a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Sáu, 24 tháng 11, 2017

LỀU TRẠI NƠI GÓC BIỂN



Tôi ăn một chén mì, thấy đã no, ăn không nổi nữa, có lẽ mệt quá. Sau đó một thanh niên đến hướng dẫn tôi lại lều của dì Sáu để biết chỗ liên lạc với chị Ðiệp. Trời tối đen thui không thấy gì hết, nó đi len lỏi trong đám người đi mờ mờ, đèn đuốc không có, quanh quanh co co mãi một hồi lâu thì đến nơi. Nhìn quanh thì hỡi ơi! Ðó là một cái lều cây nhỏ ọp ẹp, bước vô cửa phải cúi thật thấp nếu không muốn bị đụng bể đầu. Trong lều có sàn duy nhứt hẹp té làm bằng những đoạn cây nhỏ cỡ ngón chưn cái ghép lại. Cái sàn này vừa dùng để hành lý, để ngồi và cũng để ngủ. Cái mặt sàn nổi u nổi nần làm sao mà nằm? Một đống đồ đạc chất gần sát vách choán gần hết phân nửa mặt sàn. Một mình dì Sáu cũng đã chật rồi, bây giờ lại thêm chị Ðiệp với hai con nhỏ và mấy đứa em. Vậy thì phải giải quyết ra làm sao, tôi không biết. Ðông qua, chỗ đứng cũng không có nói chi đến chỗ nằm. Trên boong ghe BL 1648 cũng còn rộng hơn.
Dì Sáu khoe đã mua căn lều này giá một lượng vàng. Nó khá nhứt ở khu này đó! Tôi thụt lùi trở ra và đó là lần đầu tiên biết thế nào là một căn lều ở Bidong. Tôi vội từ giã để về, đêm hôm khuya khoắc. Chết rồi, hướng cũ chỗ nào, trời lại tối đen, thôi cứ đi đại. Tôi len lỏi trong các đường hẻm sình lầy, chưn mang đôi dép đứt đi bước thấp bước cao. Ðường đi lại có nhiều gốc cây nhỏ chặt không sát, thỉnh thoảng trồi lên một gốc, vô ý đá mạnh vào xước da chảy máu, đau thấu tận trời xanh. Mò mẫm đi một hồi lâu ra tới bờ biển lạ hoắc. Nhìn kỹ đây không phải là chỗ lên hồi chiều. Tôi nghe tiếng nhạc bập bùng, giọng ca eo éo, rải rác trên bãi một đám đông nhàn hạ thảnh thơi hóng gió nghe nhạc ké trong quán vẳng ra. Tôi còn bụng dạ nào nấn ná chần chờ ở đây để thưởng thức những giọng oanh vàng. Phải hỏi đường cho kỹ để về khu tạm trú. Tôi hướng về cầu tàu rồi loay hoay cũng về được chỗ cũ. Tôi vừa về tới nơi thì vợ chồng con cái anh Tư Trần Hưng Ðạo cũng trở lại tìm chỗ ngủ. Rồi tới chị Thuần, kế đó là mẹ con chị Ðiệp với mấy đứa em. Thì ra Bidong lòng ai cũng rộng nhưng lều thì hẹp quá, thôi tất cả đành ngủ tạm trên bãi cát dơ!
Sương khuya lành lạnh, sóng vỗ rì rào, mọi người đã chọn chỗ nằm, tha hồ mà ngắm sao đêm nay. Tôi và Chiêu còn ngồi nhìn đọt dừa nói chuyện. Các gian hàng chợ trời đã dẹp sạch trơn. Trên con đường trước mặt, một người nhỏ con lùn thấp đen đúa, mặc một cái áo thun trắng dài sọc gần tới đầu gối đang đi ngang. Tôi khều Chiêu, thì thầm trong bóng đêm:
-Nhìn nè, có thằng nhỏ không bận quần đi kia kìa...
Chiêu nhìn rồi trả lời:
-Sao anh biết nó không bận quần?
-Có thấy cái quần chỗ nào đâu. Cái áo phủ tới đầu gối. Có thể có mà cũng có thể không. Theo anh đoán thì không có…
Chiêu cười hà hà, hỏi lại :
-Tại sao anh đoán như vậy?
-Dễ hiểu quá mà, ở Bidong nầy trời nực… để trống trải vậy cho mát.
Hai anh em cười hăng hắc, bỗng nhiên Chiêu chợt nhỏm dậy, chạy theo người vừa đi ngang, miệng hỏi:
-Xin lỗi, anh phải anh Năm, Trung Sĩ Biệt Động Quân không?
-Anh Chiêu, anh qua đây hồi nào. Tôi chờ anh mấy tháng nay…
Hai người găp lại nhau, có nhiều chuyện để nói. Tôi rán nhìn kỹ để kiếm coi anh bạn mới, ngoài cái áo thun dài ra, còn có mặc gì nữa không? Tiếc quá, trời tối mò mò, nên không thấy được gì hết trơn! Lần lần qua câu chuyện, tôi được biết anh Năm trung sĩ là người quen với anh rể Chiêu. Lúc trước anh rể Chiêu qua Bidong dựng cái lều cây kế khu chợ trời nầy để ở. Sau đó anh được đi Mỹ có nhờ anh Năm ở lại giữ lều dùm, dặn kỹ là kiếm Chiêu để giao lại. Như vậy cũng đỡ. Anh Năm thấy có nhiều trẻ em còn nhỏ, bèn nói:
-Đằng lều còn chỗ trống, anh Chiêu sắp xếp cho mấy chị có con nhỏ dời qua bên đó ngủ tạm đêm nay đi… chớ ở ngoài trời sương gió như vầy bất tiện.
Tôi sửa soạn khăn và nước uống cho mẹ con Bi đi với chị Điệp cùng Trung, Dung, miệng nói:
-Tụi tôi cám ơn anh Năm nhiều lắm. May mà gặp anh đêm nay, nếu không thì phải ngủ hết ngoài trời.
Anh Năm cảm động:
-Có gì đâu anh, gặp lại Chiêu em mừng lắm. Để em giao cái lều lại cho… Em cũng gần được đi Úc rồi, rủi khi đi mà không gặp được ảnh, em cũng không biết phải làm sao?
Rồi anh cười, nói tiếp:
-Nói thì nói vậy chớ, em cũng đã tính rồi, đâu đó xong xuôi. Cái lều tốt quá, hổng lẽ bỏ uổng, lúc đó chắc phải bán rẻ, kiếm một mớ xài đỡ… rồi khi nào có gởi qua Mỹ trả lại.
Tối đó Duyên ẳm Bi, chị Điệp dẫn Trung, Dung, cô Bằng ẳm bé Linh đến lều của anh Năm. Anh chị Năm nhường chỗ cho những người mới tới. Cả hai ngủ ở hai cái võng mắc vào các gốc cây. Lại một lần nữa vào phút chót, tôi được một ân nhân, không quen không biết ra tay giúp đỡ.
Còn lại ở đây toàn là người lớn. Tôi trải các quần áo, mùng mền bị mưa ướt buổi sáng ở Kapas chưa kịp phơi khô ra trên các ba lô, xách tay để phơi, rồi nằm ngủ đại trên tấm ny lông dơ, giấc ngủ chập chờn vì sợ người ta lấy cắp đồ đạc. Khoảng một hai giờ khuya, có trận mưa nhỏ, cả đám chạy vào lều bên cạnh núp mưa. Những luồng gió mạnh rít lên từng cơn, thổi tạt những giọt mưa bay ngang rào rào, nước thấm ướt đầu, ướt cổ man mát. Ở phía nhà chờ đợi một ngọn đèn điện sáng đỏ quạnh cô đơn. Chúng tôi lom khom nép người vào vách lều kế bên, nhìn mưa, không ai nói tiếng nào. Cả đảo im lìm, hiu quạnh thê lương… Mưa rồi cũng tạnh, tôi ra ngủ tiếp. Giấc ngủ mê man! Suy nghĩ cho cùng, trong cái khổ cũng có cái sướng. Trong đời chưa bao giờ, tôi được dịp nằm ngủ thẳng cẳng giữa chợ, không mùng mền chiếu gối, một cách bụi đời như tối nay!
Đó là đêm đầu tiên tôi bước chưn tới đảo Bidong, hải đảo nóng bức của vùng xích đạo, hải đảo mà hàng chục ngàn thuyền nhơn Việt Nam nghe tới tên phải xúc động thẩn thờ. Không biết kể từ bao giờ, mỗi khi nhắc tới nó, người tỵ nạn vừa âu yếm, vừa mỉa mai, gọi bằng một cái tên mới đặt, hải đảo Buồn Lâu Bi Đát. Cái tên sao mà bi quan và hơi cải lương. Thiệt tình mỗi khi nghe tới, đâm rầu thúi ruột!
Lều anh Năm áo thun ở tuốt về phía vách đá cuối bãi, khi tới nơi quẹo mặt một đổi rồi quẹo trái. Nó thuộc khu G của đảo. Muốn đi đến đó phải băng ngang qua khu D chợ trời. Trời vừa tang tảng sáng tôi đã dọn dẹp xong đống đồ đạc ngổn ngang, nhường cái bãi cát dơ lại cho mấy bà bạn hàng để quăng rác. Chiêu đi trước dẫn đường loanh quanh trong con hẽm nhỏ vừa đủ lọt một người đi. Tôi theo sát vì sợ lạc. Chung quanh lều cất san sát, cái cao cái thấp chen nhau, không còn một khoảng trống. Quang cảnh hổn độn rối nùi. Thỉnh thoảng tôi phải dừng lại, nhìn trái nhìn phải để định hướng. Đây rồi mẹ con Bi cùng mấy đứa nhỏ đang ngồi trên sàn. Tôi bồng lấy Bi, thằng bé ôm lấy tôi, mừng rỡ. Duyên hỏi:
-Hồi hôm hình như trời mưa, mấy anh làm sao? Có bị ướt nhiều không?
-Mưa cũng nhỏ, tụi anh chạy qua lều kế bên đụt tạm. Sao, mẹ con ngủ ngon không?
Duyên mặt mày tươi tỉnh:
-Mệt quá nên nằm ngủ một giấc tới sáng. Thôi, lo rửa mặt rửa mày rồi ăn điểm tâm.
Tôi đứng nhìn cái lều. Nó được dựng trên ba cây cột to bằng bắp chưn. Cây cột thứ tư là một gốc cây lớn cỡ vòng ôm, trên đọt còn đầy đủ cành lá xanh um. Nhờ vậy mà lều rất chắc chắn. Căn lều cao cẳng nầy cũng được lót sàn, cao chừng một thước rưỡi, có một cái thang ở ngay trước cửa, dùng để lên xuống. Như vậy cũng tiện, bao nhiêu bụi bậm rác rưởi đều lọt tuốt xuống đất. Mặt sàn cũng bằng cây tròn nhỏ dài cỡ hai thước, ghép sáy lại để nằm ngồi, sinh hoạt. Nhìn những mắt cây sần sùi, nổi u nổi cục, cây thì thẳng, cây thì cong, tôi lo lắng:
-Cái mặt giường lồi lõm như vầy, làm sao mà nằm?
Duyên trả lời:
-Khi nằm phải lựa thế từ từ ngả lưng xuống… chớ nằm lẹ thì bị cấn đau lắm.
Tôi sực nhớ ra ở Bidong, tất cả vật liệu xây cất đều phải tự kiếm trên núi. Đinh búa thì xuất tiền túi ra mua ở chợ trời. Ban quản trại chỉ phát cho đồ ăn với nước uống, làm gì có tới cây ván phẳng phiu để làm giường, làm chiếu. Mà nếu có, thì phải chở bao nhiêu tàu cho đủ? Có tất cả bao nhiêu cái lều ở đảo nầy? và bao nhiêu nữa đang được cất thêm? Diện tích mặt sàn cỡ bằng bộ ván lớn. Đằng trước, đằng sau, bên phải, bên trái, bị các lều lân cận ép kín mít, chỉ hở có trước cửa, một con đường ra vô chỉ khoảng một thước mà thôi. Cũng còn một chỗ trống nữa chớ. Ở vách bên phải còn dư một khoảng đất trống độ một thước ngang ba thước dài. Người anh rể Chiêu làm một cái nhà tắm và một cái bếp nấu ăn. Cái nhà tắm nhỏ như cái hộp cạc tông, còn cái bếp làm bằng đất sét, mỗi lần nấu nướng khói um mịt mù. Tất cả chỉ có bao nhiêu đó. Nếu muốn kể thêm thì có thể nói dưới sàn là rãnh nước chảy ngoằn ngoèo, dơ dáy. Cái rãnh chứa hết tất cả nước dơ của các lều khác chảy ngang qua đây rồi chảy về đâu nữa, làm sao tôi biết được!


VÕ KỲ ĐIỀN
Pulau Bidong Miền Đất Lạ (chương 23)

Không có nhận xét nào: