a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.
Hiển thị các bài đăng có nhãn TRUYEN NGAN SUU TAM. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn TRUYEN NGAN SUU TAM. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 2 tháng 12, 2023

Chuyện chẳng có gì hết

 


 

           Thật vậy, chuyện chẳng có gì hết. Nhưng sao nó cứ đeo theo ám ảnh tôi từ mấy hôm nay. Tôi cứ nghĩ đến nó, nhớ rõ từng chi tiết, hình ảnh, từng xúc động trong lòng mình lúc đó. Để rồi trăn trở băn khoăn, không biết những người khác – những người Việt Nam cũng lưu vong như tôi – có cùng một tâm trạng như tôi hay không, nếu họ chứng kiến câu chuyện chẳng có gì hết này. Đó là lý do tôi muốn kể lại những gì tôi đã nghe thấy cách đây mấy hôm. Và tôi nghĩ : kể lại, chắc sẽ làm nhẹ bớt những gì từ bao lâu nay tôi chất chứa trong lòng…  

        ...Hôm đó, tôi đi mua đồ ở siêu thị. Sau khi kiểm điểm lại những gì mà vợ tôi dặn mua – một danh sách mười mấy món – tôi đẩy xe caddie lại xếp hàng để ra két. Vì đông người nên hàng thật dài, kéo sâu vào hành lang giữa hai dải kệ đầy bánh kẹo. Tôi đứng ở cuối cái đuôi, kiên nhẫn đợi, bởi vì người xếp hàng đã đông mà caddie của người nào cũng đầy ăm ắp.

           Phía trước tôi, cách hai người, có ba con đầm tuổi choai choai chắc đi chung nên thấy xô đẩy nhau cười nói. Chúng nó nói chuyện với nhau, nói lớn tiếng như chúng đang ở ngoài đồng và như đứa này cách đứa kia hàng trăm thước ! Một đứa bỗng lấy ra một điện thoại di-động bấm nút rồi nói chuyện. Vì hai đứa kia đang nói lớn tiếng nên nó phải la lớn hơn để người đối thoại mới nghe. Đại khái, nó hỏi : " Hôm qua mày đi với thằng nào ? ... Super... Ừ ! Ừ !... Thằng Alex hả ?... Génial ! ... Ừm ! Ừm ! … Génial ! ... Rồi mày làm sao ?...Ừm ! Ừm !...". Bỗng nó rú lên vừa nhảy cẫng vừa hét vào máy : " Ố ! Ố !...Super ! Super ! Génial !... Ờ… Thôi ! Mày gọi lại tao há ! Bye ! " Nó đóng máy lại mà mắt môi vẫn còn đầy kích động ! Có vài người nhìn nó, nhưng cái nhìn dửng dưng. Chẳng thấy có ai cau mày hay lắc đầu nhè nhẹ để thấy họ có phản ứng, dù là gián tiếp ! Coi như chuyện bình thường…

           Tôi thì tôi không chịu được ! Thật là mất dạy. Mà ở xứ Pháp này, cái thứ mất dạy như vậy, đầy ! Chẳng còn nề nếp gì hết, chẳng còn lễ độ gì hết, chẳng còn kiêng nể gì hết. Loạn !

           Chính trong lúc đó tôi nghe phía sau tôi giọng đàn bà nói tiếng Việt Nam : " Sophie ! Đừng làm như vậy ! Mẹ nói đừng làm như vậy !". Ngạc nhiên, tôi nhìn lại : đứng ngay sau tôi là một thiếu phụ Việt Nam tuổi độ ba mươi và một đứa bé gái tóc vàng mắt xanh cỡ  chừng bảy tám tuổi. Thấy tôi nhìn, cô ta mỉm cười gật đầu chào, rồi tiếp tục nói với đứa con : " Mẹ dạy con làm sao ? Muốn cái gì cũng phải hỏi ý mẹ trước. Thứ này ở nhà con còn tới hai hộp lận, ăn chưa hết mà con lấy nữa làm gì ?" Đứa bé đứng cúi đầu. Cô ta nói tiếp, giọng hơi gằn : " Sophie ! Nhìn vào mắt mẹ nè !" Đứa bé ngước lên nhìn mẹ, đôi mắt xanh chớp chớp. Người mẹ vừa nói vừa chỉ hộp bánh nằm trong caddie : " Con đem hộp bánh trả lại trên kệ hàng cho mẹ ! Đừng làm cho mẹ giận, Sophie !" Đứa bé làm theo lời mẹ, rồi trở về nắm ống tay áo mẹ giựt giựt nhẹ, giọng như sắp ướt nước mắt : " Mẹ đừng giận con, nghe mẹ. Mẹ đừng giận con…"

Ngạc nhiên, tôi nói : " Cháu nói tiếng Việt giỏi quá, há cô !". Mẹ nó cười tươi : " Dạ, lúc nào nó nói chuyện với cháu nó cũng nói bằng tiếng Việt. Còn nói với ba nó thì nó nói  tiếng Pháp". Rồi cô ta quay qua nói với con : "Chào ông đi con". Con bé khoanh tay cúi đầu : "Dạ chào ông". Tôi đưa tay xoa đầu nó, nói được có một tiếng "Giỏi" rồi nghẹn ngang. Tôi vội nhắm mắt quay mặt đi để che giấu niềm xúc động. Nhắm mắt mà tôi vẫn thấy đứa bé khoanh tay cúi đầu chào, một cử chỉ rất tầm thường nhưng sao nó bật lên cho tôi hình ảnh quê hương, cái quê hương ngàn trùng xa cách ? Từ lâu, rất lâu – có lẽ cũng gần ba mươi năm – tôi không còn thấy cái cung cách lễ độ đó. Ở Việt Nam, phần lớn các bà mẹ đều dạy con như vậy. Bây giờ, trên xứ Pháp xa xôi này, một người mẹ Việt Nam trẻ tuổi chẳng những dạy đứa con lai nói rành rọt tiếng Việt mà còn dạy cả cung cách Việt Nam nữa. Người mẹ đó bỏ xứ ra đi, đã biết mang theo những gì quí nhứt của quê hương. Hình ảnh Việt Nam bỗng ngời lên trước mắt…

           Trả tiền xong, tôi quay lại nói : "Thôi ! Chào cô nghen ! Thấy cô dạy cháu bé như vậy, tôi thật cảm phục. Ở đây, hiếm lắm, cô biết không ?". Cô ta cười : "Dạ ! Có gì đâu? Mình là người Việt Nam mà bác. Dạ ! Chào bác". Bé gái đang phụ mẹ chất đồ lên quầy cũng ngừng tay nhìn tôi cúi đầu chào… Thấy thương quá !

           Trên đường về tôi miên man nghĩ tới người thiếu phụ trẻ tuổi đó và thấy quí những người như vậy vô cùng. Không phải tại vì hiếm mà quí. Mà tại vì nhờ có những người như vậy cái gốc Việt Nam vẫn còn, vẫn có trên khắp các nẻo đường lưu vong.

           Rồi liên tưởng nhắc tôi một thằng bạn. Tụi tôi quen thân nhau từ nhỏ. Lớn lên, nó làm trong nhà nước, tôi làm hãng tư, nhưng vẫn thường gặp nhau. Nó di tản trước tháng tư 75 rồi định cư ở Pháp. Tôi bị kẹt lại, sống mấy năm trời lận đận. Sau đó tôi vượt biên. Rồi cũng định cư ở Pháp. Chúng tôi lại gặp nhau ở Paris. Nó làm việc cho nhà nước Pháp, cuộc đời ổn định từ lâu. Tôi lêu bêu một dạo rồi trôi qua Phi Châu mới có công ăn việc làm. Từ đó, chúng tôi bặt tin nhau…

           Phải hai mươi năm sau, về Paris tôi mới lại gặp nó. Nó có nhà ở dưới tỉnh, cách Paris cả ngàn cây số. Nhân dịp lên Paris ở hai ngày để dự đám cưới thằng cháu, nó tìm gặp lại tôi ở nhà một người bạn chung. Nói chuyện suốt cả buổi chiều vẫn chưa thấy đã. Sau đó, nó biên cho tôi địa chỉ của nó trên một tờ giấy nhỏ, tôi nhìn mà nhớ lại thuở thiếu thời. Hồi đó, nó là một trong vài thằng viết chữ đẹp nhứt lớp, cho nên ông thầy chỉ định nó mỗi buổi sáng vào lớp trước giờ học để viết trên đầu tấm bảng đen cái thứ trong tuần và ngày tháng năm. Hồi thời đó, được chỉ định như vậy, "hách" ghê lắm ! Bây giờ, tuồng chữ của nó vẫn còn đẹp như xưa nhưng cứng rắn hơn.

           Mấy hôm sau, tôi viết cho nó một bức thư dài, nhắc lại những kỷ niệm cũ mà hôm gặp lại nhau còn quên chưa kịp nhắc. Thằng con tôi bảo tôi viết xong đưa nó đánh vào máy vi tính rồi in ra cho tôi. Máy của nó có hệ VNI nên đánh chữ Việt Nam được. Tôi nói : "Không ! Ba muốn gởi thư viết tay, nó trang trọng hơn. Ngoài ra, khi bạn của ba cầm lá thư trên tay, chưa đọc, chỉ nhìn tuồng chữ thôi, ông ta cũng sẽ thấy được ba trong từng nét bút. Còn thư đánh máy, nó không mang một bản sắc nào hết, nó cứng ngắt, vô hồn…"

           Mươi ngày sau, tôi nhận được lá thư hồi âm của nó. Thư đánh máy và bằng tiếng Pháp. Tôi cảm thấy thật hụt hẫng. Tôi đâu có dè nó "mất gốc" đến độ như vậy ! Tôi chỉ còn nhìn ra được thằng bạn tôi ở cái chữ ký, còn lại là một thằng tây nào đó chớ không phải một thằng Việt Nam ! Tôi chua xót, nhưng cũng ráng đọc cho hết bức thư trước khi thả nó rơi vào sọt rác. Tình bạn mà tôi đã dành cho nó từ thời tuổi nhỏ chắc cũng đã rơi theo vào sọt rác, nghe nhẹ như hơi thở dài…

           Đó ! Câu chuyện không có gì hết mà tôi muốn kể lại. Suy cho cùng, chắc nó có mang một "cái gì đó" chớ không phải "không có gì hết". Tại vì tôi không thấy. Chớ nếu nó không "nói" lên cái gì hết thì tại sao tôi cứ phải nghĩ ngợi băn khoăn ?

           Có lẽ tại vì lâu nay tôi thường nghe người Việt lưu vong than đã mất quê hương, mà tôi thì cứ cho là chuyện bình thường, chẳng có gì phải suy nghĩ. Chính cái cung cách khoanh tay cuối đầu chào của cô bé tóc vàng mắt xanh đã bắt tôi phải suy nghĩ. Nếu người Việt lưu vong giống thằng bạn của tôi thì đúng là họ đã để mất quê hương thật. Còn như họ giống mẹ con người thiếu phụ trẻ tuổi mà tôi gặp trong siêu thị thì làm sao nói mất quê hương ? Quê hương còn nguyên đó chớ, thể hiện bằng tư duy, bằng ngôn ngữ, bằng phong cách đặc thù Việt Nam. Đó là cái gốc mà mình đã mang theo, chỉ cần một quyết tâm gìn giữ, vun bồi là nó sẽ đâm chồi nẩy lộc… Còn hay hơn nữa : mình nên bắt chước người mẹ trẻ tuổi đó, coi chuyện gìn giữ cái gốc là chuyện tự nhiên, ai ai cũng phải làm. Tôi nhớ hoài câu nói của cô ta : "Dạ ! Có gì đâu ? Mình là người Việt Nam mà bác !". Và tôi tin chắc : một người như cô ta chẳng bao giờ than rằng đã mất quê hương !

