a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Bảy, 9 tháng 10, 2021

Vitamin K2 là gì, có tác dụng gì?

 


Vitamin K2 còn được biết dưới tên là Menaquinone, có vai trò rất quan trọng với cơ thể. Vitamin K2 gắn can-xi vào khung xương giúp chống loãng xương. Đồng thời vitamin K2  ngăn ngừa can-xi lắng đọng ở thành mạch tránh vôi hóa mạch máu, giảm nguy cơ mắc bệnh động mạch vành. Với những tác dụng vô cùng hữu ích của vitamin K (bao gồm cả vitamin K1 & K2), để duy trì một cơ thể khỏe mạnh chúng ta cần thường xuyên bổ sung các loại thực phẩm chứa vitamin này.

Top thực phẩm giàu Vitamin K2 tốt cho người bệnh tim mạch, máu cao

Các loại rau xanh giàu vitamin K2

Loại thực phẩm cần thiết mà bữa ăn nào bạn cũng cần bổ sung đó chính là rau xanh. Rau xanh chứa một nguồn khoáng chất và giàu các loại vitamin cần thiết cho cơ thể. Vì vậy, nó chắc chắn cũng là một nguồn thực phẩm giàu vitamin K2. Một số loại rau có chứa vitamin K2 khá nhiều là cải xoăn, cải bó xôi, bắp cải, bông cải xanh… nên bạn nhớ thường xuyên bổ sung các loại rau này nhiều hơn.

Natto

Đây là một loại đậu tương lên men của Nhật Bản, có màu nâu và mùi rất khó ngửi do quá trình xử lý khi chế biến. Natto được biết đến là một nguồn thực phẩm giàu vitamin K2 cùng nhiều thành phần dinh dưỡng khác. Đồng thời, natto còn chứa cả chất chống oxy hoá và protein nên sẽ phụ trợ cho canxi và vitamin D làm nhiệm vụ thúc đẩy chiều cao phát triển tối đa.

Sản phẩm từ sữa giàu vitamin K2

Các sản phẩm từ sữa cũng là một nguồn hỗ trợ cho sự phát triển chiều cao hiệu quả, đặc biệt là phô mai. Tuy nhiên, có một số loại phô mai không phải là một nguồn thực phẩm giàu vitamin K2. Loại phô mai cứng đã lên men như cheddar mới là nguồn cung cấp vitamin K2 tốt nhất. Một số loại thực phẩm khác bạn có thể bổ sung ngoài phô mai là bơ, sữa… cũng sẽ là một nguồn vitamin K2 cần thiết cho cơ thể.

Thịt và trứng

Vitamin K2 được tìm thấy khá nhiều trong thịt gà và thịt bò, đặc biệt là phần nội tạng như gan. Không chỉ giúp cải thiện chiều cao mà hai loại thịt này còn hỗ trợ cơ phát triển khoẻ mạnh, săn chắc hơn. Ngoài ra, trứng cũng là một nguồn thực phẩm tuyệt vời chứa vitamin K2. Tuy nhiên, lòng đỏ trứng sẽ chứa lượng vitamin K2 nhiều hơn bạn nhé.

Các loại cá

Có nhiều loại cá chứa một nguồn vitamin K2 dồi dào phải kể đến như cá ngừ, cá thu, cá mòi… Mặc dù, nó là loại thực phẩm cần thiết để hỗ trợ cho sự phát triển của chiều cao nhưng hãy thận trọng khi ăn vì nó có thể làm quá trình đông máu diễn ra trong cơ thể bạn.

Chúng ta đã tìm hiểu được những loại thực phẩm giàu vitamin K2 cần thiết để hỗ trợ phát triển chiều cao hiệu quả. Nhờ đó, hãy nhớ bổ sung thường xuyên cùng các loại thực phẩm giàu vitamin D và canxi để thúc đẩy chiều cao phát triển tối đa bạn nhé!

