng nhất ở các giáo đường, cơ sở tôn giáo trong đêm Giáng sinh để nhớ đến sự tích trên. Do ý nghĩa ngôi sao còn tượng trưng cho phép lạ của Thượng đế.
-Ông già Noel
Santa Claus
Santa Claus
Nguồn gốc của từ “ông già Noel” (Santa Claus) hay thánh Nicholas bắt đầu ở Thổ Nhĩ Kì từ thế kỉ thứ IV. Từ lúc còn nhỏ thánh đã là một người rất ngoan đạo và đã hiến cả cuộc đời của mình cho đạo Cơ Ðốc.
Thánh Nicholas đặc biệt được ca tụng vì tình yêu đối với trẻ em và sự hào phóng của ngài.Thánh Nicholas là người bảo trợ cho các thuỷ thủ, đảo Xi-xin-li, nước Hy Lạp và nước Nga và tất nhiên thánh cũng là người bảo trợ của trẻ em.Vào thế kỉ thứ 16, ở Hà Lan trẻ em thường đặt những chiếc giầy gỗ của mình bên cạnh lò sưởi với hy vọng là chúng sẽ được thánh Nicholas thết đãi no nê.
Người Hà Lan phát âm từ St. Nicholas thành Sint Nicholaas, sau đó nói chệch thành Sinterklaas và cuối cùng được những người theo giáo phái Anh đọc thành Santa Claus.

-Bộ quần áo đỏ của ông già Noel. 

Ông già tuyết chưa trở thành ông già tuyết, vì ông vẫn mặc bộ quần áo tiều phu cũ kỹ, cưỡi ngựa mỗi khi đến cho quà bọn trẻ. Một ngày nọ, ông địa chủ làng Nicholas đi ngang qua nhà ông, và lập tức Nicholas bị mê hoặc bởi chiếc xe kéo với hai con tuần lộc xinh đẹp, xe có gắn những cái chuông kêu lanh canh dễ thương. Ông địa chủ mặc một bộ đồ đỏ tươi, đầu đội mũ lông cùng màu. “Mình cũng đáng để có nó lắm chứ, con ngựa nhà mình đã quá già và hay than thở, còn bộ quần áo này thì không chịu nổi cái giá rét mùa đông nữa”.
Nicholas tìm đến bà thợ may giỏi nhất vùng để có bộ đồ đỏ mơ ước ấy. Nhưng lạ lùng thay, khi bộ đồ hoàn thành thì nó to đến độ trông Nicholas như lọt thỏm vào trong ấy “Ôi tôi đã làm hỏng bộ đồ của ông rồi, nó mới thùng thình làm sao!“. ”Không sao cả, tôi sẽ ăn bánh kẹo cho người to lên như bộ quần áo. Cái quần dài này ư? Tôi sẽ mang một đôi ủng đen để bớt độ lùng xùng. Bà cứ yên tâm, trông tôi sẽ tuyệt vời trong bộ quần áo này đấy!”.
Và như thế, ông già Noel đã ra đời như một huyền thoại, nhưng đến mấy mươi năm sau, thì bộ trang phục đỏ gắn liền với huyền thoại ấy mới có.
Còn bây giờ, hãy tự tin mà bảo với mọi người rằng: “Ông già Noel trên xe trượt tuyết với hai con tuần lộc là hoàn toàn có thật”.

-Cây tầm gửi và cây ô rô.