           Bây giờ thì tôi thấy "câu chuyện không có gì hết" thật sự không phải không có gì hết !


Tiểu Tử.


CÓ MỘT TƯỢNG ĐÀI PHỤ NỮ HÀ NỘI TRÊN ĐỈNH ĐÈO NGANG.



Trong văn học Việt Nam có một người phụ nữ Hà Nội đã để lại vóc dáng đài các đã mấy trăm năm. 
Người phụ nữ tài hoa ấy, đứng trước thiên nhiên đất nước đã nói tâm tình của một con người cô đơn 
nhỏ bé trước vũ trụ, nhưng dường như đã cố giấu đi cả tên tuổi của mình. Mặc dù tên của bà có ý 
nghĩa là mùi hương thơm nức, nhưng bà vẫn cố giấu đi, ngay cả tên gọi của mình. Người ta cũng 
không gọi bà bằng tên gọi của chồng bà như những phụ nữ khác. Người ta chỉ gọi bà bằng cái chức
 vụ của chồng bà mà thôi. Đó là Bà Huyện Thanh Quan. Tên thật của bà là Nguyễn Thị Hinh. Hinh 
chữ Hán có nghĩa là hương thơm ngào ngạt.

Văn chương cổ Việt Nam không có nhiều nữ thi sĩ. Nhưng đặc biệt nhất là có tới hai nữ thi sĩ tên Hương.
 Một Hồ Xuân Hương ngang tàng, phóng túng. Một Nguyễn Thị Hinh (Hương) đài các, phong lưu.

Hai nữ thi sĩ tên Hương ấy đã đi vào lịch sử văn chương Việt Nam với hai phong cách khác nhau. 
Và sức lan tỏa của những câu thơ của hai bà đã làm lay động bao thế hệ người đọc Việt Nam.
 Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của một người phụ nữ ngang tàng, nhìn sự vật trong sự biến động và 
biến chuyển với góc nhìn đầy cá tính. Mỗi sự vật hiện lên trong thơ bà là đều ẩn chứa trong đó khát 
vọng mạnh mẽ về nữ quyền và về những khát vọng của tình yêu và cả tình dục nữa.

Chân dung Hồ Xuân Hương được vẽ với “yếm đào trễ xuống dưới nương long”, với khuôn mặt tươi 
tắn, đầy khát vọng và cả chút nhục cảm nữa! 
 
  Còn Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ tên “Hương” khác thì hoàn toàn khác.
 Bà mang khuôn mặt đầy đặn với nét môi cắn chỉ đoan trang, kiêu sa và kiểu cách
 của một phụ nữ đài các.

Hiện chưa biết về năm sinh và năm mất của Bà huyện Thanh Quan. Ta chỉ biết bà sinh ra ở làng hoa Nghi Tàm bên bờ Hồ Tây.
 Rằng bà là người hay thơ, giỏi Nôm.       Chồng bà là Lưu Nguyên Ôn, người
 làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ Cử nhân năm 1828, từng làm Tri huyện Thanh Quan sau can án bị giáng chức làm việc ở bộ Hình trong kinh đô Huế. 
  Ông huyện Thanh Quan chẳng may mất sớm, khi mới 43 tuổi, bà vẫn ở vậy nuôi con.


Nhắc đến bà huyện Thanh Quan không ai là không nhớ đến chuyện xảy ra lúc chồng bà là Tri huyện Thanh Quan, nhân khi chồng đi vắng, bà nhận được đơn của một thiếu phụ trong huyện xin được đi lấy
 chồng, thương hoàn cảnh của chị ta, bà đã phê vào tờ đơn bằng mấy câu thơ: 

Phó cho con Nguyễn Thị Đào

Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai

Chữ rằng “xuân bất tái lai”

Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già! 

Câu chuyện bà huyện thay chồng phê đơn là một giai thoại văn học rất đẹp. Nó gợi cho ta hình ảnh một bà huyện tự tin và hóm hỉnh.
 Bà huyện cũng là một phụ nữ nên bà biết thương cái xuân thì của người thiếu phụ.
   Không biết cô Nguyễn Thị Đào đi lấy chồng, sinh con đẻ cái có đem nhau về chơi với Bà  Huyện hay không?
  Nhưng câu chuyện cũng gợi cho đời sau tưởng tượng ra cảnh nhà bà huyện đầm ấm vui vẻ, vợ chồng cùng thưởng trà dưới nguyệt hay ngâm vịnh xem hoa vô cùng tao nhã và tâm đắc.

   Đời vua Minh Mạng, bà được vời vào cung trao cho chức Cung trung giáo tập, dạy dỗ cho các cung phi và công chúa.
   Điều này xác nhận với chúng ta rằng bà Huyện Thanh Quan là một phụ nữ có đầy đủ “công, dung, ngôn, hạnh” theo đúng chuẩn mực xưa, nên đã được triều đình biết tiếng, được một vị vua sáng là 
Minh Mạng vời vào cung và giao cho trọng trách này!

     Con đường thiên lý Bắc Nam ấy đã từng lưu dấu chân của nữ sĩ tài hoa mà cả trăm năm nay, khách bộ hành,
 xe kiệu đi qua Đèo Ngang còn thấy dáng hình người phụ nữ lồng lộng và đơn côi trên đỉnh đèo trong 
một hoàng hôn lữ thứ. 

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng ngấm trời – non – nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Bài thơ thật buồn. Hình ảnh Đèo Ngang được vẽ bằng mấy nét tiêu sơ, gợi nên cả cái hoang mang của lữ khách. 
  Xa xôi trong đó là một tâm sự về nước non nhà với niềm đau, niềm nhớ niềm thương!
    Bà huyện đã dừng lại giữa đỉnh đèo giữa trời mây non nước bao la, và nỗi cô đơn xâm chiếm tâm hồn bậc tài nữ trong
 mấy chữ “ta với ta”. Bà đã đứng khựng lại giữa đỉnh đèo mấy trăm năm nay, bóng hình in vào nền trời Đèo Ngang lộng gió, gửi đến hậu thế muôn sau tâm sự của bà.
 
Có lẽ mối duyên với ông huyện Thanh Quan để lại trong bà huyện những dư vị ngọt lành của tình phu phụ,
 “tương kính như tân” nên thơ của bà huyện là thứ thơ cao sang, đài các và đẹp một vẻ đẹp điển nhã của thi 
ca cổ.  
 
Bà Huyện Thanh Quan để lại 7 bài thơ. Bài thơ nào cũng đài các, sang trọng. Bài thơ nào cũng hoài cổ, luyến nhớ.
     Nhưng bà nhớ nhất là nhớ nhà, nhớ quê. Trông cảnh chiều thu bà nhớ ngẩn ngơ trong bâng khuâng hoài niệm.
     Mỗi bước bà đi là lại “lòng quê một bước nhường ngao ngán/ Mấy kẻ tình chung có thấu là!”.
 
Bảy bài thơ của Bà Huyện là bảy bài thơ Nôm, đều là thơ thất ngôn bát cú mỗi bài tám câu, mỗi câu 7 chữ. 
Nghiêm ngắn, trang trọng. Mỗi bài là một bức tranh thủy mặc được vẽ lên như những bức tứ bình đẹp.
   Mỗi bức tranh ấy gói ghém tâm trạng của bà. Buồn mà không bi lụy. Có cả những tâm sự hoài cổ của một phụ 
nữ trước cảnh dâu bể với những hành cung miếu điện của những triều vua đã đi qua. Và hơn hết là cái nhìn 
đầy thương mến với những cảnh vật tiêu sơ, nơi đèo heo hút gió, những ngư ông và bác tiều phu, những mục
 đồng lùa trâu về những thôn xa vắng.
 
Bà Huyện Thanh Quan tên là Hinh, với nghĩa là mùi hương ngào ngạt. Bà không mang tên chồng mà chỉ 
mang tên chức vụ của chồng. Chức vụ ấy trong đời làm quan của chồng bà cũng rất ngắn ngủi. Bà cũng chỉ
 để lại cho đời ngót chục bài thơ Đường luật Nôm vuông chằn chặn. Vậy mà vẻ cao sang đài các, kiêu sa từ 
từng con chữ trong những bài thơ đều mỗi bài 56 chữ ấy đã lan tỏa khắp thi đàn nước Việt trải đã mấy trăm năm.
 
Tình nước non non nước của người phụ nữ ấy như đã hòa cùng con cuốc cuốc, cái gia gia trong thơ bà cứ da 
diết, da diết vọng đến hôm nay và muôn sau.

Có thi sĩ đã từng viết về một loài hoa có những “bông hoa nhỏ giấu mình trong cỏ; thơm hết mình mà chẳng 
thấy hoa đâu”. Phải chăng bông hoa ấy là bà Huyện Thanh Quan hương thơm ngát thi đàn nước Việt mà lai lịch 
hành trạng thì còn đang đánh đố hậu thế.

Ai có dịp qua Đèo Ngang, hãy ngước nhìn đỉnh đèo non nước trời mây bao la, trên đó là một tượng đài bà Huyện
 Thanh Quan lồng lộng ở mãi với thời gian…