Mặt Trái Của Thuốc Tây: 8 Điều Cần Ghi Nhớ - Bs. Trần Quốc Khánh


Anh Chị ạ, bệnh nhân đến một phòng khám nào đó & được nhân viên y tế tiêm thuốc trực tiếp vào khớp, vào vai gáy mà không kèm theo 1 lời giải thích, bệnh nhân cũng không một câu hỏi đi kèm là điều hết sức bình thường ở đất nước mình. Thậm chí, khi bác sĩ Khánh hỏi thì tên thuốc bệnh nhân cũng không biết, chưa kể đến tác dụng, tác dụng phụ cũng như những nguy cơ, biến chứng của tiêm truyền thì bệnh nhân càng chưa ý thức được. Có lần khác Bs kê đơn điều trị thoái hoá cột sống, bệnh nhân thắc mắc tại sao trong đơn lại không có thuốc…kháng sinh, hoặc bệnh nhân luôn bày tỏ mong muốn những thuốc gì “tốt nhất, đắt nhất”, trong khi thuốc đúng bệnh mới là điều quan trọng. Ngoài ra ở mình, mọi người cũng dễ dàng mua hầu hết các loại thuốc ở bất cứ quầy dược nào mà không cần đơn của bác sĩ. Vấn đề hiện nay chính là sự hiểu biết của người dân mình về thuốc, tác dụng điều trị cũng như những mặt trái khủng khiếp của nó chưa thực sự cao, mọi người “dễ dàng” tiếp nhận viên thuốc cho vào miệng với hy vọng bệnh sẽ qua nhanh & sẽ chẳng mảy may nghĩ gì, mọi người đâu biết rằng, những mặt trái của nó mang đến có thể còn nặng nề hơn gấp rất nhiều lần, nếu chúng ta thiếu hiểu biết hoặc lạm dụng nó.

Với mong muốn để mọi người hiểu & biết hơn phần nào khi sử dụng, Bs Khánh xin được gửi đến bài viết:


 “NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRONG SỬ DỤNG THUỐC TÂY”,

Rất mong Anh Chị hãy dành 5 phút tìm hiểu nhé! Bs xin được cảm ơn. 


1. Theo Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (U.S CDC), có tới một phần ba đến một nửa việc sử dụng kháng sinh ở người là không cần thiết hoặc không phù hợp. Hầu hết các trường hợp đau họng, đau nhức xương khớp, sốt và hắt hơi sổ mũi…có nguyên nhân từ các vi rút, mà vi rút lại không bị tiêu diệt bởi kháng sinh, chính vì vậy kháng sinh sẽ không có tác dụng điều trị gì, thậm chí khi dùng kháng sinh sẽ làm cơ thể mệt mỏi hơn hoặc có thêm những tác dụng phụ khác. Khi có những triệu chứng như trên, chỉ cần anh chị ăn uống nâng cao thể trạng, tăng cường sử dụng hoa quả tươi, hạn chế ra ngoài gió & tiếp xúc với mọi người và có thể điều trị thêm triệu chứng như: ho thì uống thuốc ho, long đờm; sốt thì dùng thuốc hạ sốt; sổ mũi, nghẹt mũi thì dùng nước muối biển, thuốc làm co mạch hoặc kháng histamin… Chỉ khi bác sĩ xác định nguyên nhân của bệnh là do nhiễm khuẩn hoặc cảm cúm có bội nhiễm vi khuẩn thì mới được sử dụng những loại kháng sinh phù hợp. Anh chị cần ghi nhớ: Việc xác định bệnh do nhiễm khuẩn và quyết định sử dụng kháng sinh do bác sĩ, mình không tự ý sử dụng.

 

2. Trẻ em bị tiêu chảy cũng như vậy, rất nhiều trường hợp có nguyên nhân là vi rút nên chỉ cần lưu ý bổ sung nước và điện giải, tăng cường cho trẻ bú.. Khi anh chị sử dụng kháng sinh với trẻ bị tiêu chảy do vi rút không chỉ làm cho trẻ mệt mỏi hơn mà hệ vi khuẩn đường ruột còn non nớt của trẻ cũng bị rối loạn nghiêm trọng => trẻ càng tiêu chảy nặng hơn & ảnh hưởng lâu dài sau này đó là việc trẻ sẽ rất dễ bị rối loạn tiêu hoá, ăn khó tiêu hoặc lười ăn, trẻ cũng dễ bị nhiễm các bệnh lý đường ruột khác…Nhiều nghiên cứu còn chỉ ra rằng, khi hệ vi khuẩn của trẻ bị rối loạn, lớn lên trẻ dị bị dị ứng, béo phì hơn những trẻ khác.

 

3. Nhiều người đang có suy nghĩ “Kháng sinh chữa bách bệnh”, sự thật lại không như vậy. Để dể tưởng tương, bệnh tật có thể chia làm 7 nhóm, bao gồm: các bệnh lý bẩm sinh, các bệnh lý chuyển hoá, các bệnh lý do ngộ độc, các bệnh lý miễn dịch, các bệnh lý do thoái hoá, các bệnh lý nhiễm trùng và những chấn thương do tai nạn gây ra. Trong 7 nhóm trên, hầu như chỉ có nhóm bệnh lý nhiễm trùng và những tai nạn rách da chảy máu bệnh nhân mới có chỉ định sử dụng kháng sinh, đa số các bệnh lý còn lại sử dụng những nhóm thuốc chuyên biệt khác. Nói vậy để mọi người hình dung ra, kháng sinh không có chỉ định sử dụng nhiều như chúng ta nghĩ.