Hai trăm năm trước khi Chúa Giê su ra đời, người ngoại đạo dùng cây tầm gửi để kỷ niệm ngày Mùa Ðông đến. Họ thường hái loại cây kí gửi này và dùng nó để trang trí cho ngôi nhà của mình. Họ tin tưởng rằng loại cây này có một khả năng chữa trị đặc biệt đối với mọi loại bệnh tật từ bệnh vô sinh của phụ nữ cho đến ngộ độc thức ăn.Những người dân ở bán đảo Scandinavian House (Xcăngđinavi) cũng coi cây tầm gửi là biểu tượng của hoà bình và sự hòa thuận. Họ còn đồng nhất hình tượng cây tầm gửi với nữ thần tình yêu của họ là thần Frigga (Frigga: Norse Goddess of Beauty, Love and Marriage)
Phong tục hôn nhau dưới bóng cây tầm gửi hẳn là xuất phát từ từ niềm tin này. Lúc đầu nhà thờ cấm sử dụng cây tầm gửi trong lễ Giáng Sinh vì nguồn gốc ngoại đạo của nó. Thay vì sử dụng tầm gửi, các cha đạo đề nghị dùng cây ô rô làm loại cây dùng cho Lễ Giáng Sinh.
-Bữa ăn Reveillon 
Tại Alsace, Pháp, bữa ăn này phải gồm có tam hành là thủy (cá chép, con hàu), không khí (gà tây hay ngỗng) và mộc (thịt heo). Tập tục ăn gà tây là do thủy thủ của nhà thám hiểm Christopheer Colombus du nhập từ Mehico.

-Bài hát Giáng sinh 

Bài Jingle bell do nhạc sĩ J.Pierpont sáng tác nhưng lại đặt vào chùm bài hát trong danh sách những bản nhạc dân ca nổi tiếng của Mỹ với tên gọi American song bag của nhà thơ Carl Sandburg. Bài này không phải sáng tác cho đêm Noel như người ta lầm tưởng.
Lời bài hát đậm tính dân dã mộc mạc, diễn tả tâm hồn của người dân Mỹ hướng đến một mùa tuyết rơi thật tốt lành. Hình ảnh ông Noel với túi quà đồ chơi, ngồi trên xe tuần lộc với tiếng chuông leng keng diễn tả sinh động, quyến rủ làm cho người ta thích nghêu ngao, nó vô tình trở thành bài hát Giáng sinh.Bài Silent Night, Holy Night có xuất xứ từ Đức với tựa đề “Stille Natch, Heiligo Natch” do linh mục Joseph Mohr sáng tác khi cuộc chiến Đức – Áo – Phổ kết thúc. Sau này được phổ biến sang Áo, Mỹ… nay đã được dịch ra gần 100 thứ tiếng.

-Bánh Buche Noel

Tổ tiên người phương Tây thường nhóm củi trong ống khói nhà, họ tin rằng lửa càng kêu lách cách thì các thần dữ sẽ tránh xa. Ngày nay, tập tục biến dần vì không mấy nhà còn ống khói. Thay vào đó, theo sáng kiến của một thợ làm bánh ở Pháp, năm 1875, người ta làm chiếc bánh ngọt có hình cây củi để mọi người thưởng thức trong đêm Noel và lưu truyền cho đến nay.

-Chuông Thánh Đường

Trong vài nền văn hóa Á Châu, tiếng chuông được dùng báo hiệu cho quần chúng biết một biến cố hoan hỉ hay một sự kiện buồn não vừa xảy đến. Sau khi Chúa hài đồng giáng sinh, tục lệ này được truyền đến cho những quốc gia Tây phương để rung lên chào mừng Chúa Cứu thế xuống trần. Tại đất nước Tây Ban Nha, các chuông nhà thờ ngân vang vào lúc nửa đêm báo hiệu Chúa ra đời.

-Đèn Nến Giáng Sinh 

Có nhiều truyền thuyết kể về những cây nến đêm Giáng Sinh. Nhiều người cho rằng Martin Luther là người đầu tiên có sáng kiến thắp nhiều cây nến trên các cành cây thông mùa Giáng Sinh. Khi trở về nhà vào một đêm mùa đông gần lễ Giáng Sinh, ông đã sững sờ trước vẻ đẹp của ánh sáng từ các ngôi sao chiếu rọi trên cành cây thông nhỏ trước cửa nhà mình. Ông tái hiện lại cảnh tượng này bằng cách gắn các cây nến lên cành của cây thông Noel trong nhà để tượng trưng cho Ngôi Sao trên làng Bê-lem.
Có một huyền thoại khác kể rằng một bé trai nọ bị đi lạc đêm Giáng Sinh, nhờ ánh đèn nến nơi cửa sổ phòng mẹ, đã tìm được lối về đến nhà.
Lại có một truyền thuyết khác kể rằng thánh Maria và Giu-se đêm Chúa Giáng Sinh đã tìm ra nơi trú ngụ nhờ lần theo ánh đèn hắt ra từ cửa nhỏ một cái chuồng bò lừa.