Nguyễn Xuân Diện




BI KỊCH DO MÙ QUÁNG CHẠY THEO ĐÁM ĐÔNG & CÁI CHẾT CỦA BẦY LINH DƯƠNG
Vào ngày 23/10/2010, hơn 270 xác con linh dương đã được tìm thấy tại hẻm núi Grand Canyon ở Nam Phi. Nhìn thảm trạng lúc đó có thể thấy được, những con linh dương này bị rơi từ trên đỉnh hẻm núi xuống mà chết. Nhiều người tự hỏi, làm sao chúng lại có thể rơi xuống được?
Sau khi điều tra, nhân viên công tác cũng không thấy có dấu hiệu nào của việc chúng bị con vật khác đuổi theo. Nhưng nếu là ngẫu nhiên rơi xuống thì một hai con ngã chết còn có thể lý giải được chứ hơn 270 con đều rơi xuống chết dưới vực sâu thì không thể giải thích nổi. Lẽ nào hàng trăm con linh dương lại thực hiện việc tự sát tập thể? Nhưng tại sao chúng phải tự sát? Hơn nữa, chưa ai từng nghe thấy loài linh dương có tập tính tự sát.
Những bí ẩn chờ lời giải đáp…
Sự việc này khiến mọi người ở khắp nơi không ngừng suy đoán. Sau một thời gian dài, các ý kiến về nguyên nhân dẫn đến cái chết của đàn linh dương vẫn chưa được thống nhất. Điều này đã thu hút sự chú ý của Giáo sư Bella, một nhà động vật học tại Đại học Cape Town.
Giáo sư Bella đã tham gia nghiên cứu động vật học hơn 30 năm, sau khi đọc báo cáo, ông cũng cảm thấy khó hiểu trước hiện tượng này. Để làm rõ sự thật, ông lập tức quyết định lên đường đến nơi xảy ra vụ việc để điều tra nhằm tiết lộ sự thật về nguyên nhân dẫn đến cái chết của đàn linh dương.
Sự xuất hiện của Giáo sư Bella đã được tổ chức bảo vệ động vật địa phương chào đón nồng nhiệt. Ngoài việc tiếp đón nhiệt tình, họ còn bố trí hai nhân viên trợ lý giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cuộc điều tra nghiên cứu của ông.
Đầu tiên, Giáo sư Bella kiểm tra xác linh dương đã được bảo quản lạnh. Sau đó, ông cùng với trợ lý của mình đến hẻm núi nơi đàn linh dương rơi xuống để xem xét hoàn cảnh. Ông xuống dưới đáy vực xem xét rồi lại để cho trợ lý dẫn lên đỉnh hẻm quan sát địa thế.
Khi lên đến đỉnh hẻm núi, Giáo sư Bella cẩn thận quan sát và nhận thấy phía trên hẻm núi có một khoảng đất trống rộng lớn. Quan sát kỹ hơn, ông lại thấy rìa hẻm núi có một ít cỏ mọc ra cao nửa mét. Ông lại lui về phía sau để quan sát tiếp và dùng máy ảnh chụp lại từng góc độ khác nhau.
Sau khi mọi việc xong xuôi, ông lại yêu cầu kiểm tra xác những con linh dương một lần nữa. Hơn một giờ đồng hồ xem xét, cuối cùng mắt ông dừng lại trên xác một con linh dương lớn cường tráng rắn chắc. Ông yêu cầu nhân viên trợ lý đưa xác con linh dương này đến phòng thí nghiệm để kiểm tra thị lực của nó. Một ngày sau, kết quả giám định được đưa ra, báo cáo cho thấy, khi con linh dương này còn sống, nó mắc bệnh về mắt rất nghiêm trọng, gần như bị mù một nửa. Sau khi đọc báo cáo, giáo sư Bella gật đầu hài lòng và nói:
“Có vẻ như suy đoán của tôi là đúng. Giờ đây, bí ẩn về nguyên nhân cái chết của đàn linh dương đã được hé lộ”.
Sự thật được sáng tỏ
Trong buổi họp báo sau đó, Giáo sư Bella đã báo cáo với mọi người kết quả nghiên cứu của mình:
“Nguyên nhân là, loài linh dương này có tập tính di cư vào mùa thu hàng năm, cuộc di cư được thực hiện theo đàn, và mỗi đàn đều có một con dẫn đầu, là con lớn nhất trong bầy. Con đầu đàn này sẽ dẫn đường và những con còn lại sẽ đi theo nó. Thông qua kết quả kiểm tra phát hiện con đầu đàn bị bệnh về mắt, khi dẫn đàn linh dương đến gò đất trên đỉnh hẻm núi, bởi vì sườn hẻm núi có cỏ mọc cao nửa mét nên nó không thể phát hiện được phía trước là vực sâu rộng lớn, nó vội vàng lao tới, kết quả là đã rơi xuống vách núi”.
Bi kịch do ‘mù quáng chạy theo đám đông’
Giáo sư Bella nói:
“Hiện tại có một vấn đề, đó là những con linh dương khác không bị bệnh về mắt nên chúng có thể phát hiện ra phía trước là một hẻm núi, tại sao chúng cũng rơi xuống theo con đầu đàn?”
“Bởi vì loài linh dương có một tập tính, lấy con đầu đàn làm chuẩn, con đầu đàn đi như thế nào thì những con còn lại sẽ đi như vậy, dần dần tạo thành tâm lý ỷ lại và mất đi năng lực phán đoán, cho nên chúng mới lần lượt nhảy xuống vực sâu theo con đầu đàn”.
Giáo sư Bella kết luận:
“Đây thật ra là một bi kịch của sự mù quáng chạy theo đám đông”.

Từ fb Hồ Ngọc Phước / Nguồn ĐKN


Thứ Bảy, 25 tháng 11, 2023

Xem Hát Miền Quê Tôi - Kha Tiêm Ly

Nghe tiếng trống 3 dùi một: Thùng thùng! Thùng! Thùng thùng,Thùng!..là tôi nôn nao cả người. Đó là tiếng trống “rao bảng” của gánh bầu Trình về hồi sáng mà thằng Tửng đã thông báo cho cả bọn chúng tôi hay. Mẹ đã hứa cho tôi tối được xem hát, nhưng với điều kiện là phải xắt và bằm xong một thúng chuối cây cho con ụt (heo)! Chuyện nầy không nặng mà cũng không nhẹ nhàng gì. Với con dao xắt mà thợ rèn rèn để chuyên dùng cho việc xắt chuối nên nó bén ngót;và nhờ cái cán dài tựa vào vế, nên cây chuối to đùng tôi chỉ khứa có 6 khứa là xong một lát, nhưng sao lần nầy tôi thấy ngán cái việc tầm thường nầy quá! Còn nửa thúng nữa mới xong, tôi định bỏ dao chạy ra xem (“rao bảng”), nhưng sợ mất thời gian mà trễ xuất hát. Đúng ra tôi muốn đến sớm để cùng lũ bạn chơi đùa và “ăn” nước đá nhận, chứ tới tối mới mở màn, thì làm sao trễ được? Phải chi có thằng Tửng lại, biểu nó phụ bằm thì hay biết mấy!


Từ “rao bảng” thời bây giờ ít được nhắc tới nên các bạn khó mường tượng được. Như vầy: Khi gánh hát vừa tới nơi thì có bộ phận trang trí sân khấu...và một bộ phận đi... “rao bảng”!

Thường bầu hát mướn một cỗ xe ngựa, (loại phương tiện giao thông cao cấp thời ấy ở quê tôi), hai bên hông và sau xe được treo 3 tấm bảng đề tên tuồng hát và hình ảnh ấn tượng nhất của vở tuồng được diễn tối hôm đó. Trên xe có một cái trống chầu và một người đánh trống, thường là người trong đoàn, nhưng đôi khi cũng là người tình nguyện ở lớp tuổi đàn anh của chúng tôi (để được đi xe ngựa và được đánh trống chơi)! Sau xe ngựa là cả bọn chúng tôi... chạy bộ theo; dọc đường lại được các bọn khác tháp tùng, nên xe “rao bảng” cũng coi xôm tụ lắm.

Cứ hai tiếng nhặt, một tiếng khoan (Thùng thùng! Thùng!) theo bước chân ngựa thật chậm từ đầu làng đến cuối làng. Và như thói quen như nghe tiếng chuông cà rem; nghe tiếng trống, thì ai cũng biết gánh hát về!


Tiếng trống xa dần. Hồi sáng thằng Tửng nói tối nay hát tuồng Tôn Tẩn Hạ San tôi càng háo hức được xem. Tôi khoái chuyện nầy qua lời kể của mẹ tôi, nên lấy lại khí thế xắt cho xong nửa thúng còn lại. Để khích lệ tinh thần, mỗi lần khứa dao, tôi đọc thầm trong bụng: “Tôn-Tẩn-Hạ-San-Tôn-Tẩn- phực!”, đến “phực”, 6 khứa dao, là xong một lát chuối; lát mới tôi đếm lại từ đầu: “Tôn-Tẩn..phực!” được 5,10 cái “phực” thì đã mỏi tay. Tôi kiên nhẫn thêm vài cái “phực” nữa thì thằng Tửng áo vắt trên vai, cổ lòng thòng chiếc ná thun, vốn là vật bất ly thân của nó; hổn hển hỏi tôi:

- Chưa rồi sao mậy?

Tôi mừng húm:

- Mầy phụ bằm với tao đi! Gần xong rồi!

Nó tự động lấy tấm thớt và con dao quen thuộc, ngồi cạnh tôi, hốt chuối ra bằm. Thao tác nhuần nhuyễn như đầu bếp chuyên nghiệp bằm thịt!

Trong bọn, tôi thích thằng Tửng nhất, vì nó xông xáo và hay giúp đở bạn bè. Nó lại có nhiều tài vặt mà bọn chúng tôi không có hoặc thua xa; như dám bơi qua lại con rạch cái hai lần khi nước chảy xiết, biết cỡi trâu, đặt lờ, bắt cá và leo cây như khỉ, còn gan dạ nữa! Đi chơi với nó không hề bị đói. Mùa vú sữa thì ăn vú sữa ở đinh, chùa. Các mùa khác thì...chui rào hái trộm! Gần tết, khi ruộng vừa gặt xong, những chỗ nước đọng lại, nó chỉ huy chúng tôi đắp hầm bắt cá. Trong lúc chờ đợi cá nhảy vào, nó làm bẫy cò ke để bắt những con cò xấu số đang lặn hụp tìm mồi.

Được cá, nó bảo chúng tôi bứt gốc rạ khô, đốt lên rồi thảy cá lớn cá nhỏ vào. Chỉ một lát, mùi cá chín bốc lên ngậy cả mũi. Khều cá ra, lấy rạ chà sơ lớp cháy bên ngoài, để lộ lớp thịt vàng lươm…

Tôi dừng tay lại:

- Mầy rủ tụi nó chưa?

- Rồi! Làm lẹ đi!

Cứ mỗi lần gánh hát về thì bộ mặt làng tôi coi xôm tụ lắm. Mới 4 giờ chiều mà mấy chị đã trưng bày các “cửa hàng” của mình: 4,5 xề mía chặt khúc, mấy xề đậu phọng nấu. Tấp nập nhất là “cửa hàng” nước đá của chị Tuyết. Đó là một bàn chữ nhật khá cũ kỹ, ở trên để một bàn bào nước đá, cả chục cái ly và 2 chai sirô. Chị liên tục bào đá, hứng vào một ly rồi ém chặt lại, sau đó xịt sirô vào, lật úp ly lại, lấy ra khối đá hình cái ly đượm màu sirô đỏ thắm, trao cho người mua, toàn là bọn trẻ lứa tuổi chúng tôi! Cứ thế chúng tôi mút! Mút liên tục (nếu không thì sirô theo đá tan ra thì uổng lắm).Tay nầy tê thì đổi qua tay kia, mút chừng nào khối đá còn một miếng nhỏ, chúng tôi bỏ tọt vào miệng nhai rào rạo! Món nầy gọi là “nước đá nhận”, xem ra rất thích hợp với chúng tôi, bởi vừa ăn, vừa chơi đùa được, lại tiện lợi là, sau khi ăn xong, hai môi đỏ đẹp như thoa son; hai tay sạch trơn, như vừa rửa vậy!

Không hiểu sao, cái món vừa ngon lành, vừa rẻ tiền, vừa tiện lợi như thế mà ngày thường các chị không bán, mà phải đợi đến gánh hát về?


Gánh hát đêm đầu, người xem đông. Vì diễn ở nhà lồng chợ, chợ làng tôi cũng như chợ huyện thời ấy chỉ là một dãy nhà nhiều căn liên tục, xung quanh không rào, không cửa (mới gọi là nhà lồng), nên gánh hát về phải lấy vải dày bao xung quanh, chỉ chừa một cái cửa để “bán vé”. Nói “bán vé” chứ vé viết gì đâu? Người bán “vé” luôn là bà bầu, tức là vợ của ông bầu gánh hát, kèm theo là con hay người trong đoàn mà bà tín cẩn. Cứ người lớn vô cửa thì 3 đồng, con nít 1 đồng. Những đêm cuối, thì người lớn 2 đồng, con nít vẫn giữ nguyên, bởi 1 đồng chỉ giá trị 2 gói xôi! Tuy vậy, bà bầu cũng “du di”, thấy đứa nào sạch sẽ... như tôi (!), thì bà cho 2 đứa 1 đồng! Bởi cái “du di” nầy mà xãy ra nhiều chuyện buồn cười:

- Sao 2 thằng đó 1 đồng mà tôi với con tôi tới 3 đồng?

- Thì…thì tại 2 đứa đó dễ thương.

- Vậy chớ con tôi dễ ghét lắm hả? Tui với nó 2 đồng rưỡi  thôi!

- Bà vô 4 người mà trả có 2 đồng rưỡi, chắc chết tôi quá! Dắt một đứa, cõng một đứa, bồng một đứa….

- Em bé không tính tiền mà!

- Thôi vô đi bà nội, rầu bà quá!