 

4. Kháng sinh đang là vấn đề y tế nhức nhối toàn cầu:

Khi một loại kháng sinh không còn có tác dụng trên một chủng vi khuẩn nhất định, những vi khuẩn này được gọi là kháng kháng sinh và đây chính là là một trong những vấn đề sức khỏe bức xúc nhất trên thế giới hiện nay. Riêng ở Mỹ mỗi năm có khoảng 2 triệu ca nhiễm vi khuẩn kháng kháng sinh và trong đó có đến 23 000 ca tử vong, ngoài ra, những chủng vi khuẩn kháng thuốc nguy hiểm như tụ cầu vàng, lao kháng thuốc, ký sinh trùng sốt rét cũng đã được “tạo ra” và gây ra rất nhiều thách thức cho các bác sĩ. Bất kỳ loại vi khuẩn nào tồn tại trong điều trị kháng sinh đều có thể nhân lên và truyền lại tính kháng của nó cho thế hệ sau. Nguy hiểm hơn, một số vi khuẩn có thể chuyển các đặc tính kháng thuốc của chúng sang các chủng vi khuẩn khác làm cho tình trạng kháng thuốc càng trở nên phức tạp và lan rộng. Thói quen sử dụng kháng sinh trong hầu hết các trường hợp bệnh tật (kể cả nhiễm vi rút), thói quen không tuân thủ liệu trình điều trị của bác sĩ (Bs kê đơn 7 ngày, dùng vài ngày khỏi đã bỏ thuốc hoặc vài ngày chưa cải thiện đã thay thuốc), thói quen sử dụng kháng sinh mạnh “dập” bệnh từ đầu của các bác sĩ…đã góp phần đẩy nhanh tốc độ kháng kháng sinh trong cộng đồng. Anh chị cần biết, chính anh chị là người chịu hậu quả đầu tiên khi tình trạng kháng kháng sinh xảy ra do thói quen dùng thuốc của chính mình.

 

5. Mặt trái khác của kháng sinh:

➢ Khi dùng kéo dài, kháng sinh gây rối loạn nghiêm trọng hệ vi khuẩn đường ruốt, làm mất cân bằng hoạt động đường ruột => tăng nguy cơ mắc bệnh lý tự miễn như bệnh  viêm đường ruột và bệnh tiêu chảy phân mỡ..

➢ Ngộ độc gan: Thuốc kháng sinh cũng là “khắc tinh” đối với gan. Nhiều nghiên cứu cho thấy, thuốc kháng sinh rất hại cho mô gan, làm cho các chỉ số xét nghiệm chức năng gan như AST và ALT tăng vọt, trong đó phải kể đến kháng sinh Azithromycin, Clindamycin, kháng sinh nhóm metronidazole.

➢ Kháng sinh thuộc nhóm thuốc đầu bảng dễ gây dị ứng, sốc phản vệ, đặc biệt nhóm Penicilin, Amoxicilin…

➢ Mất cân bằng hệ vi khuẩn trong cơ thể, tao bón, chán ăn, chậm lớn..

➢ Ảnh hưởng đến một số cơ quan quan trọng ở trẻ em: xương khớp, men răng, tang nguy cơ hen suyễn và dị ứng..

➢ Giảm tiết sữa sau sinh. 


6. Thuốc tây bản chất là những HOÁ CHẤT TỔNG HỢP: bất đắc dĩ chúng ta mới cho vào cơ thể để trị bệnh, anh chị nhé! Một số “Ảnh hưởng khủng khiếp” của thuốc tây có thể liệt kê ra đây:

➢ Với thuốc giảm đau: Có hai loại thuốc giảm đau hay dung đó là Tylenol và thuốc chống viêm không steroid (NSAID). Tylenol là thuốc giảm đau có chứa acetaminophen, một phân tử đa năng có tác dụng giảm sốt, giảm đau rất tốt và được dung rộng rãi với bệnh viêm khớp mãn tính. Tuy nhiên, acetaminophen là dược phẩm có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho gan nếu sử dụng không đúng hướng dẫn, đặc biệt là những người có bệnh lý về gan hoặc hay uống rượu, ngoài ra đã có rất nhiều những nghiên cứu chỉ ra rằng Acetaminophen có liên quan đến khoảng hơn 30% các trường hợp suy thận, những nghiên cứu này được thực hiện ở những bệnh nhân suy thận và trong số đó có những bệnh nhân lạm dụng acetaminophen. Với NSAID, dị ứng nghiêm trọng và xuất huyết đường tiêu hoá là hai biến chứng hay gặp nhất, đặc biệt ở những người có bệnh lý viêm khớp kéo dài và kèm uống rượu.