Sơ lược về Công Giáo ở Việt Nam

Công giáo có mặt tại Việt Nam từ thế kỷ 16, (khoảng thời gian Chúa Nguyễn Ánh trị vì ở miền Nam) khi các nhà truyền giáo châu Âu tới giảng đạo.
Đến năm 2008, theo thống kê của Giáo hội, số lượng tín hữu Công giáo Việt Nam là hơn 6,18 triệu người, chiếm tỉ lệ 7,18% tổng dân số, được xếp thứ năm ở châu Á, sau Đông Timor, Philippines, Liban và Hàn Quốc.
Từ Công giáo (tiếng Hy lạp: katholikos) có nghĩa là “chung” hay “phổ quát”, được sử dụng đặc biệt trong ngữ cảnh Kitô giáo, với ý nghĩa là đạo chung, đạo phổ quát, đón nhận mọi người, chứ không riêng cho dân tộc hay quốc gia nào.
Cộng đồng Công giáo tại Việt Nam là một bộ phận của Giáo hội Công giáo Rôma dưới sự lãnh đạo tinh thần của Giáo hoàng và Giáo triều Rôma.
Các nhóm Công giáo khác không dưới quyền của Giáo hoàng
Trong Kitô giáo Tây phương, các nhóm chính tự xem là “Công giáo” mà không có sự hiệp thông đầy đủ với Giáo hoàng là:
-Giáo hội Công giáo Thượng cổ (Ancient Catholic, Giáo hội Công giáo Cổ tại Hà Lan),
-Các Giáo hội Công giáo Cổ (Old Catholic, tách khỏi Giáo hội Công giáo Rôma năm 1870),
-Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc, các Giáo hội Công giáo Độc lập (Independent Catholic) như các nhóm ở Philippines, Brazil, Ba Lan và một số thành phần của Anh giáo (Thượng Giáo hội hay Công giáo Anh).
Các nhóm này giữ các niềm tin tinh thần và thực hành nghi lễ tôn giáo tương tự như Công giáo Rôma nghi lễ La-tinh mà từ đó họ xuất phát, nhưng từ chối địa vị và thẩm quyền của Giáo hoàng.
Phụ Trương. Nghe bài Feliz Navidad, “Chúc Bạn Lễ Giáng Sinh Vui, tôi chúc từ tận đáy lòng của tôi”
Chú thích.
(1)Tòa Thánh có mối liên hệ rất gần với Thành quốc Vatican, một quốc gia có chủ quyền dưới quyền cai trị của Tòa Thánh, nhưng đây là hai thực thể riêng biệt.
Dịch giả: Hannah

Cây cối có thực sự giúp làm sạch không khí tại các thành phố?

(Cathy T/CC BY 2.0)
(Ảnh của Cathy T/CC BY 2.0)
Dường như không cần phải suy nghĩ nhiều để nói rằng cây cối có tác dụng cải thiện chất lượng không khí. Xét cho cùng, chúng ta biết rằng cây cối hấp thụ khí cácbonic nhà kính (CO₂), và lá cây có thể giữ lại chất ni-tơ đi-ô-xít (NO₂) độc hại, khí ô-zôn, và các vi hạt gây hại sinh ra từ các phương tiện giao thông dùng diesel, từ nấu nướng hoặc từ khắc nung gỗ.
Nhưng một số nghiên cứu gần đây lại cho rằng trên thực tế cây cối khiến chất lượng không khí tệ hơn do giữ lại các chất độc hại ở tầng không gian đô thị. Khi quan sát kỹ các bằng chứng được đưa ra – và cách thức chúng được thu thập – ta sẽ thấy được nguyên nhân của sự tranh luận này, và có thể giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về ảnh hưởng của cây xanh lên môi trường đô thị của chúng ta.
Điều đầu tiên cần nhấn mạnh là, không phải cây xanh đã làm ô nhiễm không khí của các thành phố trong thế giới phát triển hiện nay. Các nhà sản xuất xe hơi biết quá rõ nguyên nhân gây ô nhiễm chủ yếu là do các phương tiện giao thông trên bộ. Và những tác động của phương tiện giao thông đối với môi trường là sự kết hợp của cả cách lái xe và loại phương tiện sử dụng.
Cấu trúc của đô thị có nhiều đặc điểm làm ảnh hưởng tới dòng di chuyển của không khí xung quanh một thành phố. Các cấu trúc làm chắn không khí như các tòa nhà và các cấu trúc mà không khí có thể len lỏi qua như cây xanh, cả hai loại cấu trúc đều làm luồng không khí chệch khỏi đường đi vốn ban đầu được định hình bởi các điều kiện thời tiết, chẳng hạn như bởi sựtăng giảm khí áp. Cấu trúc đô thị đã biến các cơn gió mát mẻ thành lốc xoáy có thể cuốn theo các chất ô nhiễm gần nguồn ô nhiễm – tác động tới những người dễ bị tổn thương tim hoặc phổi – hoặc nâng các chất đó lên từ dưới mặt đất.
Kết cấu đô thị sẽ ngăn lại hay nâng không khí lên phụ thuộc nhiều vào vị trí cụ thể của các con đường, tòa nhà, vườn cây, cây xanh trên phố, côn trùng, thậm chí bảng quảng cáo và các đồ vật công cộng trên đường như đèn điện, biển báo…

Các điểm vướng mắc

Cây xanh tác động lên môi trường đô thị theo một vài cách không dễ phát hiện. Từ thay đổi dòng chảy không khí, giữ lại các chất lắng ô nhiễm, tới việc ảnh hưởng kết cấu hóa học của không khí, các tác động của chúng vừa rộng khắp vừa khó xác định.
Khi không khí cuộn và xoắn qua các kết cấu đô thị, các vi hạt ô nhiễm có thể lưu lại trên bất cứ bề mặt nào. Đặc biệt là cây xanh, chúng giữ lại rất nhiều những hạt vi mô này, bởi vì cây xanh có nhiều bề mặt rỗ và lớn. Có một cách giúp chúng ta xác định xem cây xanh có giúp giảm ô nhiễm hay không, đó là ước tính khối lượng chất ô nhiễm đọng lại trên bề mặt lá cây. Các thí nghiệm đo lường này thường được thực hiện ở giữa các cánh đồng bằng phẳng, vì như thế dễ phân tích các kết quả hơn. Nhưng đương nhiên, thành phố là một môi trường rất khác, và không rõ những kết quả này liệu có còn đúng trong một môi trường đô thị rất phức tạp.
Tất nhiên các nghiên cứu thực nghiệm có thể chỉ ra rằng chất ô nhiễm cuối cùng cũng sẽ đọng lại trên lá cây. Nhưng không dễ dàng để từ những phép đo như vậy có thể ước lượng được nồng độ chất ô nhiễm (lượng chất ô nhiễm trên một mét khối không khí) thay đổi như thế nào. Và chính sự thay đổi nồng độ đó mới là điều cần quan tâm, vì chúng ta hít thở không khí, chứ không phải hít bề mặt lá cây.
Một số chất ô nhiễm, như khí NO₂, sinh ra do con người đốt nhiên liệu hóa thạch và từ các phản ứng hóa học diễn ra trong không khí. Các chất ô nhiễm khác, đáng chú ý là Ô-zôn, chỉ được tạo ra thông qua các phản ứng giữa các loại nitrogen oxide (NOx) với hơi bốc lên từ các chất dung môi, xăng dầu và các chất hóa học tương tự trong không khí. Quá trình hình thành khí ô-zôn độc hại này hoàn toàn là do việc tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch: đặc biệt khi trời nóng, các điều kiện mùa hè ổn định sẽ cung cấp ánh sáng cần thiết để kích hoạt các phản ứng hóa học, trong khi thời tiết không có gió sẽ ngăn việc làm loãng chất ô nhiễm vào trong khí quyển toàn cầu.
Nhưng không chỉ việc đốt nhiên liệu hóa thạch mới tạo ra khí ô-zôn, cây cối cũng giải phóng các chất hóa học phản ứng với NOx để tạo ra ô-zôn, đôi khi với lượng đủ để tạo ra sự khác biệt, thậm chí ở các khu vực đô thị.
Cây cối cũng chiếm một phần không gian. Các công viên và vườn cây thường không phải là những địa điểm có nồng độ lớn các chất gây ô nhiễm, nên chúng chính là không gian quan trọng để pha loãng ô nhiễm. Điều này đã được các nghiên cứu thống kê kiểm chứng, chúng chứng minh rằng nồng độ các chất ô nhiễm không khí thay đổi theo kết cấu khu vực lân cận với đô thị: mức giảm nồng độ chất ô nhiễm ra khỏi các con đường đông đúc phụ thuộc vào chiều cao của các tòa nhà gần đó.

Cần có cái nhìn tổng quát

Khi đánh giá các nghiên cứu về tác động của cây xanh lên sự ô nhiễm không khí ở đô thị, cần nhớ rằng không một nghiên cứu đơn lẻ nào có thể giải đáp được tất cả vấn đề. Với quá nhiều các quy trình cần đánh giá, cũng dễ hiểu khi các thí nghiệm thực hiện ở các vị trí khác nhau, sử dụng các phương pháp khác nhau, sẽ tạo ra các kết quả rất khác nhau.
Để có một nghiên cứu với câu trả lời dứt khoát, có thể sẽ mất nhiều tháng cho việc đo lường để so sánh trước và sau khi gieo trồng cây, hoặc một loạt ngắn hơn các đo lường đồng thời ở hai vùng đô thị giống hệt nhau ở tất cả các khía cạnh ngoại trừ khía cạnh cây cối, trong đó ở một vùng sẽ không có cây xanh hay một số dạng thực vật khác. Cả hai hướng tiếp cận đều cần chi phí lớn và khó thực hiện ở các thành phố đông đúc, vốn luôn luôn bị tác động bởi tất cả các nhân tố biến đổi khác.
Vậy nên, chúng ta sẽ chọn cách kết hợp các bằng chứng trong các báo cáo khoa học lại với nhau. Khi làm vậy, đầu tiên hãy xem nghiên cứu đó đề cập tới việc không khí được phát tán trong các vùng đô thị như thế nào, và nhớ rằng sự phát tán như vậy phụ thuộc vào tất cả mọi yếu tố trong cấu trúc đô thị, chứ không chỉ là phụ thuộc vào cây xanh. Cũng nhìn xem nó có nhắc đến sự loại bỏ chất ô nhiễm qua hình thức lắng đọng trên các bề mặt hay không và nếu có thì như thế nào, rồi kiểm tra xem nghiên cứu có đánh giá tác động của sự pha loãng chất ô nhiễm và ảnh hưởng của thành phần hóa học khí quyển hay không. Cuối cùng, hãy đánh giá kết quả của bất kỳ một nghiên cứu nào dựa trên hướng tiếp cận hệ thống tốt nhất hiện có đối với cây xanh trong đô thị trước khi đưa ra kết luận.
Việc thắc mắc liệu các thành phố có nên trồng cây xanh không giống như hỏi xem con người có nên mặc đồ hay không vậy. Cây xanh đô thị luôn luôn có thể mang lại một “giải pháp thiên nhiên” cho một vài vấn đề cấp bách của môi trường đô thị, nhưng có thể không theo cách mà dường như các nhà khoa học và những người làm chính sách hiện nay đang nghĩ. Sử dụng cây xanh vẫn hơn là đưa ra một một giải pháp kỹ thuật làm giảm bớt các phương tiện sử dụng động cơ đốt trong, nhằm che giấu nỗi ám ảnh ô nhiễm của chúng ta. Trồng thêm cây xanh trong đô thị có thể thay đổi toàn bộ cảnh quan thành phố, tạo thuận lợi để xây dựng các thành phố đáng sống, nơi đề cao giá trị thiên nhiên như là một phần không thể thiếu của một trung tâm môi trường, kinh tế, và xã hội.
Rob MacKenzie là một giáo sư khoa học khí quyển ở trường University of Birmingham ở Anh quốc. Nguyên gốc bài báo này được đăng trên TheConversation.com
Tác giả: Rob MacKenzie, University of Birmingham | Dịch giả: X Toàn