2 anh em thằng Xoài thằng Mận là chuyên gia coi cọp. Chúng đợi ở cửa, lợi dụng lúc đông người, xô đẩy nhau, chúng chen vào. 10 lần cũng lọt được 5,6, những lần còn lại bị... kéo lổ tay, đuổi ra.

Tôi vốn nhát gan, nên mua “vé” đàng hoàng. Thằng Tửng nói với tôi:

- Mầy mua “vé” được rồi đó!

- Đợi một hồi cho bớt chen lấn rồi hãy vô.

- Đồ ngu! Mầy vô sau, đứng sau người ta, có nước... hửi đít họ chớ làm sao mà coi?

Rồi kéo tôi ra sau hông nhà lồng, chỉ vào một chỗ; nói:

- Lát nữa mầy vô, mầy lại cây cột nầy nghen!

Tôi ầm ừ, vì không phải lần đầu tiên tôi a tòng với nó. Nó dặn lại:

- Nhớ à nghen!

Vào cửa, vừa tới cây cột nó chỉ thì ở ngoài nó đánh vào vải “bịch, bịch”, biết ám hiệu, tôi nhìn quanh rồi giở vải cho nó chui vào. Chiến thuật nầy hiệu quả hơn của Xoài, Mận nhiều, vì hầu hết nó vô trót lọt! Nếu xui rủi bị phát hiện thì nó cũng không bị kéo lỗ tai; mà là tôi! Tôi khoái nó ở chỗ, dù có trót lọt hay không, hôm sau nó cũng đãi tôi một chầu đá nhận!

“Rạp hát” không có ghế ngồi cho khán giả, muốn ngồi ghế thì tự đem ghế nhà vào, thường là mấy bà già, còn hầu hết thì ai vô trước, đứng trước, ai vô sau đứng sau. Còn vô sau mà muốn đứng trước thì cứ chen lấn! Mấy đêm đầu, người sát như nêm, mùi mồ hôi ngậy mũi, tiếng cãi cọ luôn xãy ra khi chờ đợi mở màn: 

- Mấy thằng quỷ nầy làm gì chạy tới chạy lui hoài vậy? Một người bịt mũi: 

- Ai bỏ “bom nguyên tử” vậy ta?

Mọi người vừa bụm miệng thì lại có tiếng: 

- Hùm... “trái” nầy còn ác liệt hơn nữa!

Ai cũng cười rung cả bụng. Một chị gái: 

- Lợi dụng hả?

- Chật phải cho người ta đụng chớ? Sợ thì ở nhà đi!

Quê tôi trước sau có 4 gánh hát (chuyện hi hữu tại một xã nghèo thưa thớt dân cư), mà bầu Bời, bầu Trình là kỳ cựu nhất. Đào kép trong đoàn đa phần cũng là con em trong làng. Dẫu sống đời lang bạc, nhưng họ cũng ít nhiều ưu ái với nơi cắt rún chôn nhau. Hậu trường các gánh khác chúng tôi dễ gì được vào xem. Với các gánh nầy, chúng tôi vào thoải mái, miễn đừng lớn tiếng, phá phách, với đừng... ăn ổi chín là được! Lần đầu tôi cầm trái ổi chín rục, thơm lừng, vừa cắn một miếng thì chị Ẩn, đào chánh giật lấy. Tôi ngơ ngác: 

- Ổi của em mà!

- Biết rồi! Trái nầy em cho chị.

- Bộ chị có bầu hả? Sáng mai em hái cho chị.

Chị vò đầu tôi: 

- Không phải, nhưng ăn trước bàn tổ không nên, ông bầu thấy ổng quánh bây giờ.

Chị lại cười: 

- Ví (với) một lát, mấy em không được ăn me trước mấy ông thổi kèn nghe không?

Tôi ngơ ngác dạ dạ cho qua. Sau nầy mới biết, không cho ăn ổi vì sợ... ông tổ thích mùi ổi chín mà bỏ đi (về nhà người ăn ổi); còn không cho ăn me trước mấy ông thổi kèn vì sợ mấy ổng... thèm chảy nước miếng mà thổi không được! Từ đó, tôi còn nghe người lớn nói như vầy: 

- Ăn cướp không bao giờ cướp đồ (tài sản) của gánh hát!

- Sao vậy?

- Vì họ cùng một ông tổ mà ra, hồi đó ông tổ gánh hát bỏ nghề rồi đi... ăn cướp (?) 

- Ối! Xa lơ xa lắc, giờ cướp đại, chết thằng tây nào? 

- Bậy! Nếu cướp của gánh hát thì bị quan bắt liền, hồi trước ổng thề như vậy.

- Ờ hén.

- Có ghe cướp, cướp nhằm ghe gánh hát mà không biết, chừng về thấy mấy cái rương toàn là râu ria, áo mão, hoảng hồn, đem trả không kịp!

Khán giả đa số là bà già, ông già, các lớp đàn anh đàn chị chúng tôi, tức khoảng 17,18 tuổi, tuổi sắp có chồng, có vợ! Thời đó, nam 18, nữ 16 có chồng có vợ là chuyện thường tình. Lớp trên 20, con cái đùm đề, ít ai đi coi. Tuổi trung niên còn ít nữa, không hiểu vì sao!

Có một khán giả rất đặc biệt là thằng Hợp (sau nầy là kép cải lương của anh sáu Triều), nó ngồi một chỗ cũng rất đặc biệt: Dưới “bàn vua”. Đó là cái bàn chữ nhật như cái buya-rô của thầy giáo, không trải drap, phía sau là cái ghế đẩu, tượng trưng cho ngai vàng! Không hiểu sao, đêm nào cũng có cái bàn ấy đặt sát tấm màn phong cảnh tận cuối sân khấu, dù đêm đó không có vai vua cũng vậy!

Hợp ngồi xếp bằng dưới cái... “long bàn” ấy. Áo luôn phanh ngực, lâu lâu quẹt mũi,nhìn xuống coi.. khán giả, bởi mặt bàn che khuất tầm nhìn, làm sao coi đào kép?

Có gánh hát nào lại cho khán giả ngồi chỗ đó, ngoài gánh bầu Bời, bầu Trình? Ban đầu mở màn thấy nó ngồi, ai cũng cười dễ dãi, sau thành quen, xem như đó là ghế danh dự dành cho nó vậy!

Có lần vị vua nào đó lâm triều, vừa ngồi xuống ngai (ghế đẩu), vua duỗi chân ra, đạp nhằm nó, vua “ý” một tiếng, làm “bá quan văn võ” (thường có 4 người - 2 văn 2 võ) cũng giật mình. Khán giả thì cười rần. Rồi đâu cũng vào đấy, vua làm việc vua, nó ngồi tiếp!

Lại lần khác, vua vỗ bàn quát: “Giáp sĩ đâu?”, cùng lúc ngoài rạp có tiếng tía nó gọi: “Hợp ơi, về biểu!”, nó lật đật “dạ” một tiếng thật lớn còn hơn cả tập thể gánh hát “dạ” trong hậu trường, rồi vội vàng đứng dậy, đội luôn cả “long bàn” trên đầu. Vua quan ngơ ngác, còn khán giả thì cười vỡ bụng.

Thế mà hôm sau, nó cũng không vắng mặt ở chỗ ngồi danh dự đó!

Cũng nên nói thêm, gánh hát không có máy đèn. Ánh sáng là chiếc đèn măng sông duy nhất được treo giữa sân khấu và hàng ghế đầu tiên của khán giả. Nói “hàng ghế” cũng đúng, vì dường như đêm nào cũng có 1,2 hàng ghế thượng hạng dành cho các cụ, dù ghế nầy do các cụ mang tới. Đó hàng ghế bất khả xâm phạm trong một điều luật bất thành văn: Các anh chị và lũ chúng tôi ở phía dưới, cãi cọ, chen lấn làm gì làm, tuyệt nhiên không ai dám lướt qua các hàng ghế trưởng bối đó. Các cụ dù vô sau, chỉ cần đưa ghế lên (cho dễ đi), là có hàng loạt tiếng nói:

-Tránh ra cho bác Bảy (ông Ba,bà Hai...)đi cà tụi bây ơi! - Cái thằng nầy lì quá, nói nãy giờ mà cứ giỡn hoài!

Đó không phải là văn hóa kính lão, là điều đáng tự hào của quê hương tôi đó sao?

Về tuồng tích thì thường là những trích đoạn của các truyện Tàu mà cô Năm tôi thường đọc cho các người lớn trong làng nghe trong các buổi đám cưới, đám giỗ, hay những lúc nông nhàn, như “Phụng Nghi Đình”, “Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê”,“Tôn Tẩn hạ San”, “Triệu Tử Long đoạt ấu chúa”, “Chiêu Quân cống Hồ”... Thật tình, giờ tôi nhớ được nội dung những chuyện ấy là nhờ nghe cô Năm đọc, còn coi hát bội, tôi không nhớ gì hết ngoài mấy tiếng “tróc mã đề thương, ứ ư,ứ ư...” bởi hát bội thường “hát” chữ nho, hiểu đâu mà nhớ?!

Vài năm sau (khoảng năm 1959), các gánh hát bội của bầu Trình, bầu Bời dần dà ế khách, bị lép vế bởi các đoàn cải lương ở xa đến như Điền Viên, Kiếp Bướm, Ánh Sáng. Gánh bầu Trình phải diễn luôn cả suất ban ngày mà hầu như không đủ sống, bởi khán giả toàn là lũ nhí chúng tôi, mà tụ lại không bằng một gánh Sơn Đông mãi võ! Suất đêm là chính, lại bị “sập giàn” hoài!(*), bởi cũng chỉ có đám chúng tôi vào coi, chỉ là ham vui, hơn là ham coi hát!

Cửa vé vắng tanh, thằng Mận, thằng Xoài không còn cơ hội “thừa nước đục thả câu”, còn tôi cũng không dám giở màn cho thằng Tửng chui vào. Thằng Hợp cũng tự động rời khỏi đít “long bàn”. Các “cửa hàng” mía, đậu phọng đã dẹp tiệm, chỉ còn lại “cửa hàng” nước đá của chị Tuyết. Chị bào nước đá thư thả hơn, gọi tụi tôi là “cưng” chứ không là “tụi bây” như trước, và ly nước đá cũng cao hơn, sirô nhiều hơn!

Ban ngày tôi thường lân la vào hậu trường chơi, chị Ẩn nằm một mình trên võng, thấy tôi chị cười, khoe hai hàm răng đều đặn, không phấn son mà tôi thấy chị đẹp lắm, song trông chị buồn còn hơn khi chị đóng vai Chiêu Quân lúc rời xa đất Hán!

- Ủa? Sao có một mình chị ở đây vậy? Mấy anh đâu hết rồi?

Mắt “Chiêu Quân” nhòa lệ:

- Mấy ảnh đi bắt cá hết rồi, chị ở nhà nấu cơm.

- Sao hồi sáng không mua, bắt làm chi cho mệt?

Chị rời võng, đến thêm củi cho nồi cơm tổ bố. Có lẽ khói cay, làm mắt chị ươn ướt, đỏ hoe:

- Hát ế quá đâu có tiền mua cá, em!

Hai giọt nước mắt chị rơi xuống, tôi chạnh lòng, vừa thương chị, vừa ân hận về việc đã bao lần a tòng với thằng Tửng giở vải để cho nó vào coi cọp. Chị lau nước mắt cười thật buồn, hỏi tôi:

- ... Ổi nhà em có trái nhiều không?

- Có, có nhiều lắm. Sao chị bảo không nên ăn ổi chín chỗ này?

Chị vẫn cười buồn:

- ... Chị muốn ăn ổi chua.

- Chị có bầu hả? Sao bụng chị nhỏ xíu vậy?

Chị hơi vui vì lời trẻ con của tôi; không đáp, chỉ gật nhẹ. Tôi nhanh nhẩu:

- Vậy chị chờ em chút nghe.

Rồi chạy vụt ra réo to:

- Tửng ơi Tửng! Tửng ơi Tửng! Về nhà tao chơi.

Chiều hôm ấy ông bầu đến từ giã bà con ở dãy ngã tư. Ông buồn hơn mọi ngày. Khi đến nhà thầy Tư (tiệm thuốc bắc) thì bà con cũng kéo đến. Chú Chín chệch Xồi:

- Tui tặng ông bầu 2 ký lường (đường) táng uống lước (nươc). Chừng nào lảnh (rảnh) dìa (về) hát cho dui (vui).

Chú Chín chệch Xồi sống ở làng đã lâu đời, có vợ Việt, ăn mắm sống nên không “nị, ngộ” như các chú Tàu ở huyện.

Một lát chú Hai Cộc xách một xô cá từ mé triền lên:

- Mới tát đìa! Biếu anh Ba (ông bầu thứ ba) và anh em ăn lấy thảo.

Thằng Hợp vừa hít mũi vừa bưng một đĩa lớn bánh cam bánh cồng đầy ắp (chắc bán ế) lại, thưa:

- Má con nói biếu ông bầu ăn uống nước.

Thiếm tư quay quanh rồi nói:

- Ở đây cũng có bánh trái rồi... Hay là đứa nào mang qua nhà lồng cho mấy em ở bển. Đem cá của anh hai cho mấy em làm luôn thể, tối rồi.

Thầy Tư ngập ngừng nói với ông bầu:

- Hổm rày chắc vất vả lắm hả anh Ba?

- Thì anh thấy đó, cứ “sập giàn” hoài!

Chú Chệch Xồi:

- Hay là ông bầu dìa mua bán dí (với) tui, kiếm ăn lược lám ló!(được lắm đó)

Mọi người ái ngại cho câu nói thiệt lòng của chú Chín. Nhưng ông bầu chỉ thở dài:

- Làm như cái “nghiệp” anh Chín ơi! Khi ế anh em cứ than thở đòi về làm ruộng, nhưng khi được bà con ái mộ thì quên hết! “Cái nghiệp” khó dứt lắm anh ơi. Như con tằm ăn dâu phải nhả tơ đền nợ dâu vậy.

Sáng hôm sau khi tôi định xách thêm bọc ổi chua và gói muối ớt cho chị Ẩn thì thấy thằng Tửng bọc một áo xoài đứng ở trước cửa. Tôi trố mắt hỏi nó:

- Mày ăn cắp hả?

- Tao xin đàng hoàng. Tao nói xin cho chị Ẩn, thiếm Bảy bảo hái cho khá khá. Ăn cắp gì mà nhiều dữ vậy?

Khi chúng tôi đến, mọi người đang ăn cơm. Chị nắm tay chúng tôi, nghẹn ngào:

- Cám ơn 2 em nghen!

Ăn cơm xong mọi người lỉnh kỉnh gánh gồng xuống ghe. Tôi và Tửng đứng trên bến. Chị vò đầu chúng tôi rồi xuống sau cùng:

- Mấy em ở lại rán học giỏi nghe. Lần sau chị về chị bao mấy em coi hát khỏi mua vé.

Thằng Tửng coi bộ sượng sùng vì lời chị. Tôi nói:

- Chừng nào chị về nhớ ẵm em bé về chơi nghen.

Ghe rời bến, chị yếu ớt vẫy tay. Ghe đi xa, chúng tôi nhìn đến khuất bóng mới thôi. Tôi ngó qua Tửng, nó ngượng ngùng quẹt nước mắt. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc. Và lần cuối cùng tôi gặp chị Ẩn.

   

Kha Tiệm Ly



"ĐỨA CON VÔ TÂM"

- Ba gọi con có gì không?
Cô con gái độ tuổi đôi mươi, không buồn nhìn màn hình điện thoại, giọng gắt gỏng.
- Con ăn gì chưa? Nay có tăng ca không?
Trên màn hình điện thoại hiện ra gương mặt người đàn ông trung niên rúm ró nỗi buồn.
- Con đang bận lắm, nói chuyện sau nha!
Không đợi cha trả lời, cô gái đã cúp ngang điện thoại. Ở công ty, vài người xầm xì, mỗi khi nghe cô trò chuyện với cha ruột của mình. Họ không ngờ, trông vẻ ngoài cô ngoan ngoãn vậy mà nói chuyện với cha lại cộc lốc, hỗn hào.
Ai biết được quá khứ tuổi thơ, cô đã từng có những ngày mong ngóng, trông chờ cha trở về nhà trong nỗi tuyệt vọng.
Dù sau khi cha mẹ ly hôn, cô được gửi về ông bà nội. Nhưng cha cô bận bịu với công việc, với gia đình riêng của ông nên suốt tuổi thơ, cô không mấy khi gặp cha. Lâu dần quen với điều ấy, cô cũng đã thôi khóc thầm mỗi đêm.
Nhưng cô luôn nhớ về những chiều 30 Tết, cách đây nhiều năm, có một đứa trẻ thơ thẩn ra trước ngõ, ngóng đợi cha về. Con bé luôn tưởng tượng, cha sẽ mang theo thật nhiều bánh kẹo và những bộ quần áo mới.
Nhưng lần nào, cô bé ấy cũng nhận về sự thất vọng não nề, khi cha luôn chở theo mẹ kế cùng đứa con riêng của ông. Những khi ấy, con bé chỉ biết chạy vội ra sau nhà, khóc thút thít.
Để những ngày sau đó, cha luôn chở dì và em đi chúc Tết họ hàng. Còn nó luôn bị bỏ lại ở nhà với ông bà nội. Có lần, nó buột miệng đòi đi theo. Nhưng cha luôn bảo: “Xe chật lắm, không đủ chỗ…con ơi!”. Lúc ấy, nó cảm tưởng như trong tim cha cũng chật lắm, không có chỗ cho nó!
Nó đã quen với năm tháng đằng đẵng nỗi nhớ mà không có cha bên cạnh.
Bây giờ thì con bé ấy đã không cần cha nữa. Nó đã lớn và tự lo cuộc sống của riêng mình. Nó đã thôi khao khát những cuộc điện thoại, những lần thăm hỏi, gặp gỡ của cha.
Có thể trong thâm tâm, cha sẽ trách hờn, sẽ giận cô – một người con lạnh lùng, vô tâm. Nhưng cha không bao giờ biết rằng, có những ngày cô chỉ ước một điều giản đơn: đó là được một lần ngồi sau xe để cha chở đến trường!

Nguyễn Nga
Trích từ tập truyện ngắn chưa xuất bản.


TUỔI GIÀ Ở VỚI CON

Bạn tôi nghỉ hưu rồi sang Mỹ sum họp với con cháu. Tôi khuyên: bằng mọi giá không bán căn nhà ngoại ô với vườn rau ao cá, phòng khi nhớ quê có chỗ mà về.
Y như rằng, vài tháng sau anh quay về Việt Nam, may quá vẫn còn nhà để ở. Hỏi anh cuộc sống bên đó sao, anh bảo chúng giàu có, anh có phòng riêng, thúc ăn đầy đủ lạnh, cuối tuần đi pic nic cùng con cháu, khí hậu lại mát mẻ, môi trường sạch sẽ trong lành. Mỗi tội không có bạn nhậu và bất đồng ngôn ngữ.
Anh rủ tôi đi khắp Nam kỳ lục tỉnh, ở đâu anh cũng có bạn. Về An Giang ghé chợ mua vài con cá cóc, đặc sản miền Tây, đem về kho nước dừa. Ghé cù lao An Bình ( Vĩnh Long) bắt ít gà vườn, loại chỉ ăn giun dế trong tự nhiên, hấp lên, thịt mềm ngọt. Về tới Mỹ tho, qua cầu Rạch Miễu tới bến Tre, ghé thăm ông bạn chủ vườn dừa mấy chục mẫu, làm món tôm càng xanh nướng muối ớt. Tôm nuôi tự nhiên ngay dòng kinh trong vườn nhà, ăn vừa thơm vừa dòn. Cả món đuông dừa chiên béo ngậy, thêm can rượu Gò Đen (Long an) là nhậu vô hết biết .
Anh bảo: ông đi cùng tôi cả tháng cũng chưa hết chỗ bạn bè. Người lục tỉnh mến khách và thiệt tình, chỉ sợ không có sức mà nhậu.
Anh kể: Nhà của con tớ bên ấy rộng và tiện nghi. Ban ngày con cháu đi làm, đi học hết trơn. Chỉ mỗi thân già với bốn bức tường. Nhớ quê mà cả đêm không ngủ. Nhớ cả con thạch sùng trên trần nhà, nhớ tiếng rao bánh giò, tiếng gõ của xe hủ tiếu, nhớ bạn bè quanh bàn cờ tướng đặt dưới rặng trâm bầu…
Lại có ông bạn ngoài Bắc vào Sài Gòn định ở với con. Sáng nào nó cũng mua cho ông tô bún giò heo to tướng. Ăn uống xong lại có li cà phê sữa thơm ngào ngạt. Trái cây từ miền Tây và miền Đông đầy một tủ, khát nước thì có sữa tươi, Cocaca, Pepsi. Hai đứa cháu nội đi học trường quốc tế, tối về, lại chúi đầu vào học tiếp. Vợ chồng con ông đều là giám đốc doanh nghiệp đi sớm về muộn, rất ít khi bố con ngồi tâm sự
Ông nhớ bạn già trong xóm, nhớ chén trà Bắc và cái điếu cày, ông nhớ mảnh vườn và ngôi nhà thờ tổ, nhớ rất nhiều thứ, đêm nào cũng mất ngủ.
Ở đây, đường phố đông nghẹt, láng giềng nhìn thấy nhau không chào hỏi, nhịp sống hối hả, ai cũng vội vàng như bị ma đuổi…
Cuối cùng sau hai tháng ông xách giỏ quay về Bắc, sống một mình
P/S : Người già ai cũng thương nhớ con cháu nhưng sống với chúng không hề dễ dàng. Tách người già khỏi môi trường sống quen thuộc là một sai lầm.

Pham Kieu Hung



Thứ Sáu, 24 tháng 11, 2023

Chuyện Tình Buồn

 Năm năm rồi không gặp!… 


“Chuyện Tình Buồn” có thể được xem là một trong những bản nhạc tình hay và cực kỳ lãng mạn của nền âm nhạc miền Nam Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh ác liệt.Câu chuyện trong bài thơ hay bài hát đều kể về một thanh niên có gia đình theo đạo Phật, đem lòng yêu một cô gái rất đẹp theo đạo Công giáo. Hồi đó, những câu chuyện như thế này là không hề thiếu, và chắc chắn là luôn gặp phải trắc trở vì bị cả hai gia đình, thậm chí cả dòng họ ngăn cấm tới cùng!Chiến cuộc bùng nổ khiến chàng trai đành xếp bút nghiên ra chiến trường, còn nàng ở nhà, và lên… xe hoa với người khác. Câu chuyện tình éo le ấy tưởng như vậy là đã đau khổ quá rồi, có ai ngờ đâu khi chàng trai trở lại, thì “năm năm rồi trở lại, một màu tang ngút trời, thương người em năm cũ, đêm goá phụ bên song.” Vì sao? Thì ra chồng của nàng, một sĩ quan quân y và cũng là một người bạn của chàng trai đó, đã tử nạn trong một phi vụ tản thương bằng trực thăng ở chiến trường Pleiku năm 1972!


Bài thơ “Chuyện Tình Buồn” ra đời ngay sau câu chuyện đau buồn đó và nhạc sĩ Phạm Duy đã giúp cho bài thơ này tới với bao thế hệ người nghe trong nửa thế kỷ qua. Chính tình cảm chân thật và xúc động của câu chuyện tình đã khiến cho cả lời thơ và bản nhạc đều đi sâu vào lòng người. Nhớ lại, hầu như những người yêu nhau trong thời buổi chinh chiến ấy đều dường như tìm thấy hình ảnh của chính mình trong bài thơ. Lứa thanh niên ở nông thôn hay đô thị, ngồi trên giảng đường hay mưu sinh ngoài đường phố, trong đó nhiều nhất có lẽ là những chàng trai lính chiến, đều có thể hát ít nhất vài câu của bản nhạc “Chuyện Tình Buồn” này, và không thiếu người xem như chính câu chuyện tình éo le đó là của chính mình vậy!“Chuyện Tình Buồn” từ khi xuất hiện và đến tận bây giờ, hơn 50 năm đã qua, luôn được xem là một nhạc khúc không chỉ buồn, mà còn quá buồn cho một chuyện tình dang dở. Cung nhạc luôn vấn vương và da diết, lời thơ đượm vẻ u buồn mà nhuốm màu thương đau. Như chính tựa đề, bài hát là một câu chuyện tình yêu đượm buồn của thời tuổi trẻ nhưng lại mang nhớ thương day dứt mãi hoài, và có gì đau thương hơn khi người mà ta yêu thương nhất năm xưa, nay đã là góa phụ bồng con ngồi bên song cửa mà buồn…THI SĨ PHẠM VĂN BÌNH Phạm Văn Bình là người Huế, ông là tác giả của bài thơ nói về tình yêu dang dở của chính mình. Thi sĩ sinh năm 1940 ở Đông Hà (Quảng Trị) nhưng quê gốc ở Bát Sơn, Lương Điền, Thừa Thiên, nay là xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế.Sau khi hoàn tất bậc trung học và có bằng tú tài II, từ năm 1963, Phạm Văn Bình dạy môn Việt văn và Sử Địa tại Trường Trung học Bán công Đông Hà. Chỉ có ba năm được đứng trên bục giảng, năm 1966, ông phải gia nhập quân ngũ để thi hành lệnh động viên.


Nhà thơ Phạm Văn Bình

Sau thời gian thụ huấn quân trường ở Trường sĩ quan Thủ Đức (khóa 24/TB), Phạm Văn Bình được điều về một sư đoàn Thủy quân Lục chiến, và có thời gian làm phóng viên chiến trường. Vô Sài Gòn, khi ấy ông mới quen biết thêm với giới văn nghệ và có thơ đăng trên các tạp chí. Và như một định mệnh, năm 1972, nhạc sĩ Phạm Duy, người được mệnh danh là “nhà ảo thuật phổ thơ”, đã chọn phổ nhạc một bài thơ mà sau đó trở thành bài hát bất tử. Đó là “Chuyện Tình Buồn”!

Thời trai trẻ, Phạm Văn Bình từng theo học các trường Thánh Tâm và Nguyễn Hoàng ở Quảng Trị, Quốc Học và Đại học Văn Khoa ở Huế và có nhiều thơ được đăng trên các tạp chí thời ấy như Khởi Hành, Văn, Bách Khoa, Ngàn Khơi, Tuổi Ngọc, Tiền Tuyến và Tiền Phong.Ông có tác phẩm “Lối Xưa Thiên Đường” (tuyển tập truyện ngắn do Tuổi Ngọc xuất bản), “Dòng Sông Trước Mặt” (tuyển tập truyện ngắn viết chung với Song Linh, Trần Văn Phú, Huỳnh Ngọc Toàn), “Chiến Ca Mùa Hè” (tuyển tập thơ viết chung với Phạm Lê Phan).Đến tận giờ cũng không có nhiều người biết câu chuyện tình của thi sĩ Phạm Văn Bình và người phụ nữ trong ca khúc “Chuyện Tình Buồn” này chớm nở từ lúc nào, nhưng lúc họ chia tay, có lẽ vào quãng giữa thập kỷ 1960._
    Năm năm rồi không gặp/Từ khi em lấy chồng / Anh dặm trường mê mải/ Ðời chia như nhánh sông / Phong thư tình ngây dại / Và môi vai rất mềm /Những hẹn hò cuống quýt /Trên lối xưa thiên đàng /Ngày nhà em pháo nổ /Anh cuộn mình trong chăn / Như con sâu làm tổ . Trong trái vải cô đơn . Ngày nhà em pháo nổ . Tâm hồn anh nhuốm máu . Ôi nhát chém hư vô . Ôi nhát chém hư vô…Năm năm rồi đi biệt. Ðường xưa chưa lối về . Trong đìu hiu gió cuốn . Nằm chơ vơ gác chuông . Năm năm rồi cách biệt . Cỏ hoang sân giáo đường . Chúa buồn trên thánh giá . Mắt nhạt nhoà mưa qua. Ngồi bâng khuâng nhớ biển . Bên bãi đời quạnh hiu . Anh như hồn thủy thủ . Cùng năm tháng phiêu du . Anh một đời rong ruổi . Em tay bế tay bồng . Chiều hắt hiu xóm đạo Hồi chuông giáo đường vang. Năm năm rồi không gặp . Từ khi em lấy chồng . Bao kỷ niệm chôn kín . Dường như đã lắng quên . Năm năm rồi trở lại . Một mầu tang ngút trời . Thương người em năm cũ . Thương góa phụ bên song… Sau khi mối tình này không thành, Phạm Văn Bình lập gia đình với một cô học trò trẻ đẹp của ông tại trường Trung học Bán công Đông Hà và có ba người con. Sau năm 1975, người vợ đem ba con qua Mỹ trước, còn ông qua sau. Vậy người phụ nữ trong bài thơ Chuyện Tình Buồn là ai? NGƯỜI ĐẸP THỊ XÃ ĐÔNG HÀ . Theo công bố của ký giả Lê Đình Bì, đó là cô Ana Nguyễn Thị Tuý, người đẹp nổi tiếng nhất nhì một thuở ở thị xã Đông Hà, Quảng Trị. Vì sao Đông Hà chỉ là một thị trấn nhỏ thuộc tỉnh Quảng Trị, nằm ở miền địa đầu giới tuyến đất đai khô cằn nhiều gió Lào cát trắng và khói lửa chiến tranh đội xuống liên miên mà lại sản sinh ra nhiều người đẹp như vậy?


Cũng chính ký giả Lê Đình Bì đưa ra một giả thuyết và được xem là thuyết phục nhất: Vào thời điểm vua Hàm Nghi bỏ kinh thành Huế chạy ra vùng Tân Sở phát hịch Cần Vương và lập chiến khu chống lại giặc Pháp, đã có nhiều cung phi mỹ nữ cũng chạy ra đây theo nhà vua. Trong số ấy, có lẽ có một số người đã vì một lý do nào đó mà “rơi rớt” lại, hoặc cũng có thể sau này các nàng ấy được trở về với đời sống bình thường, nên đã lập gia đình với cư dân địa phương, thành ra, những cô gái ở vùng Đông Hà, Cam Lộ… có nhiều cô phải nói là có nhan sắc đẹp mê hồn. Phải chăng là họ đã thừa hưởng được cái “gen sắc đẹp” của những người phụ nữ đã từng được tuyển chọn rất gắt gao để tiến cung ngày ấy?Trong thực tế, nhà của Phạm Văn Bình và nhà cô Nguyễn Thị Túy cùng ở trong một con hẻm ở đường Phan Bội Châu, thị trấn Đông Hà. Cô Túy có một người anh trai là bạn thân cùng trang lứa với Phạm Văn Bình. Qua lại giao du, thấy người phụ nữ này có nhan sắc, có học vấn (cô Túy không học ở Đông Hà mà học ở Trung học Bán công Huế), lại biết trang điểm, ăn mặc bắt mắt, nên Phạm Văn Bình thấy quá ưng ý mà đem lòng yêu đương. Hai người yêu nhau, nhiều người người ở Đông Hà ngày ấy thấy mối tình của họ rất chi là da diết, quấn quýt không rời.Nhưng cách trở của tôn giáo hay chính thời cuộc đã khiến họ phải xa nhau. Cô Túy đi lấy chồng (như đã nói ở trên) và có tới bốn người con, nên Phạm Văn Bình sau này gặp lại đã viết trong bài: “Anh một đời rong ruổi; em tay bế tay bồng” là vậy. Cô Túy giờ sống tại Hoa Kỳ. Và trùng hợp thay, thi sĩ Phạm Văn Bình cũng định cư ở đây, nhưng ông đã mất hồi năm 2018 rồi .

 Lê Hồng Minh


HÚ VÍA


ất thì không ai có thể giúp em, em không thể nào viết lại được như lúc đầu vì những cảm xúc ấy đã qua đi. Anh không nhớ có những nửa đêm em mò dậy chỉ để ghi chép một câu thơ?

Anh Bông mỉa mai:

– Rồi hôm sau bà than thở mất ngủ, bài thơ đăng lên người ta khen xã giao được một câu còn mình thì chết sớm. Bà cả ngày ngồi ở nhà, lái xe chỉ quanh quẩn vài ba con đường trong thành phố, lỡ ra tới đường lớn là lạc lối về mà viết truyện làm thơ mãi tận chân mây cuối trời.

Rồi anh Bông ra ý kiến:

– Nhân dịp computer hư bà nghỉ viết luôn đi cho đỡ… cực khổ, đỡ mất ăn mất ngủ, mất cả thì giờ cả ngày ngồi “ôm” computer.

– Ngồi “ôm” computer là đam mê của em. Tuổi hưu tuổi già mỗi người có một thú đam mê, anh có muốn em mê casino không? Mê shopping không? Em mê computer là thú vui không tốn đồng nào.

Cái computer để bàn chị Bông rất yêu quý, nó không những là cầu nối cho chị Bông với bạn bè và thế giới xung quanh mà còn là người bạn tri âm tri kỷ cùng thức khuya dậy muộn, cùng mưa nắng bốn mùa với chị Bông những khi chị ngồi làm bài thơ hay viết câu chuyện đời. Bao nhiêu tâm tình chị Bông đã gởi gắm vào nó, lần này rất nhiều bài chị chưa kịp save vào “My passport” thì nó bỗng trở chứng hư hỏng. Chị Bông bèn dùng cái laptop để vào mail hỏi bạn bè gần xa về cái computer đang bị hư chỉ với một chủ đích là liệu các bài vở trong hardware có bị mất không? Có người trả lời làm chị Bông an tâm là khó bị mất bài lắm có người trả lời lửng lơ còn kèm theo “trách mắng” nếu máy bị virus là mất bài . Sao bài vở viết xong không save ngay để bây giờ lo cuống cuồng lên?!

Chị Bông vào hỏi ông “Gu Gồ” cũng không có câu trả lời rõ ràng vì không biết computer của chị bị hư hỏng thế nào..

Chị Bông lo xa hình như máy mình bị virus rồi, trước đó trong inbox của chị Bông thỉnh thoảng có xuất hiện vài email lạ, chữ ngoằn ngoèo Ả Rập, chị Bông đã cẩn thận delete hết rồi mà, hay là chị… lỡ tay bấm vào để virus len lỏi vào máy và nay nó tung hoành? Phải chi chị Bông bị virus tấn công, bị ốm đau thay cho computer chị còn đỡ lo lắng hơn.

Một ngày trôi qua là một ngày buồn lo, ăn không ngon ngủ không yên. Hôm sau chị Bông mang computer đến một tiệm sửa gần nhà nhất. Khệ nệ ôm cái computer vào tiệm, cái máy nặng và lòng chị Bông cũng nặng trĩu, ông chủ đang ngồi thảnh thơi vây quanh ông là hàng hàng lớp lớp computer cũ đang trưng bày, tiệm vừa sửa chữa vừa bán các phụ tùng và computer cũ. Chị Bông trình bày “căn bệnh” xong và hỏi:

– Ông xem giùm tôi có bị mất memories không.

Khách hàng thì lo lắng mà ông chủ tiệm thì tỉnh bơ:

– OK. Mai tôi trả lời.

Chị Bông năn nỉ:

– Ông xem xét ngay bây giờ và cho tôi biết đi…

– Sorry tôi đang bận.

Chị Bông cố nén bực mình nhìn quanh, tiệm vắng tanh như chùa bà Đanh, ông chủ cũng là người sửa computer đang ngồi ế thiu ế chảy mà cũng chảnh chọe.

Chị Bông đành ghi số điện thoại để mai ông chủ sẽ gọi lại khi sửa máy xong và ra về. Thế là thêm một ngày nữa chị Bông sống trong rầu rĩ bất an. Chị nghĩ đến những trang bài vở và thèm khát mơ ước được trông thấy những bài viết ấy vô cùng, y như người mẹ lo sợ đàn con yêu thất lạc và mong gặp lại từng đứa con của mình.

Trưa hôm sau ông chủ tiệm  gởi tin nhắn đã sửa xong đến lấy máy về. Chị Bông mừng rỡ vội lái xe đến tiệm.

Vào trong tiệm vẫn vắng tanh như ngày hôm qua, chị Bông vừa thương hại vừa cay cú nghĩ thầm lâu lâu mới vớ được một khách là mình chắc ông chủ sẽ tìm cách chém giá chặt đẹp lắm đây.

Ông chủ mở máy cho chị Bông xem thử, đầu tiên là chị Bông kiểm tra lại bài vở vẫn còn y nguyên rồi tới mọi thứ khác vẫn hoạt động như trước, Chị Bông vỡ òa niềm sung sướng, bây giờ chị Bông mới thoải mái mỉm nụ cười tươi rói với ông chủ:

– Cám ơn ông. Bao nhiêu ạ?

– 60 đồng.

Chị Bông giật mình, thật sự ngạc nhiên vì giá quá rẻ, chị nghĩ computer hoạt động lại bình thường và bài vở không bị mất, ông ấy đòi tiền công bạc trăm chị cũng vui vẻ trả ngay. Ông chủ người Mỹ này trung thực, không biết “trông mặt đặt tên”, không biết nhìn tâm lý khách hàng mà “chạc” tiền.

Mở bóp lấy tiền trả xong chị Bông không nén nổi tò mò, hỏi thăm ông chủ tiệm:

– Hôm nay chắc là ông rảnh hơn hôm qua nhỉ? Lúc nào tôi đến cũng chẳng thấy ai.

– Ngày nào tôi cũng bận rộn sửa chữa.

Thấy chị Bông ngơ ngác ông chỉ từng dãy computer và nói:

– 3 cái computer này chiều nay tôi sẽ giao, mấy cái kia đang chờ sửa, còn dãy computer kia là hàng cũ đã tân trang tốt để bán.

Vừa lúc ấy điện thoại của tiệm reo vang, ông chủ ra nghe là một khách hàng nào đó như để chứng minh cho lời kể của ông chủ. Thì ra tiệm đông khách và ông chủ luôn bận rộn chứ không ế như chị Bông đã đánh giá. Chị Bông ân hận đã nghĩ xấu cho người ta, bèn nói một câu lấy lòng:

– Lần sau computer của tôi  hư nữa, sẽ đem tới tiệm của ông.

Nói xong chị Bông càng…ân hận, tự dưng nói điều xui xẻo cho mình. Chị bèn… sửa lại:

– Không, không, từ giờ trở đi computer của thân nhân hay bạn bè tôi có bị hư hỏng là tôi nhất định sẽ chỉ họ tới sửa tiệm của ông.

Ông chủ hiểu ý chị Bông, cười cười:

– Tôi cũng không mong computer của chị hư nữa đâu. Chúc chị xài nó bền lâu.

Chị Bông ôm máy computer ra về, lần này thấy lòng nhẹ tênh và cái máy cũng nhẹ tênh. Thật hú vía.

Lát nữa về nhà trước hết chị Bông sẽ save ngay tất cả những bài vở từ lâu chưa save. Thế là yên tâm không sợ máy hư mất bài vở nữa và tiếp tục thú đam mê “ôm” computer mặc cho lời khuyên “vô duyên” của anh Bông.



Nguyễn Thị Thanh Dương - Dallas , TX , USA 



Lost Dog tranh Thomas Luong


KHUYỂN ĐẾ

Bên bếp đốt bằng củi gộc, lửa đã vạc. Ông chủ nhà cao gầy, dáng ốm yếu, với tay đặt lên lưng con chó đang ngồi, giọng trầm xuống:    

 - Đen! Tao già rồi. Không còn theo mày vào rừng được. Phí tài mày đi. Tao giao mày cho ông chủ mới. Ông ấy ngồi kia. Về với chủ mới, mày được rộng cẳng cùng đồng loại, không bị đói, bị bỏ vạ vật, bị cùm trói tù túng đâu. Nhớ chưa? Đen!     

 Rồi quay về phía người người khách ngồi đối diện qua đống than gộc lửa còn leo lét, ông nói giọng buồn hẳn:    

 - Thôi! Ông dẫn nó đi!     

 Người khách chậm chạp đứng dậy. Con chó chăm chăm nhìn ông già giờ đã im như pho tượng. Rên lên một tiếng khe khẽ, nó vọt ra cửa, chờ người khách, lặng lẽ đi theo.    

Người và chó luồn rừng lội suối, đói ăn khát uống, mấy ngày sau mới về đến nhà. Nhà ông ở một vại núi. Thấy ông về, hai con chó thau tháu xô ra, mừng quấn quýt. Con Đen đi sau, lạnh lùng tách ra. Ông chủ gọi:      

  - Đen! Lại đây!...Lao, Luốc...đây là anh mày. Còn Đen! Từ giờ mày dạy dỗ, chỉ huy chúng nó.      

 Ông tên là Tần. Ở bản Bắp La này từ nhỏ. Sau ngày vợ chết, ông lên núi, để lại cho bốn đứa con mỗi người một dinh cơ ba gian lợp vỏ ràng ràng đàng hoàng trong thị trấn. Ai cũng biết tiếng Tần săn. Ông săn bắn giỏi, có bầy chó nghe và hiểu ý người.     

 Chó nhà ông ba con. Ông chọn kỹ càng lắm. Nếu đúng chó quý, đắt mấy ông cũng tìm cách hỏi mua. Mấy năm trước, trong một trận quyết đấu với hổ mang hoa, con chó đầu đàn sơ suất bị rắn cắn. Nó chết, ông như người mất cánh tay. Hai con còn lại không kẻ hướng dẫn, sút kém hẳn. Ông vẫn đi săn nhưng bọn chó chỉ chạy nhảy lung tung, tha về rặt những kỳ nhông, rắn ráo, sóc nhãi, chồn hôi...Theo hỏi tìm kiếm nhiều nơi nhưng đến chỉ gặp chó xoàng, ông chán ngán, chả lẽ thôi nghề.     

 Nhà ông ở nơi hẻo lánh nhưng người ra vào không ít. Sinh viên lâm nghiệp thực tập, thợ đường dây, dân địa chất...đủ cả. Có người chỉ tạt qua một lần trong đời. Người lâu nhất tới nửa năm. Bù lại, lại có lớp mới. Nhiều hôm hàng chục người rải vải nhựa, mắc tăng võng, ngủ nhờ nhà ông. Nhà chật nhưng lòng ông không chật.      

Họ kể ông nghe. Ông kể họ nghe. Đêm dài ngắn cũng tùy nhưng chuyện về ông đi theo họ rất lâu, năm này sang năm khác.     

 Nghe ông ao ước tìm được chó quý, một anh thợ địa chất vỗ đùi đánh bốp:      

 - Bác Tần! Cháu biết! Con chó khôn cực kỳ, không tìm nổi con thứ hai. Nó nhanh như gió, khỏe như báo. Đâu như ở vùng Nha Trạo...       

- Từ đây lên, đi đường nào? Xa không?      

 - Tắt rừng! Năm sáu ngày bác ạ!     

 Anh công nhân nọ nói một lúc lâu về khả năng của con chó kỳ lạ rồi ngậm ngùi:       

- Kể để biết. Bác có đến cũng không mua nổi. Xin bác nhớ, đến vùng Nha Trạo, bác hỏi nhà có con chó khôn, tên Đen thì biết chứ chủ nhà cháu quên béng ngay từ khi chưa ra khỏi cửa. Không phải cháu vô tình mà vì con chó quá khôn.      

Hỏi thật kỹ càng, nửa tháng sau, ông Tần xách túi khoác bao ra đi. Hơn tuần nữa, ông về, tụ tập con cháu lại:      

- Phải nói là vua chó. Lông phía ngoài đen mượt, bụng trắng. bốn phía trong chân cũng trắng. Mõm khá dài. Hai bên má là hai vạch trắng kéo dài đều nhau từ hàm tới tai. Đầu mũi và chót đuôi màu lửa. Loài khuyển đế đấy. Ông chủ quá già ở với đứa cháu lên tám. Nguồn sống chính do chó kiếm từ rừng về. Ông đòi đổi trâu mộng với ngôi nhà gỗ năm gian lợp lá gồi. Còn chó có sang chủ mới cũng không được đổi tên.      

Ông ngừng lại chờ xem ý bốn thằng con và mấy đứa cháu lớn. Không gian lặng thinh. Họ đang chờ ý kiến ông. Ông thủng thẳng:      

 - Không đắt đâu! Phải trông thấy mới biết. Ta quý chó, cần chó, lại biết thương chúng nên ông mới đổi ý, dành của cho cháu. Một mình á! Không bao giờ ông ấy chịu rời vật báu ra đâu!      

Sau gần hai năm, nhờ sự góp công của bốn cặp vợ chồng và sáu đứa cháu, ông được toại nguyện. Con chó sang tay ông. Nó đã không làm xấu hổ nòi giống, không phụ công ông. Ngay sáng hôm sau, Đen tỏ rõ phẩm chất khác thường. Con Lao, con Luốc phục tùng nó hoàn toàn. Nhìn Đen, ông hài lòng lắm. Nó nằm sấp, mắt lim dim, đầu đặt lên hai chân trước nhìn con Lao, con Luốc tập bò. Phải lấy bụng và đùi mà trườn. Con nào nhổm nhổm tý chút, Đen lại gự một tiếng như người dọn giọng. Lúc ông đổ cơm cho chúng, Lao, Luốc chen nhau ăn. Đen đứng yên. Ông giằng bát ra, đưa sát mặt, nó cũng lặng thinh. Sau ông phải trộn cơm khác, chặt từng lóng xương cả chín cả tái ném cho. Nó xốc xốc. Khúc xương sau hai lần buông bắt bằng hàm chui tuột vào bụng nó. Từ bữa ấy, khi Đen ăn, Lao Luốc y một phép dù đói cũng không dám bén mảng.      

Cứ thế, Đen ở cùng ông Tần được gần chục năm. Nó thành chỗ dựa tin cậy, vững chắc cho ông và mấy con chó cùng nhà. Ông Tần cũng đỡ vất vả, không phải hao tâm tổn sức nhiều như trước. Mấy con chó tự đi săn. Ông chỉ làm kẻ hỗ trợ, khuân vác về, giải quyết hậu quả khi con mồi đã hết khả năng tự vệ. Nhiều hôm, chó săn được thú về gọi, sủa ầm ĩ, ông mới vác dao theo chúng vào rừng. Trước còn quanh bản Bắp La sau rồi khắp vùng núi cao bản xa đồn thổi ầm ầm. Nhà ông Tần có chó khôn. Tay Phàn chột từ Lục Thanh Hòa Bình nghe tiếng, cơm đùm cơm nắm lặn lội hơn năm trăm cây số đến xem, tấm tắc mãi. Nài mua không được, gã ở nhà ông, nửa đùa nửa thật giăng bẫy, đặt bả, thả rắn độc suốt tháng trời. Cuối cùng, gã xin phép ông ra về tay không trong tiếc nuối.     

 Gần chục năm ở với ông Tần, Đen đã làm cho ông sung túc, phát đạt. Chiến công của Đen nhiều lắm, kể không hết.     

 Hôm đó, trời bật nắng sau những trận mưa thối đất thối cát. Những con chó cuồng cẳng cũng rít lên mừng rỡ. Đen dẫn Lao, Luốc vào rừng. Ông Tần lúc đầu không để ý nhưng rồi đêm xuống không thấy chó. Ông ra đầu núi, ngóng vào khoảng vắng, cuối cùng phải ngủ trong thấp thỏm. Sáng hôm sau, ông vào rừng vừa đi vừa gọi. Qua ba ngọn núi, ông chợt thấy con Luốc quấn vào chân. Ông theo nó hơn nửa giờ gặp trên bãi trống, con Đen, con Lao xơ xác ngồi gườm gườm nhìn khỉ độc. Con khỉ độc máu me choe choét, lê lết nhưng sức vẫn chưa hết đang cố thủ, chống trả tuyệt vọng với mấy con chó dữ đã mệt lả. Ông Tần mừng lắm, không phải mừng vì có được thú đâu. Chuyện ấy thường rồi. Ông mừng vì con Đen khôn khéo, mưu mẹo lừa được khỉ độc - một loài khôn ngoan ranh mãnh, đầy kinh nghiệm kiếm ăn, chống đỡ, chiến đấu với kẻ thù – ra vùng bãi trống mới tấn công chứ trong rừng, cây cối nhằng nhịt đan xen đến cái lông khỉ, Đen cũng đừng hòng động tới được. Con khỉ ấy da nhăn nhúm lùng nhùng. Ông gánh xuống thị trấn, cân được năm mươi bảy cân, bán cho người ta nấu cao.     

 Một dạo đầu xuân. Sương ùa từ thung núi ra dày đặc. đất trời nhớp nháp nước, ông đang ở nhà. Con Luốc chạy bổ từ rừng về, giật kéo đi. Bên gốc cây to, đất bị quần nhừ. Con kỳ đà đã kiệt sức nhưng chưa chết. Phần đầu con Đen cắn lôi, phần đuôi con Lao giữ chặt. Hai con chó kéo kỳ đà về hai phía quanh gốc cây to. Kỳ đà nằm ngửa, phơi bụng sáng màu đất, nham nhở vết cắn cứa. Ông phải về phố, gọi mấy đứa con đi theo chó, khiêng kỳ đà về. Nhờ con kỳ đà ấy, mấy ông cháu bố con ăn cái tết linh đình kéo dài ngót tháng trời.     

 Một lần ông từ rừng về. Con Đen đang đi trước, “hức” nhẹ một tiếng. Lao luốc cũng im, cúi thấp lết đến gần Đen. Thoáng chốc, Đen vụt đi. Hai con còn lại rẽ sang hai ngả. Ông Tần biết có thú, không gọi, chỉ lần theo. Lũ chó mất hút trong rừng cây rậm rạp. Ông tựa gốc cây, giở thuốc ra hút rồi lơ mơ ngủ quên. Lâu lắm, ông tỉnh dậy. Nghe miên man tiếng gió chảy trên mặt lá, linh tính người thợ săn mách bảo phía ấy mơ hồ có tiếng động lạ. Ông dò dẫm cầm dao lần theo. Sườn núi bên kia, ba con chó đang giao tranh với con lợn độc. Con lợn xoay xở, hộc lên giận giữ nhưng không thoát khỏi vòng vây như kín như hở của ba con chó nòi. Ông thấy Đen thường đối mặt với lợn lòi, tung dứ cho lợn hồng hộc, dữ dằn hất lên. Mặt đất bị hai răng nanh cong như vành trăng khuyết và chân lợn, chân chó cào nát. Mỗi khi lợn hung hãn hất đầu lên, Đen đã chờ dịp cắm hai hàm răng cứng như vành đai thép vào yết hầu kẻ địch mà nhay nhay, xé hất ra trước khi lợn kịp chống đỡ.     

 Phân lợn, phân chó vãi lung tung. Mùi chiến trận nồng nặc. Biết gặp địch thủ dữ tợn, lợn quay sang nhằm vào con Lao, con Luốc tấn công, tìm hướng thoát thân. Đen xông lên, cắn dái, bắt lợn quay lại chiến đấu với mình. Hai con chó còn lại cũng không dám đánh mạnh, chủ yếu lừa cắn hai chân sau. Con lợn khỏe khủng khiếp nhưng không chống lại được, không tìm nổi đường chạy. Các con ông phải vất vả gần hai đêm ba ngày mới mang được về chợ thị trấn. Con lợn lòi, cân vội vã đã có một tạ hai. 

 Nghĩ về Đen, ông Tần vẫn âm thầm tiếc rừng này hết hổ báo. Con Đen không có đất dụng võ, hao phí tài năng, không khác nhà lực sĩ nổi danh đi làm nghề gõ trống. Chẳng gặp kỳ phùng địch thủ, danh tiếng không truyền được xa như ông vua giỏi võ công trị vì đất nước thanh bình, không ai màng tới chiến tranh. Con công đẹp lẫn trong đám gà trống xanh đỏ. Ông buồn một nỗi buồn dai dẳng âm ỉ, không phương cách chữa.     

 Mấy hôm nay, ông Tần ngủ không ngon giấc, hễ thấy động mạnh là bật dậy. Đã bốn đêm, Đen không về. Hai con Lao Luốc uể oải ngoài sân. Từ khi Đen đến nhà ông, bọn chó theo nhau không sủa. Như người kém cỏi hay khuếch khoác, to mồm, chó giỏi sủa là chó hỏng. Con nào bền lắm, sủa dai lắm cũng chỉ mươi, mười lăm phút là mỏi miệng, không dám há mõm. Lúc ấy, thấy người lạ, thấy động mạnh cũng tìm đường lủi. Người có mỗi miếng võ, xổ ra không thấy hiệu quả thì cao chạy xa bay là thượng sách. Con Đen về nhà gặp sự bất bình chỉ “hực” một tiếng gọn ghẽ. Lao Luốc học theo, không sủa nữa. Lần Đen bỏ nhà hai đêm. Con Lao, con Luốc cùng đi nhưng gặp mưa, tìm về nhà trước. Ông đã chuẩn bị theo dấu thì sáng hôm thứ ba, Đen về. Người nó nhàu nát, xây xước, ướt lướt thướt. Ăn vội vàng cho xong, nó ngoạm hờ ống chân ông ra hiệu. Ông biết có thú to rồi, giục con Lao xuống phố gọi người. Vài hôm sau, dân bản thấy bố con ông khiêng con nai to, hai chân bị dập. Ông Tần hiểu con Đen lùa nai vào sâu trong thung lũng, cắn gãy chân. Thú rừng có sức sống mãnh liệt, dù gãy, thậm chí cả hai chân, chúng cũng chạy thoát dù có mang di tật suốt đời. Có con dũng cảm, dùng răng cắn đứt phần xương thịt mình bị cắm giữ trong cạm bẫy, chạy thoát. Đen khôn hơn. Nó cắn vỡ hai gối chân nai cùng một phía. Nai không đi được nằm thở ở lòng thung. Đen mới trở về gọi ông.     

 Lần này, linh tính nhắc ông, Đen không về nữa. Ông phải theo tìm. Biết tìm đâu giữa rừng núi mênh mông?      

Thế rồi sau mấy đêm trằn trọc, ông quyết định rời Bắp La về Nha Trạo tìm Đen. Chuẩn bị đầy đủ thức ăn tiền bạc, mang theo hai con Lao Luốc, ông đi.       

Tới bản ông già, nhìn quang cảnh, ông biết chủ cũ của Đen vừa qua đời. Quay lại chợ, sắm sửa một ít đồ cũng lễ, ông tìm vào nhà.      

Đứa bé trước kia đã thành tay thanh niên vạm vỡ, tiếp đón ông tử tế dù chả nhớ gì chuyện xưa. Nghe ông kể về con chó, người thanh niên reo lên:       

- Trước hôm ông cháu đi, có con chó Đen già cào cửa, tìm đến chỗ ông cháu. Lúc ấy không nói được nhưng thấy nó, ông cháu rướn người, nhướng mắt lên. Ông cháu khóc. Con chó nằm phủ phục quanh đấy đến lúc ông cháu qua đời. Nó rền rĩ nhưng người ta sợ là chó dại, đuổi nó đi mấy hôm rồi.     

 Người thanh niên dẫn ông ra chỗ mộ ông già. Theo phong tục địa phương người chết chưa đủ trăm ngày, người nhà không được đến mộ. Anh chỉ đứng từ xa chờ ông. Ông Tần đến, chợt nhận thấy con Đen nằm úp cái mõm dài trên ngôi mộ ấy. Nó ngước nhìn ông bằng cặp mắt nhòa nước. Hình như nó không nhận ra ông. Hai con Lao Luốc xô lại gần Đen nhưng rồi cùng nằm toài, lùi dần ra. Phía trước Đen, nắm cơm quả trứng còn nguyên. Ông thận trọng đặt miếng thịt luộc lên đĩa, thắp hương vái ba vái. Con chó không nhúc nhích. Bất thần ông nhìn nó, vái một vái dài. Ngước lên, ông thấy Đen khẽ khàng chớp mắt. Giọt nước từ trong tràn ra, đọng giọt lớn ở bờ mi.

Đêm ấy, ngủ lại nhà người thanh niên, những kỷ niệm xa xưa hiện về rõ nét trong mắt ông Tần. Những buổi luyện chó, những con chó khôn, cách đặt tên...Muốn gọi cho vang cho xa, tên chó phải không dấu hoặc dấu sắc. Thức ăn không được cho hành ớt tỏi gừng và các loại rau thơm làm hỏng khứu giác chúng. Thưởng phạt phải công minh, không coi thường, không thiên vị mới mong chúng gắng sức. Phải đầy lòng thương yêu, tận tụy tận tâm săn sóc mới mong chúng giúp đỡ, làm việc cho mình. Luẩn quẩn thế nào rồi hình ảnh con Đen vẫn hiện lên rõ ràng, to lớn, choán đầy trong mắt ông.     

 Trước lúc ra về, ông Tần nắm lấy tay người thanh niên dặn dò:       

- Tôi nhờ anh, Đen sẽ đi thôi. Nhìn mũi nó khô, tôi biết. Nó tìm được chủ cũ sau mười năm trời ở cách hơn ba trăm cây số đường núi. Trên đời này không tìm được con chó khác đâu. Nó là loài khuyển đế mà nhà tôi mấy đời ao ước. Chỉ sớm mai, anh chỉ người ra đó mang xác nó về. Anh cầm số tiền này nhờ người đào hố chôn nó giúp tôi thật cẩn thận cho nó được mát mẻ. Đây là chút nghĩa tình của tôi với nó. Nó đã tìm về để ông cụ đi thanh thản. Giờ tôi phải đi để nó khỏi day dứt khi thấy tôi trong lúc nó lìa đời.      

Rồi ông cắm cúi bước. Con Lao con Luốc lặng lẽ theo sau./.


TRẦN TÂM