➢ Thuốc tránh thai: Theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới, các loại thuốc tránh thai đường uống có thể làm giảm lượng axit folic, một số loại vitamin và khoáng chất như magiê, selen, kẽm.. điều này có thể dẫn đến tình trạng thiếu hụt vi chất dinh dưỡng, dẫn đến khả năng tăng nguy cơ gây dị tật thai nhi, chuyển dạ đẻ non. Nguyên nhân vẫn chưa được xác định rõ, nhưng theo các nhà khoa học, rất có thể nguyên nhân liên quan đến estrogen và progestogens  có trong thuốc tránh thai.

➢ Với thuốc an thần, gây ngủ: Đã có rất nhiều khuyến cáo khi sử dụng nhóm thuốc này tuy nhiên có vẻ như mọi người đang cố tình làm ngơ. Thuốc gây tình trạng nghiện, nặng hơn nữa là gây tử vong nếu dùng quá liều là những mặt trái khi lạm dụng nhóm thuốc này, ngoài ra thuốc cũng có nguy cơ làm mất trí nhớ thoáng qua hoặc mất trí nhớ kéo dài kéo dài, thời gian thải trừ thuốc có thể lên đến 20 giờ sau khi dùng cũng là một nguy cơ khi ta lạm dụng nhóm thuốc an thần, gây ngủ.

➢ Aspirin: hay còn có tên khác là axit acetylsalicylic là một loại thuốc có tác dụng giảm đau, hạ sốt, chống viêm, ức chế kết tập tiểu cầu, đây là thuốc đầu tay được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Tuy nhiên những tác dụng phụ do aspirin “mang đến” cũng rất khủng khiếp như gây tăng nguy cơ xuất huyết (chảy máu mũi, xuất huyết dạ dày..), mất nước và tăng kali máu, nhiễm toan chuyển hoá và suy hô hấp. Ngoài ra với trẻ em dưới 12 tuổi, chúng ta không nên dùng Aspirin khi trẻ sốt hoặc cảm cúm, thuỷ đậu vì có thể gây suy thận cấp cũng như tăng nguy cơ trẻ bị hội chứng Reye (hội chứng não-gan rất nguy hiểm).

➢ Thuốc trị viêm loét dạ dày: Nhóm thuốc kháng axit (antacid) có thể gây nhiễm kiềm toàn thân, gây cạn kiệt phosphonat và táo bón, chán ăn. Sự hấp thu các vitamin nhóm B, đặc biệt là vitamin B12, folate và vitamin C cũng bị ảnh hưởng bởi các thuốc ức chế tiết axit dịch vị. Nếu bạn cần sử dụng thuốc ức chế axit dài ngày, điều quan trọng là tuân thủ chế độ ăn uống giàu chất dinh dưỡng và dễ tiêu hoá. Nhóm thuốc ức chế bơm proton hiện nay được ưu tiên dung nhiều nhất vì tác dụng nhanh, mạnh và ít tác dụng phụ, tuy nhiên khi sử dụng bệnh nhân vẫn thường đau đầu, buồn nôn và có thể là cả tiêu chảy. Với việc sử dụng lâu dài các loại thuốc này có thể dẫn đến một số hậu quả như loãng xương, thiếu máu do thiếu sắt và lâu lành vết thương.

➢ Thuốc dân gian, gia truyền: Hiện nay số lượng bệnh nhân tìm đến thuốc dân gian, gia truyền, thuốc Nam vẫn chiếm một tỷ lệ tương đối cao. Hiệu quả điều trị của thuốc thì chỉ có bệnh nhân cảm nhận được, tuy nhiên mặt trái của thuốc cũng không ít. Hàm lượng-thành phần thuốc, phụ phẩm, tác dụng và những tác dụng không mong muốn…là những thông tin mà chúng ta rất khó nắm tận tường khi lựa chọn sử dụng nhóm thuốc này. Có rất nhiều bệnh nhân đến viện sau một thời gian dùng thuốc gia truyền đã bị suy thận, suy gan, loét đường tiêu hoá nghiêm trọng, xuất huyết dưới da, rối loạn phân bố mỡ, loãng xương, phù mặt hoặc phù toàn thân…Thỉnh thoảng các Bs còn gặp bệnh nhân bị ngộ độc kim loại nặng, sốc thuốc phải vào viện cấp cứu.

Ngoài ra, hiện nay đã có nhiều trường hợp thuốc tây (mà chủ yếu là corticoid) đã được các “Thầy lang” pha trộn vào trong các gói thuốc cổ truyền để làm tăng nhanh tác dụng của thuốc nhưng lại chưa lường hết được những tác dụng phụ mà nó mang lại. Với nhóm thuốc này, Bs khuyên mọi người nên tìm hiểu kỹ ngọn nguồn, tham khảo các Bs và báo sớm những triệu chứng bất thường sau khi dùng thuốc.

➢ Thuốc các con cháu gửi về: Bs khuyên nên chỉ sử dụng khi đọc được tên thuốc, biết được thành phần, tác dụng, tác dụng phụ và cả hạn sử dụng của thuốc. Tốt nhất vẫn nên tham khảo các Bs hoặc dược sĩ. Tuyệt đối không nên tự ý dung thuốc mà ngôn ngữ ghi trên hộp, thành phần tác dụng của thuốc…mình không đọc được.

 

7. Thuốc và ung thư: Các thuốc hoá chất điều trị ung thư chứa tác nhân alkyl hoá như Cyclophosphamid, Chlorambucil, Busulfan….được chứng minh cũng góp phần gây nên các u lympho, bệnh bạch cầu và các thể ung thư khác. Ngoài ra, một số trong chúng cũng là tác nhân ức chế miễn dịch mạnh, vì vậy được sử dụng trong các bệnh miễn dịch, bao gồm viêm khớp dạng thấp và bệnh u hạt Wegener. Việc sử dụng lâu dài Diethylstibestrol (sử dụng trong điều trị ức chế tiết sữa sau sinh, các thể viêm âm đạo, triệu chứng mãn kinh…) được cho là gây ung thư nội mạc tử cung sau mãn kinh và là nguyên nhân của ung thư âm đạo của con do tiếp xúc trong buồng tử cung (Theo BỆNH HỌC CÁC KHỐI U-Trung tâm nghiên cứu & phát hiện sớm ung thư-Nhà xuất bản Y Học 2008).

Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng có mối liên quan giữa việc sử dụng kháng sinh dài ngày với tỷ lệ bị ung thư đại tràng, buồng trứng và ung thư thận tăng cao ở cả hai giới, sử dụng thuốc tránh thai kéo dài hoặc các hóc-môn sinh dục nữ làm tăng nguy cơ bị ung thư buồng trứng và cổ tử cung ở nữ giới.

 

8. Giải pháp hạn chế sự lạm dụng và tác dụng phụ của việc dùng thuốc:

➢ Thực hành vệ sinh tốt để tránh nhiễm trùng. Giảm nguy cơ nhiễm vi khuẩn trong thực phẩm: hạn chế uống sữa tươi, rửa tay thường xuyên và nấu thức ăn đến nhiệt độ sôi chín an toàn.

➢ Tiêm chủng đầy đủ theo khuyến cáo. Một số loại vắc-xin được đề nghị bảo vệ chống nhiễm khuẩn, chẳng hạn như bệnh bạch hầu và ho gà 

➢ Anh chị cần ghi nhớ: hơn 80% cảm cúm thông thường là do vi rút, không cần dùng kháng sinh. Nhiều trẻ bị tiêu chảy cũng như vậy.

➢ Khi ốm đau, anh chị cần khám tại các trung tâm chính thống, chuyên khoa, uy tín. Phải thăm khám lâm sàng, dùng thuốc theo đơn và tuân thủ theo phác đồ điều trị của bác sĩ. Tuyệt đối không được tự ý đi mua thuốc dùng, tuyệt đối không được bỏ thuốc giữa chừng hoặc thêm thuốc, thay thuốc khi chưa báo cho bác sĩ điều trị. Không bao giờ uống thuốc kháng sinh theo đơn của người khác, không sử dụng thuốc quá hạn sử dụng hoặc đã bóc, mở lâu ngày.

➢ Tìm hiểu về thuốc trước khi sử dụng. Tất cả các loại thuốc theo toa đều có tờ thông tin gọi là Consumer Medicine Information (CMI). Chúng bao gồm thông tin về sử dụng, tác dụng phụ và biện pháp phòng ngừa. Dược sĩ có thể cung cấp CMI cho thuốc của anh chị.

➢ Anh chị hãy hỏi dược sĩ để được tư vấn nếu muốn mua thuốc không bán theo toa. Họ có thể tư vấn cho anh chị về tác dụng phụ và tương tác với các loại thuốc khác mà chúng ta đang dùng. Hãy cho bác sĩ biết về tất cả các loại thuốc chúng ta đang uống, bao gồm thuốc theo toa, thuốc mua tự do và thuốc bổ sung.

➢ Hãy xin tư vấn từ bác sĩ của anh chị về ăn uống, sinh hoạt, thể thao và lối sống nếu chúng giúp làm giảm nhu cầu dùng thuốc, vì một số bệnh lý có thể được quản lý tốt hơn với những thay đổi về chế độ ăn uống và tập thể dục thường xuyên.

➢ Có một đánh giá hàng năm của tất cả các loại thuốc chúng ta đang dùng. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những người lớn tuổi bởi vì, khi mọi người già đi, họ có nhiều khả năng bị tác dụng phụ của thuốc hơn. Bất kỳ loại thuốc được coi là không còn cần thiết nên được dừng lại => Hãy hỏi bác sĩ, dược sĩ nếu anh chị đang dùng thuốc để có thể được hưởng lợi từ một “Đánh giá hàng năm” này. 

➢ Dị ứng, sốc thuốc là những biến chứng nguy hiểm của việc dùng thuốc, đặc biệt là kháng sinh, vậy nên cần chủ động thông báo cho bác sĩ, dược sĩ biết được tiền sử dị ứng của mình hoặc người thân trước khi được kê đơn và mua thuốc.

➢ Kiểm tra chức năng gan thận định kỳ khi dùng thuốc tây kéo dài, với những đối tượng nguy cơ cao như cơ địa dị ứng, bệnh lý gan-thận (suy gan, viêm gan, suy thận..), phụ nữ có thai & cho con bú, người có bệnh lý dạ dày…chúng ta cần tham khảo kỹ ý kiến của bác sĩ và dược sĩ trước khi dùng thuốc.

➢ Đối với những trẻ điều trị nhiễm trùng dai dẳng hoặc nhiễm trùng nhiều lần mà cần sử dụng kháng sinh nhiều thì nên sử dụng kháng sinh đồ cho trẻ để lựa chọn kháng sinh hợp lý nhất, tránh việc không đáp ứng hoặc đề phòng kháng kháng sinh.

➢ Mỗi gia đình nên xây dựng cho mình một chế độ ăn sử dụng những “kháng sinh thiên nhiên” như tỏi (chữa ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn), men vi sinh và sữa chua, ớt tươi, củ nghệ, các loài hành…nhằm giúp mỗi thành viên trong gia đình có hệ miễn dịch tốt, hạn chế ốm đau & việc phải sử dụng thuốc.

Xin hãy “Share” nếu thấy giá trị. Vì sức khoẻ chung của cộng đồng hoặc có lúc anh chị cần xem lại.

Cảm ơn thật nhiều!

BS Trần Quốc Khánh 

Dinh dưỡng ở tuổi già.

Tại sao lại có chuyện đa dạng, cân bằng, dinh dưỡng cao?

 

Thưa lý do là vì ngoài các chất dinh dưỡng chung thì mỗi loại thực phẩm lại có những chất mà chỉ riêng mình mới có. Cho nên, bữa ăn cần phải có nhiều món ăn khác nhau. Chẳng hạn ta chỉ ăn thịt cá mà quên món rau tươi xanh, thì là điều thiếu sót rất đáng trách vì thịt cá không có chất xơ của rau. Mà chất xơ lại rất cần cho cơ thể.

Đa dạng nhưng không “hổ lốn”, hỗn độn, nhất bên trọng, nhất bên khinh mà cần theo một tỷ lệ đã được nghiên cứu chỉ định. Đó là sự cân bằng giữa các loại thực phẩm. Thông thường các nhà dinh dưỡng khuyến cáo nên dùng từ 45-55% chất carbohydrate từ cơm, gạo, mì, rau trái, 25-30% chất béo và phần còn lại là chất đạm thịt cá, các loại hạt.

 

Và món ăn phải có giá trị dinh dưỡng cao, tức là có đủ các chất mà cơ thể cần để hoạt động, để tái tạo tế bào hư hao, để trẻ thơ tăng trưởng. Các thực phẩm như đường tinh chế, rượu chỉ cho calori mà không cho chất dinh dưỡng, cho nên nếu tiêu thụ nhiều chỉ làm cho cơ thể phì lộn, béo bệu.

 

Dù ở tuổi già, nhưng quý lão niên vẫn cần năng lượng để làm việc, để duy trì sức khỏe tuổi cao đồng thời, nếu dinh dưỡng tốt, cũng có thể phòng tránh được một số bệnh như bệnh loãng xương, bệnh tim, bệnh cao huyết áp, thiếu hồng cầu, sa sút trí tuệ Alzheimer và vài loại ung thư. Chẳng may mà cụ nào đang mắc một vài trong các bệnh vừa kế thì dinh dưỡng đúng cách cũng khiến cho bệnh nhẹ nhàng, hồi phục mau hơn.


Hỏi rằng có một công thức dinh dưỡng nào toàn hảo cho tuổi thọ trường sinh, thì câu trả lời là không có. Nhưng những lời khuyên thực tế sẽ là: thực phẩm phải đa dạng, phẩm chất dinh dưỡng cao và các chất dinh dưỡng phải cân bằng.


Về số lượng chắc chắn là nhu cầu của quý cụ sẽ ít hơn là khi còn trung niên trai tráng, vì bây giờ đâu còn phải lao động chân tay cật lực. Do đó quý cụ vẫn cần các chất dinh dưỡng chính như mọi người. Đó là chất carbohyrat (chất bột, đường), chất dạm, chất béo, vitamin, khoáng chất và nước.

 

Con người, nói chung, không giống các sinh vật khác ở chỗ là ta không phải di chuyển để lùng kiếm thức ăn hay e ngại không kiếm đủ thức ăn. Mà ta lại có mối lo là làm sao không chỉ-ngồi-đó-mà-ăn hoặc ăn-quá-nhiều. Lý do là tại nhiều quốc gia, thực phẩm quá dư, chỉ muốn ăn gì và có tiền là xong. Nhưng ăn nhiều mà không vận động, tiêu dùng thì thật là nguy hiểm.

Sau đây là một số điều cần làm để có dinh dưỡng tốt cho tuổi già:

 

1_ Biết lựa thức ăn thích hợp.

 

Tại Hoa kỳ, năm 1990 một đạo luật liên hệ tới việc liệt kê phẩm chất, thành phần của thức ăn đã được ban hành với mục đích để giới tiêu thụ dễ chọn lựa thức ăn thích hợp với nhu cầu của mình. Các quốc gia khác cũng phụ họa, làm theo.

Nhãn hiệu (Food label) đó không hoàn toàn đáng tin cậy, nhưng ít nhất cũng có giá trị hướng dẫn. Ta nên coi kỹ bảng phân tích này để lựa thức ăn thích hợp với cơ thể của mình.

 

2_ Khi nào thì ăn?

Tất nhiên sẽ có câu trả lời: Thấy đói là ăn. Vậy khi nào thì đói, đói bụng hay đói con mắt? Lại nữa: ăn để sống hay sống để ăn?.

 

Người phương Tây có thói quen: ăn bữa sáng bữa trưa nhẹ, bữa tối thịnh soạn. Kể ra cũng tiện, vì sáng dậy vội vã đi làm, chỉ đủ thì giờ để chiêu một ly cà phê.

 

Trưa ngồi ở sở vừa làm việc vừa nhai miếng bánh mì kẹp chả mới làm tối hôm qua, kèm theo quả chuối, ly coke.

 

Tối về rảnh rang, làm một bữa cơm rượu no nê, rồi lên giường ngủ.

 

Thế là cholesterol trong máu tăng cao, những tảng mỡ không mời mà ngang nhiên xâm lấn vùng bụng, vùng hông.

 

Từ hơn ba chục năm trước, tại viện Đại Học Chicago, nhà dinh dưỡng Clarence Cohln đã chứng minh rằng những người ăn một bữa no mỗi ngày thì cholesterol sẽ cao hơn những người nhâm nhi nhiều lần trong ngày. Ðây có lẽ cũng là lý do mà cholesterol ở nữ giới, lúc thiếu thời, thấp hơn ở nam giới, vì quý bà hay ăn quà vặt. Còn quý ông thì nhồi nhét một bữa cho xong.


Ăn một bữa no cũng bắt buộc sự biến hóa thực phẩm phải làm việc quá sức, vị tố tiêu hóa, nhất là Insulin, phải tiết ra nhiều trong một thời gian quá ngắn, đôi khi có khuyết điểm.


Tốt hơn hết là tuổi già cứ nhâm nhi, chia phần ăn ra nhiều phần nhỏ rồi ăn lai rai nhiều lần trong ngày.

 

3_ Hỏi rằng ăn bao nhiêu cho đủ?

Xin thưa là các cụ Á đông ta quan niệm để sống lâu chỉ nên ăn” ba phần đói, bẩy phần no”. Để còn hơi thòm thèm, sau này còn muốn ăn món đó nữa và cũng để tránh ăn quá nhiều.


Các nhà dinh dưỡng lại khoa học hơn. Họ khuyên:

 

-Nam giới trên 50 tuổi tiêu thụ khoảng 2000 calo nếu ít hoạt động, 2200-2400 calori nếu hoạt động vừa phải và nếu còn rất hoạt động lại cần nhiều hơn: 2400-2800 calo mỗi ngày.


Với nữ giới thì theo thứ tự như trên sẽ là 1600 calori, 1800 calori và từ 2000-2200 calori.

 

4_ Làm sao để ăn ngon?

Ăn uống đứng đầu tứ khoái (ăn, ngủ, sinh lý, “đổng ìa”). Nhưng nhiều vị cao niên lại chẳng muốn ăn hoặc thấy món ăn nhạt tuếch, vô vị. Trở ngại này có thể là vì răng không còn nhiều, lợi viêm sưng, nhai nuốt khó khăn, nước miếng giảm hoặc đang uống nhiều dược phẩm trị bệnh làm giảm khẩu vị; hoặc cô đơn lủi thủi ăn uống một mình.

 

Hãy thổ lộ với các nhà chuyên môn dinh dưỡng, y tế để cùng nhau giải quyết.

 

Lựa nấu món ăn ưa thích, cho thêm chút gia vị màu mè để món ăn hấp dẫn hơn. Và cũng tìm thêm bạn để đồng thực, đồng ẩm.

 

5_ Giới hạn thực phẩm có nhiều chất béo nhất là mỡ động vật.

Chất béo bão hòa làm tăng cholesterol trong máu. Chất béo từ thực vật, bất bão hòa, làm giảm cholesterol.

 

Giản dị nhất là ăn thịt nạc, thịt gà, vịt bỏ lớp da đầy mỡ; hấp hay nướng nhiều hơn là chiên; thay thịt bằng cá, rau, trái cây; uống sữa ít chất béo.

 

6_ Ăn thực phẩm có nhiều rau, trái cây hạt ngũ cốc

Các thực phẩm này tương đối vừa rẻ lại tốt lành và cũng có nhiều năng lượng.

 

Các nhà dinh dưỡng khuyên nên dùng 5 đơn vị trái cây và rau mỗi ngày, 6 tới 11 đơn vị hạt ngũ cốc. Mỗi đơn vị là lượng thức ăn mà ta thường dùng như là một bát cơm, một quả táo cỡ trung.

 

Nên nhớ là trên thế giới có cả hàng trăm triệu người ăn chay mà họ vẫn sống lâu. Như vậy ăn chay chắc phải có một gía trị dinh dưỡng nào đó.

 

Lại nữa: phần ăn của các lực sĩ vô địch trước khi tranh giải đều có nhiều carbohydrate, là một lý do để ta tăng số lượng rau và trái cây trong bếp và trên bàn ăn của chúng ta.

 

7_ Một vài ý kiến về chất đạm protein.

Cơ thể được cấu tạo bằng chất đạm. Chất này có nhiều nhất trong thịt động vật nhưng cũng có trong thảo mộc, nhất là các cây thuộc họ đậu như đậu hoà lan, đậu cô ve, đậu nành.

 

Khoa học đã chứng minh là một khẩu phần có nhiều thịt động vật làm tăng hiểm họa bệnh tim.


Do đó, tới tuổi cao, nên theo một chế độ thực phẩm với thịt nạc, sữa ít chất béo, nhiều rau, trái cây.

 

8_ Nước và muối cũng cần được lưu ý.

Trong cơ thể, tỷ lệ nước lên đến 60% trọng lượng, mỗi ngày thận lọc gần hai trăm lít máu và thải ra 1/100 dung dịch nước. Như vậy cơ thể cần có một số nước tối thiểu để tồn tại. Trung bình, cần uống 1 lít rưỡi nước mỗi ngày, và uống thêm khi nào thấy cần để tránh tình trạng khô nước hay loãng tiểu.

 

Nước không có calories, không có khoáng chất, đôi khi không mất tiền mua lại còn là chất bôi- trơn (lubricant) tốt cho cơ thể.

 

Với muối, chỉ cần một phần tư thìa cà phê mỗi ngày là đủ. Dân chúng dùng nhiều muối, như người Nhật, thường có nhiều nguy cơ cao huyết áp.

 


9_ Tăng tiêu thụ chất xơ

Gần đây, chất xơ (fiber) trong rau và trái cây được nhắc nhở tới nhiều vì có công dụng trong việc hạ thấp lượng cholesterol trong máu, tăng tốc độ di chuyển của thức ăn trong ruột, tránh táo bón và viêm ruột.

 

Chất xơ không có giá trị dinh dưỡng mà chỉ làm đầy bao tử, cho nên còn có tác dụng giúp ta giảm béo mập...

 

10_ Dùng bổ sung sinh tố và khoáng chất

Các vi chất này có tác dụng xúc tác trong việc chuyển hóa thức ăn và có nhiều trong các loại thực phẩm. Tuy nhiên, ở người cao tuổi, khẩu phần nhiều khi không được cân bằng và có thể thiếu một vài loại sinh tố, khoáng chất. Vì vậy nên dùng thêm một phân lượng phụ trội.

 

Kết luận

 

·        Để sống già sống khỏe, cần có dinh dưỡng đầy đủ, cân bằng, đa dạng.

·        Hãy tiêu thụ nhiều loại thực phẩm khác nhau.

·        Hãy giới hạn các thực phẩm “rỗng”, chỉ có calori mà không có chất dinh dưỡng, như rượu, nước có hơi, bánh ngọt.

·        Hãy lựa thực phẩm có ít cholesterol, chất béo.

·        Và phòng tránh ngộ độc, tiêu chảy với vệ sinh an toàn thực phẩm. Ăn chín, uống sôi, rau trái sạch, rửa tay thường xuyên.

 


Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D.



































Không có nhận xét nào: