a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT MÙA GIÁNG SINH VÀ NĂM MỚI 2025 AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM MỚI 2025 VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2016

11 loại thực phẩm phát triển theo những cách hoàn toàn bất ngờ: hạt điều, ngô non, quế


Bạn có thường bất chợt tự hỏi thức ăn trên bàn thực ra đã lớn lên như thế nào, nó đến từ đâu, và nó được chế biến ra sao? Một số loại thực phẩm phổ biến nhất cũng là đáng chú ý nhất. Sô cô la, hạt điều, ngô hạt tiêu, bắp non, quế, wasabi (bột gia vị của Nhật bản), dứa, quả kiwi, hạt mè, nghệ tây, măng tây. Bạn có biết chúng phát triển thế nào không?

1. Hạt điều

(Cashew via Shutterstock)
(Hình ảnh “hạt điều” trên Shutterstock)
Tại sao hạt điều đắt tiền hơn những loại hạt khác mà bạn có thể mua? Đó là bởi vì hạt điều thực ra là hạt giống duy nhất của loại trái cây có kích thước như quả xoài được gọi là trái (quả) điều. Hạt giống này móc dính vào phần đáy của quả điều có hình trái tim ngược. Xử lý hạt điều rất phức tạp vì những gì chúng ta ăn là phần nhân hạt được bọc trong hai lớp vỏ có chứa một loại dầu độc hại tương tự như độc tố trong cây thường xuân. Vì vậy, để có được đến phần ăn được của quả hạch, thì việc trước tiên là phải rang tất cả lên để hủy diệt độc tố.
Trong khi đó trái điều lại rất thanh nhã và ngọt ngào cùng một dư vị thơm ngon. Nó cũng có độ tannin cao, là vị còn để lại cảm giác khô chát ở trong miệng của bạn (giống như ăn một quả chuối chưa chín). Ở những nơi như Brazil, quả này rất phổ biến và được ăn tươi hoặc dùng để làm nước trái cây, siro, rượu vang và trái cây ướp đá. Ở một số nước Mỹ Latinh, trái cây này được đánh giá cao đến nỗi thứ hạt gây rắc rối phiền hà của nó bị bỏ đi. Tuy nhiên, trái cây này cũng rất dễ hỏng vì vậy ở các nước khác, như Thái Lan, hạt điều là sản phẩm xuất khẩu lớn và quả điều là thứ gây phiền hà thường được bỏ đi.

2. Bắp non

WEB-ONLY-shutterstock_109525325
(Hình ảnh “ngô non” trên Shutterstock)
Ngô (bắp) non không phải là một giống ngô nhỏ như một số người nghĩ. Nó thực ra là loại ngô thông thường được chọn nhặt ra trước khi được thụ phấn do đó nó không bao giờ trưởng thành. Bất kỳ loại ngô nào cũng có thể được thu hoạch thành ngô non. Đôi khi đó là một cây trồng chính vụ, có nghĩa là nó được trồng để sản sinh ra bắp non, hoặc nó có thể là một vụ phụ cho ngô ngọt thông thường, được thu hoạch ở giai đoạn còn sớm. Trong cả hai trường hợp, thân cây ngô vẫn phải cao lên khoảng 182 cm (6 feet) trước khi nó được thu hoạch (nên nó không phải là lựa chọn lý tưởng cho vườn cây chậu bên cửa sổ nhà bạn).

3. Quế

Quế là vỏ bên trong của loại cây châu Á bán nhiệt đới có vỏ vàng nâu, hoặc cây quế Tích Lan, có nguồn gốc Sri Lanka. Loại này được gọi là quế “chính cống”. Nó thường bị nhầm lẫn với cassia, hay còn gọi là quế Trung Quốc hay Việt Nam, là loại mà thực ra đang được sử dụng chủ đạo trong sản xuất thương mại hiện nay. Vì vậy, hầu hết quế mà chúng ta mua không phải thực sự là quế chính cống.
Quế chính thống thì thơm hơn cassia và có một hương vị ít cay nồng hơn. Những chiếc lá của cả hai loại cây cũng đều rất thơm, và thường được sử dụng để pha trà có hương vị quế.
Cây quế có thể tăng trưởng lên mức khoảng 15 mét, nhưng thường được giữ ở mức dưới 2,4 m khi nuôi trồng. Các nhánh cây được cắt đi để làm gia vị. Sau khi thu hoạch các nhánh này, người nông dân phải giữ ẩm cho chúng trong 1-2 ngày để làm cho vỏ cây dễ dàng tróc ra. Rồi sau đó loại bỏ lá và cành cây, còn lớp mỏng vỏ bên ngoài thì cạo đi. Lớp vỏ quý giá bên trong sau đó được lấy ra một cách cẩn thận bằng cách khía từng lát mỏng dài song song nhau xuống mặt dưới. Đây chính là nguyên nhân tạo nên dạng vỏ xoắn đặc trưng của quế. Các vỏ xoắn dài được xếp lớp với nhau thành bó, tạo thành các thanh quế quen thuộc. Sau khi sấy khô các thanh quế, người ta cắt ngắn chúng thành các đoạn dài 5-8 cm cho tiện dùng.

4. Chocolate (Hạt Cocoa)

cocao-shutterstock_96695914
Hình ảnh hạt cocoa trên Shutterstock
Sôcôla được làm từ các hạt ca cao khô lên men, những hạt này mọc bên trong trái quả của cây ca cao. Những cái kén to cỡ quả bóng đá, lớn trực tiếp từ thân cây hoặc từ các cành lớn của cây. Bên trong vỏ kén này, các hạt được bao quanh bởi một lớp cùi màu sáng có vị ngon và ngọt, nhưng không hề giống như mùi vị sô cô la. Có khoảng 30-50 hạt giống trong mỗi cái kén.
Các hạt này ban đầu có màu trắng hoặc tím nhẹ, sau đó sậm màu hơn khi chúng khô và dậy men. Các hạt ca cao được sấy khô thêm nữa trong lò sấy sau đó được nghiền nát trong máy nghiền để loại bỏ lớp da mỏng như giấy và tạo nên cacao nghiền, đó là dạng tinh khiết nhất của cacao. Từ đó nó được xử lý thành nhiều hình thức khác nhau mà chúng ta mua như sô cô la.

5. Wasabi

wasabi-plate-shutterstock_77120896
Hình ảnh Wasabi trên Shutterstock
Wasabi là một dạng rễ mọc ở các vùng núi ẩm mát hoặc ở dưới một tán rừng trong tự nhiên. Trong điều kiện canh tác, nó được trồng chỗ có bóng thật râm mát trong vùng đất nông cạn có nước lạnh chảy qua. Có thể phải mất đến 3 năm để trồng cho đến khi cây trưởng thành. Vì khá khó khăn và tốn kém để phát triển wasabi nên phần lớn cái gọi là wasabi trên thị trường hiện nay là giả – nó thực ra chỉ là một hỗn hợp của cây cải ngựa thông thường, mù tạt (cải cay), và màu thực phẩm.
Wasabi tươi tự nhiên sau khi được xay nhuyễn sẽ tạo thành một hỗn hợp kem và là một thành phần thiết yếu cho món sushi. Nó cũng mất hương vị rất nhanh chóng sau khi nghiền nát ra mà không đậy kín. Lá wasabi cũng có thể ăn được và có cùng hương vị cay hăng như rễ gốc.
Tại Nhật Bản, wasabi Sawa là đắt nhất vì nó được trồng tự nhiên. Wasabi được trồng ở Nhật Bản, nhiều nơi ở Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, New Zealand, và đã có một số thành công trong các khu rừng rậm trên bờ biển Oregon và các địa phận của vùng núi Blue Ridge ở Bắc Carolina và Tennessee.
WEB-ONLY-WASABI-shutterstock_18001075
Hình ảnh nuôi trồng Wasabi trên Shutterstock

6. Dứa (thơm)

Hình ảnh dứa trên Shutterstock
Dứa khá dễ trồng. Chúng không được trồng bằng hạt giống, vì vậy có thể đơn giản là bạn chỉ cần cắt phần lá trên đầu (phần chóp) của bất kỳ quả dứa nào và trồng nó. Bạn cũng có thể trồng các cành ghép (cành giâm) (những cây con mọc ra từ một cây trưởng thành) hoặc trồng từ chồi rễ mút. Chúng không cần nhiều nước và có thể phát triển trong đất nghèo dinh dưỡng, và thậm chí phát triển mạnh trong chậu hoặc trong bồn.
Cây dứa có thân chắc mập rất ngắn, với lá kim dài mọc tủa ra như hình hoa thị, trông giống như mọc sát mặt đất. Quả dứa cũng thế, chúng mọc thẳng đứng, dường như mọc ngay trên mặt đất và mỗi cây chỉ có một quả.
Trồng dứa cần một thời gian dài để ra hoa và kết trái, tùy thuộc vào đoạn nào của cây mà bạn bắt đầu trồng xuống – 12 tháng đối với loại cành ghép và 24 tháng hoặc lâu hơn nếu trồng bằng phần lá trên đầu quả. Nhưng một khi bạn có một vài khóm trong vườn, chúng sẽ tự sinh sôi dễ dàng vì vậy bạn sẽ có quả trong nhiều năm kế tiếp.
Dứa có nguồn gốc từ Brazil và Paraguay, nhưng đã được dân bản xứ trồng lan rộng khắp Nam và Trung Mỹ và quần đảo Tây Ấn. Columbus đã mang trái dứa trở lại Tây Ban Nha và chúng được phổ biến đến phần còn lại của thế giới trên những chuyến tàu mang theo dứa để chống bệnh thiếu vitamin C. Từ “dứa” xuất phát từ các nhà các thám hiểm Tây Ban Nha đã đặt tên nó là “pina” nghĩa là quả thông để mô tả hình dạng của nó, sau đó người Anh thêm từ “apple” (quả táo) để chỉ sự ngon ngọt mà họ đã quen thuộc với loại trái cây này.

7. Kiwi

Hình ảnh Kiwi trên Shutterstock
Kiwi, còn được gọi là “quả lý gai Trung Quốc”, không phải có nguồn gốc từ New Zealand. Nó xuất xứ từ Trung Quốc, đặc biệt trong các thung lũng bờ sông Dương Tử ở phía bắc, và tỉnh Chiết Giang trên bờ biển phía đông. Nó đã được đưa tới New Zealand vào năm 1904 khi một bà hiệu trưởng muốn mang một thứ mới lạ về trường của mình sau chuyến viếng thăm người chị đang làm truyền giáo ở Trung Quốc. Tuy nhiên, vào cuối thế chiến II, nó là một nông sản xuất khẩu quan trọng đối với New Zealand.
Kiwi thực ra là một loại cây leo có quả mọng tròn (berry) và được trồng trên các giàn mắt cáo giống như trồng nho. Cây đực và cái phải được trồng gần nhau để sinh hoa kết quả và trái cây này rất nhạy cảm với sự thay đổi thời tiết, một đợt ấm hoặc lạnh có thể giết chết cả cây hoặc dẫn đến ra ít bông hoa. Quả Kiwi cũng rất khó thụ phấn vì qua nghiên cứu những con ong nhận thấy hoa kiwi không mấy hấp dẫn.
Hoa Kiwi (Apple2000/CC3.0)

8. Hạt vừng (mè)

Hình ảnh Cây vừng trên Shutterstock
Cây vừng là một trong những cây trồng lâu đời nhất được con người canh tác, từ khoảng 5000 năm về trước. Hạt mè đã được lính La Mã ăn rất phổ biến để giúp họ bổ sung thêm dưỡng chất.
Cây mè phát triển đến chiều cao 1,5 đến 1,8 m, nó có tán lá rộng để thu nhận nhiều ánh sáng mặt trời. Những bông hoa hình chuông lớn mọc ra từ thân cây và bên trong mỗi bông hoa là những hạt mè. Các giống mè khác nhau có màu sắc hạt mè khác nhau… Hạt và dầu mè được sử dụng ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là Trung Đông và châu Á, nhưng ăn lá mè là một đặc sản của ẩm thực Hàn Quốc.
Hình ảnh hạt mè trên Shutterstock

9. Cây nghệ tây

Hình ảnh nghệ tây trên Shutterstock
Nghệ tây là gia vị đắt tiền nhất trên thế giới. Bởi vì nó là những núm nhụy được sấy khô của hoa nghệ tây tím. Phải có khoảng 75.000 bông hoa mới sản xuất ra 450g gia vị này, mà việc này gần như hoàn toàn được thu hoạch bằng tay. May mắn thay, trong nấu ăn chỉ cần một lượng tí xíu nghệ tây vì thêm quá nhiều có thể làm cho món ăn bị đắng. Người Ai Cập cổ đại cũng sử dụng cây này để nhuộm quần áo.

10. Măng tây

Hình ảnh chồi măng tây trên Shutterstock
Trồng trọt măng tây là một công việc lâu dài. Được lớn lên từ hạt, măng tây bắt đầu nảy mầm thành cây giống như cây dương xỉ và mất khoảng 2 năm để trưởng thành. Bạn có thể trồng ghép trên đầu cây măng tây 1 tuổi để có được lợi thế lớn sớm hơn một năm, nhưng những cây trưởng thành lại không cấy ghép được. Tuy nhiên, một khi đã trưởng thành, măng tây là cây tồn tại vĩnh viễn và sẽ tăng trưởng trở lại mỗi mùa trong 20 năm hoặc nhiều hơn. Chồi măng tây trưởng thành có thể được thu hoạch bằng cách cắt nó xuống đoạn thân có đường kính của một cây bút chì. Sau đó nó nằm chờ qua một mùa đông và sẽ phát triển trở lại vào mùa xuân.
Hình ảnh trên Shutterstock: (trái) măng tây non, (phải) măng tây trưởng thành

11. Hạt tiêu

Hình ảnh hạt tiêu trên Shutterstock
Hạt tiêu là gia vị được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới, nhưng có bao giờ bạn tự hỏi về sự khác biệt giữa tiêu đen, trắng, xanh lá cây, và tiêu hồng chưa?
Cây tiêu hoặc tiêu đen, là một cây leo quanh năm có lá hình bầu dục màu xanh tối. Nó mọc trên cây hay giàn mắt cáo. Trên toàn giàn cây leo treo thõng xuống các cụm có 150 hoặc nhiều hơn các quả mọng, hoặc quả có hạt. Các quả này ban đầu có màu xanh lá cây và trở nên sẫm màu hơn, và cay hơn khi chúng chín già. Nếu chọn nhặt chúng khi mới có màu xanh lá cây, thì hương vị là tương đối nhẹ – nó thường được nấu chín ở dạng cả chùm trong món cà ri xanh ở Thái Lan. Nhưng thông thường nhất thì hạt tiêu được nhặt khi đã ngả màu đen và đó là loại tiêu sọ mà chúng ta hầu như đều quen thuộc.
Tiêu trắng thực ra là tiêu đen đã để cho đến khi chín nẫu. Khi vỏ màu đen được bóc ra, phần bên trong là màu trắng và hạt tròn mọng này là phần cay nhất của nó.
Hạt tiêu hồng lại từ một loại cây khác hoàn toàn. Chúng là quả của cây baies rose, còn được gọi là cây hạt tiêu của Brazil. Đó là loại cây cao có các nhánh rũ xuống mà từ đó mọc ra các cụm quả mọng màu hồng sáng. Chúng có vị tiêu cay nhẹ cùng hương cam quýt nhẹ. Có kích thước giống như hạt tiêu, chúng thường được trộn lẫn với những loại tiêu khác để tạo ra một gia vị pha trộn nhiều màu sắc.

5 loại rau củ nhập khẩu từ Trung Quốc mà bạn nên tránh

A customer shops for produce at a Whole Foods market in San Francisco, California. (Justin Sullivan/Getty Images)
Một khách hàng mua sắm ở San Francisco. (Justin Sullivan / Getty Images)
Hàng kém chất lượng nhập khẩu từ Trung Quốc – từ thức ăn vật nuôi gây tử vong đến ô tô đồ chơi có chứa chì – nhiều năm nay đã trở thành tiêu đề chính trên báo chí Hoa Kỳ. Các quy định của Trung Quốc khá lỏng lẻo, và chính phủ luôn cố gắng che đậy các vụ bê bối thực phẩm trong nước.
Rau củ cũng không ngoại lệ. Nông dân Trung Quốc thường sử dụng lượng lớn thuốc trừ sâu hóa học, phân bón và chất bảo quản độc hại để rau củ nhìn có vẻ tươi ngon. Và ngay cả nếu một sản phẩm được dán nhãn “hữu cơ” thì trên thực tế cũng không ai đảm bảo được điều đó.
Trong khi không có cách nào biết được liệu những loại rau củ Trung Quốc độc hại đó có bị trà trộn để xuất khẩu sang Mỹ hay không, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) lại chỉ tiến hành kiểm tra lấy mẫu dưới 3% hàng nhập khẩu nhằm phát hiện vi phạm và sai sót.
Trung Quốc là nền kinh tế nông nghiệp lớn nhất thế giới, sản xuất ra một lượng thực phẩm được tiêu thụ đáng kể tại Mỹ, bao gồm táo, cà chua và các loại nấm.
Sau đây là 5 loại rau củ có nguồn gốc Trung Quốc mà bạn nên cân nhắc tránh xa, kèm theo những câu chuyện giật mình về quy trình sản xuất theo kiểu Trung Quốc.

1. Tỏi

Garlic
(Donovan Govan/Wikimedia Commons)
Thực tế: Theo số liệu của Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC), trực thuộc cả Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), thì 64.876 tấn tỏi khô, tỏi tươi và tỏi đông lạnh đã được nhập khẩu từ Trung Quốc trong năm 2014. Khoảng 1/3 lượng tỏi tiêu thụ ở Mỹ đến từ Trung Quốc.
Vấn đề: Theo báo cáo của kênh thông tin nổi tiếng Sohu, tỏi được sản xuất tại huyện Vĩnh Niên, thành phố Hàm Đan thuộc tỉnh Hà Bắc (một vựa tỏi của Trung Quốc) bị xịt thuốc trừ sâu trái phép. Một phóng viên giấu tên điều tra khu vực này phát hiện ra rằng nhiều nông dân trồng rau đã sử dụng phorate và parathion (hai thành phần thuốc trừ sâu bị chính phủ cấm dùng) tưới lên cây trồng để tiết kiệm thời gian và công sức.
Những năm gần đây, Trung Quốc không chỉ phải đối mặt với vấn đề nông phẩm bẩn mà còn cả tình trạng ô nhiễm nói chung đã đạt mức kỷ lục, nguyên nhân chính là nền sản xuất công nghiệp của nước này.
Một báo cáo chính thức của chính phủ vào năm 2014 cho biết gần 1/5 diện tích đất của Trung Quốc bị nhiễm độc kim loại nặng như cadmium, asen cũng như thuốc trừ sâu và phân bón có hại khác. Một lượng lớn hóa chất công nghiệp và rác thải sinh hoạt đã gây ra ô nhiễm nghiêm trọng cho tất cả các con sông lớn của Trung Quốc.
Thêm vào đó, nhiều thành phố bị chìm trong sương khói, một dạng kết hợp của khói và sương mù, gây ra các căn bệnh hô hấp. Vào tháng 5 năm 2014, thủ tướng Lý Khắc Cường đã “tuyên chiến” với ô nhiễm ở Trung Quốc để hạn chế sương khói và ô nhiễm môi trường, tuy nhiên cho đến nay chiến dịch này tỏ ra không mấy thành công.

2. Nấm

Agaricus bisporus Zuchtchampignon2
(Böhringer Friedrich/Wikimedia Commons)
Thực tế: Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, năm 2014 Mỹ đã nhập khẩu sản lượng nấm (bao gồm nấm tươi và nấm khô) trị giá khoảng 8 triệu USD từ Trung Quốc.
Vấn đề: Dẫn lời hãng tin nhà nước Tân Vấn Xã, một phụ nữ họ Cao kể rằng khi cô đang rửa những cây nấm mỡ mua từ một khu chợ của thành phố Trùng Khánh thì phát hiện chúng chảy ra thành thứ nước trắng như sữa, những gì còn lại trông rất kỳ quái. “Lúc tôi mua chúng thì chúng có màu trắng muốt, không một vết bẩn, trông khá sạch và tươi”.
Đó là vì chúng đã được xử lý với sodium sulfite, một hóa chất dùng để tẩy trắng và bảo quản thực phẩm. Ăn vào quá nhiều sodium sulfite có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho gan và thận.

3. Đậu nành

(Scott Olson/Getty Images)
(Scott Olson/Getty Images)
Thực tế: Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, năm 2014 Mỹ đã nhập khẩu 47,5 triệu USD đậu nành đã qua chế biến từ Trung Quốc.
Vấn đề: Vào tháng 4 năm 2009, một người đàn ông họ Trần ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc vô tình phát hiện nhiều đậu Hà lan và đậu nành đã bị nhúng qua dung dịch tẩy trắng và nước màu để có bề ngoài đẹp mắt, Tencent – cổng thông tin hàng đầu Trung Quốc cho biết.
Anh này tìm thấy trong nhà của một tiểu thương một căn phòng toàn đậu Hà Lan và đậu nành, cùng các thùng lớn chứa đầy dung dịch màu xanh lá cây. Nhà chức trách sau đó đã phát hiện rằng ngoài việc tẩy trắng và nhúng nước màu, các loại đậu còn được ngâm trong nước có chứa lượng lớn sodium metabisulfite. Chủ cơ sở tiết lộ rằng họ làm vậy để sản phẩm trông tươi ngon hơn.

4. Khoai môn

Starr 070730-7885 Colocasia esculenta
(Forest & Kim Starr/Wikimedia Commons)
Thực tế: Cũng theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, năm 2014 sản lượng xuất khẩu khoai môn của Trung Quốc sang Mỹ đạt trị giá 2,3 triệu USD.
Vấn đề: Khoai môn sẽ ngả sang màu vàng hoặc đen trong vòng 1 giờ nếu gọt hết vỏ, nhưng khoai môn ở thành phố Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang thì để lâu vẫn trắng. Theo báo cáo từ trang tin tức Chiết Giang Online, các tiểu thương đã cho thêm hóa chất sulfur dioxide độc hại khi lột vỏ khoai môn và khoai tây để tẩy trắng và bảo quản được lâu hơn.

5. Ngô

(PHILIPPE HUGUEN/AFP/GettyImages)
(Philippe Huguen/AFP/GettyImages)
Thực tế: Theo số liệu của Trung tâm Nghiên cứu thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, năm 2009 Mỹ đã nhập khẩu 1.860 tấn (4,1 triệu pound) ngô ngọt đông lạnh từ Trung Quốc.
Vấn đề: Nhiều người trồng trọt ở Trung Quốc cho sodium cyclamate (một chất tạo ngọt nhân tạo bị FDA cấm dùng) vào ngô hạt. Với chất phụ gia này, dù người dùng có đun nấu bao lâu đi nữa thì ngô vẫn giữ màu vàng tươi và có vị rất ngọt, theo nguồn tin từ 365jilin.com, một trang tin lớn của tỉnh Cát Lâm.
Phó Giáo sư Liu Junmei thuộc Đại học Nông nghiệp Cát Lâm cho biết một lượng nhỏ chất này được phép sử dụng trong nước ép trái cây và nước ngô, nhưng không được dùng cho ngô đông lạnh và các sản phẩm tương tự. Ăn nhiều chất này có thể gây tổn thương gan.

4 cách giúp giảm đau khớp bằng tinh dầu


Các loại tinh dầu hiệu quả này có thể được sử dụng riêng lẻ hoặc trộn chung lại trước khi áp lên vùng da (tolstnev/botamochi/iStock)
Các loại tinh dầu hiệu quả này có thể được sử dụng riêng lẻ hoặc trộn chung lại trước khi áp lên vùng bị đau (tolstnev/botamochi/iStock)
Đau khớp có thể là do chấn thương, thấp khớp, viêm khớp, hoặc do duy trì một tư thế sai trong thời gian lâu dài. Tinh dầu được sử dụng rộng rãi để giảm đau khớp nhờ các đặc tính chống thấp khớp, chống viêm, chống co thắt của nó. Những loại tinh dầu này có thể được sử dụng riêng lẻ hoặc pha trộn với nhau khi dùng cho các vùng bị đau.
Tùy thuộc vào vị trí và mức độ nghiêm trọng của cơn đau, tinh dầu có thể được sử dụng để massage, hòa với nước trong bồn tắm để ngâm mình, hay chườm nóng hoặc lạnh. Các loại tinh dầu tốt nhất để giảm đau khớp là tinh dầu đinh hương, hương thảo, hoa oải hương, gừng, kinh giới, hoa cúc, bạc hà, bạch đàn và cây tùng.

Cách số 1: Massage tinh dầu đinh hương trên vùng bị đau

Sử dụng một lượng ít tinh dầu thoa lên vùng cơ hoặc chỗ khớp bị đau.
Sử dụng một lượng ít tinh dầu thoa lên vùng cơ hoặc chỗ khớp bị đau.
Dầu đinh hương là loại tinh dầu thiết yếu khá phổ biến với tính sát khuẩn, kháng khuẩn mạnh, và đặc tính cầm máu được sử dụng để chống viêm. Sử dụng một lượng ít tinh dầu thoa lên vùng cơ hoặc chỗ khớp bị đau để tránh kích ứng da. Nếu bạn có làn da nhạy cảm, bạn cũng có thể pha loãng tinh dầu đinh hương với một loại dầu nền (như dầu dừa), và xoa bóp nó vào vùng bị đau. Tỷ lệ pha loãng là 12 giọt tinh dầu đinh hương và 2 ounce dầu nền.
Trong thời gian mang thai và cho con bú, nên tránh sử dụng tinh dầu đinh hương.

Cách số 2: Sử dụng hỗn hợp nhiều tinh dầu

Thoa vào chỗ khớp bị đau hai lần một ngày.
Thoa vào chỗ khớp bị đau hai lần một ngày.
Dầu đinh hương khi pha với các loại tinh dầu khác như quế, hương thảo, bạc hà, hoa oải hương, và phong lữ cũng có hiệu quả làm giảm đau khớp. Trộn ít nhất ba trong số các loại tinh dầu trên với một loại dầu nền mà bạn ưa thích để tạo 1 dung dịch loãng 1% (6 giọt tinh dầu vào 1 oz dầu nền). Sau đó, thoa vào chỗ khớp bị đau hai lần một ngày.
Bạn có thể tăng nồng độ hỗn hợp tinh dầu lên 3% (20 giọt tinh dầu vào 1 oz dầu nền) hoặc nhiều hơn hoặc sử dụng nhiều hơn hai lần một ngày tùy thuộc vào phản ứng của cơ thể.
Một hỗn hợp khác cũng có tác dụng rất tốt với những vùng khớp bị đau là hỗn hợp các tinh chất gồm 1 giọt tiêu đen, 1 giọt gừng, 2 giọt vani pha, 3 giọt hương thảo, 3 giọt rau mùi, 4 giọt kinh giới, và 6 giọt hoa cúc La Mã pha với 2 ounces dầu nền. Massage vùng bị đau với hỗn hợp này hàng ngày cho đến khi cơn đau giảm đi.

Cách số 3: Ngâm mình với tinh dầu

Muối tắm được làm bằng cách trộn lẫn muối Epsom và baking soda với một lượng bằng nhau.
Muối tắm được làm bằng cách trộn lẫn muối Epsom và baking soda với một lượng bằng nhau.
Cách tốt nhất để giảm các cơn đau liên quan đến nhiều vùng khớp là tắm nước ấm trong nước có pha các loại tinh dầu. Trộn 2 giọt tinh dầu hương thảo, 4 giọt tinh dầu cây tùng berry, 2 giọt tinh dầu cây bách, 2 giọt tinh dầu oải hương và 1-2 chén muối tắm lại với nhau. Muối tắm được làm bằng cách trộn lẫn muối Epsom và baking soda với một lượng bằng nhau.
Thêm vào một ít muối biển và magiê clorua, và đổ hỗn hợp vào bồn tắm. Xả nước vào bồn tắm và để nó hòa tan các chất trong khoảng 30 phút trước khi tắm

Cách số 4: Chườm nóng và lạnh

Chườm khăn nóng trong 15 phút cho mỗi lần, xen kẽ với chườm lạnh sau một vài giờ.
Chườm khăn nóng trong 15 phút cho mỗi lần, xen kẽ với chườm lạnh sau một vài giờ.
Medics đã phát hiện ra rằng chườm nóng và lạnh giúp làm giảm đau khớp, và việc thêm vào các loại tinh dầu sẽ giúp cải thiện hiệu quả của liệu pháp này. Đầu tiên, đun nước nóng tới một nhiệt độ thích hợp. Sau đó, chọn ít nhất ba loại tinh dầu và cho vào nước mỗi loại tinh  dầu 4 giọt. Rồi nhúng một chiếc khăn vào, vắt sạch nước, và đặt nó vào vùng bị đau. Chườm khăn nóng trong 15 phút cho mỗi lần, xen kẽ với chườm lạnh sau một vài giờ.

Kết luận

Sử dụng sự kết hợp của các loại tinh dầu ở những vùng bị đau là cách giảm đau khớp hiệu quả. Những loại tinh dầu này cũng làm giảm co thắt cơ, căng cơ và có tác dụng làm dịu.
Tác giả: Max Joseph, www.organiclifestylemagazine.com | Dịch giả: Phương Chính

Những loại thuốc thông thường có thể làm tăng nguy cơ mất trí nhớ

Tác giả nhấn mạnh rằng họ không chứng minh được các loại thuốc này gây ra chứng mất trí nhớ, mà chỉ thấy có một mối liên hệ giữa việc dùng các loại thuốc này và sự gia tăng nguy mắc chứng mất trí nhớ. (Sean Gallup/Getty Images)
Tôi đã nhận được nhiều câu hỏi về các báo cáo tin tức gần đây cho rằng một số loại thuốc thông thường làm tăng nguy cơ mất trí nhớ. Các báo cáo này tập trung vào nhóm thuốc kháng cholin, là nhóm thuốc có nhiều thương hiệu nổi tiếng về các loại thuốc kháng histamine được bán không theo toa và một số thuốc chống trầm cảm và giãn cơ bán theo toa. Khoảng 20 phần trăm người lớn tuổi thường xuyên dùng các loại thuốc này.
Một nghiên cứu đã theo dõi 3434 người lớn tuổi (độ tuổi trung bình là 73 tuổi), những người này đã sử dụng các loại thuốc kháng cholin tính theo hồ sơ dược lý trong 10 năm và sau đó họ được kiểm tra chứng mất trí nhớ sau mỗi hai năm. Qua bảy năm tiến hành kiểm tra, 797 người tham gia (chiếm 23,2 phần trăm) phát triển chứng mất trí. Những người tham gia sử dụng thuốc dù liều lượng thấp, kéo dài, đều tăng nguy cơ bị mất trí nhớ, và những người dùng liều lượng càng cao, thời gian dùng càng dài, thì nguy cơ họ bị mất trí nhớ càng lớn. Những người thực hiện nghiên cứu nhấn mạnh rằng họ không chứng minh được các loại thuốc này gây ra chứng mất trí nhớ, mà chỉ thấy có một mối liên hệ giữa việc dùng các loại thuốc này và sự gia tăng nguy mắc chứng mất trí nhớ.
Những người này cũng chỉ ra rằng những người dùng liều lượng cao các loại thuốc giảm đau thuộc nhóm opioid hoặc thuốc chống viêm không chất kích thích steroid (NSAID) cũng có nguy cơ mắc bệnh mất trí nhớ cao. Kết quả của họ mâu thuẫn với các ý kiến trước đó cho thấy không có mối liên quan giữa thuốc opioid và mất trí nhớ.

Thuốc kháng cholin là gì?

Các thuốc kháng cholin bao gồm các chất kháng histamine như diphenhydramine (tên thương mại là Benadryl chlorpheniramine để điều trị chứng mất ngủ và dị ứng; oxybutynin  tolterodine có tác dụng cho chứng  hoạt động quá mức của bàng quang,  nhóm chống trầm cảm như doxepin hoặc amitriptyline để điều trị trầm cảm, đau nửa đầu và đau nhức.
 ( Philippe Huguen/AFP/Getty Images)
Những người dùng liều lượng cao các loại thuốc giảm đau thuộc nhóm opioid hoặc thuốc chống viêm không chất kích thích steroid (NSAID) cũng có nguy cơ mắc bệnh mất trí nhớ cao.
Thuốc kháng cholin chặn acetylcholine gửi tín hiệu từ dây thần kinh này đến dây thấn kinh khác.Acetylcholine truyền tín hiệu cho các hệ thần kinh đối giao cảm di chuyển cơ trơn trong đường tiêu hóa, tiết niệu,  vùng phổi. Chúng thường được dùng để điều trị:
  • rối loạn tiêu hóa (viêm dạ dày, tiêu chảy, co thắt môn vị, viêm túi thừa – thành ruột phình thành túi nhỏviêm loét đại tràng, chứng buồn nôn, nôn mửa)
  • rối loạn tiết niệu (viêm bàng quang, viêm niệu đạo, viêm tuyến tiền liệt)
  • rối loạn hô hấp (dị ứng, hen suyễn, viêm phế quản mãn tính)
  • nhịp tim chậm do một dây thần kinh phế vị hoạt động quá mức
  • mất ngủ
  • chóng mặt
Tác dụng phụ thường gặp của thuốc kháng acetylcholin bao gồm buồn ngủ, lú lẫn, khô miệng, táo bón hoặc bí tiểu.

Những khuyến nghị của tôi

Nghiên cứu này không khuyến nghị bạn ngừng dùng các loại thuốc mà bạn đang dùng, nhưng tôi tin rằng việc trao đổi với bác sĩ để hạn chế tối đa lượng thuốc mà bạn cần sử dụng là cần thiết. Mỗi viên thuốc mà bạn mà bạn uống vào sẽ có thể có tác dụng phụ hoặc hậu quả lâu dài, thậm chí có những tác dụng phụ chưa được công bố. Đặc biệt nếu bạn dùng các loại thuốc không kê đơn để điều trị  các triệu chứng khó chịu nhưng không thể chịu đựng nổi, hãy luôn tự hỏi mình rằng lợi ích của loại thuốc đó có hơn quá các tác dụng phụ có thể có của nó không. Thật không may, không ai trong chúng ta biết câu trả lời thực sự cho câu hỏi đó.
Gabe Mirkin đã làm bác sĩ hơn 50 năm. Ông có chứng nhận được hoạt động trong các lĩnh vực y khoa thể thao, dị ứng và miễn dịch học, nhi khoa, và miễn dịch ở trẻ emBài viết này đã đượcđăng lần đầu tiên tại DrMirkin.com

Nguy cơ bị trầm cảm cao hơn cho những người nghiện mạng xã hội


(kieferpix/iStock)
(Ảnh: kieferpix/iStock)
Một nghiên cứu mới cho thấy, sử dụng mạng xã hội càng nhiều, giới trẻ càng có khả năng mắc chứng trầm cảm.
Các nhà khoa học cho rằng phát hiện này có thể hướng đến các can thiệp về y tế lâm sàng và sức khỏe cộng đồng để đối phó với bệnh trầm cảm, căn bệnh được dự báo sẽ trở thành nguyên nhân hàng đầu của tình trạng suy nhược ở các nước có thu nhập cao vào năm 2030.
Trong khi nhiều nghiên cứu trước đó mang lại những kết quả khác nhau, bị giới hạn bởi các mẫu trên một diện nhỏ hoặc cục bộ, và tập trung chủ yếu vào một nền tảng mạng xã hội cụ thể, chứ không phải trên một phạm vi rộng như thực tế thường được sử dụng bởi giới trẻ, thì đây là lần đầu tiên một nghiên cứu mang tính quốc gia trên diện rộng nghiên cứu mối liên quan giữa việc sử dụng nhiều loại phương tiện truyền thông xã hội khác nhau và chứng trầm cảm.
“Do mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong giao tiếp giữa con người, nên quan trọng là các bác sỹ khi tương tác với giới trẻ chú ý đến việc khuyến khích các tác dụng tích cực tiềm tàng của việc sử dụng mạng xã hội và định hướng lại việc sử dụng chúng một cách tiêu cực,” theo tác giả Brian A. Primack, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu về truyền thông, Công nghệ và Y tế tại Đại học Pittsburgh.
Trong nghiên cứu được công bố trên tạp chí Depression and Anxiety, Primack đã khảo sát 1.787 thanh niên Mỹ ở độ tuổi từ 19 đến 32 năm 2014, dùng phiếu thăm dò ý kiến để xác định các mạng xã hội được sử dụng và một công cụ đánh giá sự hình thành chứng trầm cảm. Các phiếu này đặt ra các câu hỏi về 11 trang mạng xã hội phổ biến nhất vào thời điểm đó: Facebook, YouTube, Twitter, Google Plus, Instagram, Snapchat, Reddit, Tumblr, Pinterest, Vine, và LinkedIn.
Trung bình những người tham gia khảo sát sử dụng mạng xã hội 61 phút mỗi ngày và đăng nhập vào các tài khoản khác nhau 30 lần một tuần. Hơn một phần tư số người tham gia được xếp vào loại có chỉ số “cao” của bệnh trầm cảm.
Nghiên cứu cho thấy liên hệ đáng kể và tuyến tính giữa việc sử dụng mạng xã hội và chứng trầm cảm dù cho việc sử dụng mạng xã hội được xác định trên tổng thời gian sử dụng hay tần suất đăng nhập. Ví dụ, so với những người ít đăng nhập vào mạng xã hội nhất, những người tham gia thường xuyên trong suốt cả tuần có khả năng bị trầm cảm cao gấp 2.7 lần.
Tương tự như vậy, so với những người dành ít thời gian hơn trên mạng xã hội, những người dành hầu hết thời gian trong ngày có nguy cơ trầm cảm cao hơn 1.7 lần. Các nhà nghiên cứu đã kiểm soát các yếu tố khác có thể góp phần gây nên chứng trầm cảm, bao gồm tuổi, giới tính, chủng tộc, sắc tộc, tình trạng quan hệ, hoàn cảnh sống, thu nhập hộ gia đình, và trình độ học vấn.
Bởi vì đây là một nghiên cứu chéo, nó không nằm ngoài sự rối rắm của các quan hệ giữa nguyên nhân và hệ quả, tác giả chính Lui yi Lin, nói. “Có thể là những người đang chán nản, thất vọng có xu hướng sử dụng  mạng xã hội để lấp đầy khoảng trống.”
Ngược lại, khi tiếp xúc với mạng xã hội cũng có thể gây ra chứng trầm cảm, điều mà có thể làm gia tăng động cơ để sử dụng mạng xã hội nhiều hơn sau đó. Ví dụ:
• Tiếp xúc với những hình mẫu lý tưởng  của bạn bè trên mạng xã hội gợi cảm giác ghen tị và niềm tin sai lệch rằng những người khác có cuộc sống hạnh phúc hơn và thành công hơn mình.
• Tham gia vào các hoạt động ít ý nghĩa trên mạng xã hội có thể cho một cảm giác “lãng phí thời gian” làm ảnh hưởng tiêu cực đến tâm trạng.
• Sử dụng mạng xã hội có thể làm gia tăng “chứng nghiện Internet”, một trạng thái bệnh lý tinh thần có liên quan chặt chẽ với chứng trầm cảm.
• Dành nhiều thời gian hơn trên mạng xã hội có thể làm tăng nguy cơ bị đe dọa trên mạng hoặc các tác động tiêu cực tương tự khác, mà có thể gây ra cảm giác trầm cảm.
Ngoài việc khuyến khích các bác sĩ hỏi về việc sử dụng mạng xã hội ở những người bị trầm cảm, những phát hiện này có thể được sử dụng như một cơ sở cho sự can thiệp y tế công cộng tận dụng mạng xã hội.

‘Mọi thứ ổn cả chứ?’

Một số trang mạng xã hội đã đã tạo ra các biện pháp phòng ngừa như vậy. Ví dụ, khi một người tìm kiếm trên trang blog Tumblr cho thấy dấu hiệu khủng hoảng về sức khỏe tinh thần, chẳng hạn như “chán nản”, “tự tử”, hoặc “vô vọng” – họ sẽ được nhận một thông điệp “Mọi thứ ổn cả chứ?” trước khi truy cập vào trang đích.
Tương tự như vậy, một năm trước đây Facebook đã thử nghiệm một tính năng cho phép bạn báo cáo ẩn danh các bài viết đáng lo ngại. Người đăng bài viết sau đó sẽ nhận được các tin nhắn bày tỏ sự quan tâm và khuyến khích họ nói chuyện với một người bạn hoặc các đường dây trợ giúp.
“Chúng tôi hy vọng nghiên cứu tiếp theo sẽ cho phép những nỗ lực như vậy được sàng lọc để đạt được các kết quả khả quan hơn,” Primack nói. “Các tiếp xúc phương tiện truyền thông xã hội là không giống nhau.”
“Các nghiên cứu trong tương lai nên xem xét liệu có thể có rủi ro khác nhau cho chứng trầm cảm phụ thuộc vào hoặc là sự tương tác truyền thông xã hội với người dân đã có xu hướng tích cực hơn so với thụ động hoặc liệu họ có xu hướng đối đầu hơn so với hỗ trợ. Điều này sẽ giúp chúng tôi phát triển thêm những khuyến cáo chi tiết quanh việc sử dụng mạng xã hội “.
Viên Y tế Quốc gia và Viện Ung thư Quốc gia tài trợ nghiên cứu và sẽ được đăng trực tuyến trên tạp chí Depression and Anxiety.
Tác giả: Epoch Times Staff | Dịch giả: DDT

Hành tây thừa có độc hại không?

Thông tin trên internet khẳng định rằng những lát hành tây thừa có tác dụng như một miếng bọt biển chứa đầy mầm bệnh và vi khuẩn
Hành tây là một nguyên liệu chủ yếu trong nhà bếp. Đối với nhiều đầu bếp, chúng thiết yếu như muối và hạt tiêu. Nhưng có đúng loài thực vật thông dụng này có một khía cạnh mà không ai hay biết? Liệu những lát hành tây thừa lại có tác dụng như một miếng bọt biển chứa đầy mầm bệnh và vi khuẩn?
Internet dường như cho là vậy. Trong nhiều năm những chuỗi thông điệp thư điện tử và các đoạn tin trên phương tiện truyền thông xã hội đã cảnh báo rằng, một khi bạn cắt một củ hành ra, nó trở nên nguy hiểm gần như chỉ qua một đêm. Một tin nhắn được lan truyền rộng rãi tuyên bố rằng những lát hành tây trở nên có “độc tố cao” vì chúng “tạo ra những vi khuẩn độc hại, có thể gây nhiễm trùng dạ dày vì tiết dịch mật thái quá và thậm chí gây ngộ độc thực phẩm.”
Một lời khuyên phổ biến khác ở trên mạng về củ hành liên quan đến một giai thoại hấp dẫn từ đại dịch cúm năm 1919: Trong một cộng đồng nơi mọi người đều ngã bệnh, một bác sĩ phát hiện một gia đình đã tìm được cách tránh mắc bệnh bằng cách để những lát hành tây xung quanh nhà. Khi người bác sĩ kiểm tra những lát hành này dưới kính hiển vi, ông tìm thấy dấu vết của virus bệnh cúm – qua đó chứng minh năng lực hấp thụ bệnh của hành tây đã cứu vãn tình thế.
Nguồn gốc câu chuyện này là từ một người thợ cắt tóc không rõ danh tính, nhưng ý tưởng cơ bản đã lưu truyền trong một thời gian dài.

Tôi nói với người tiêu dùng rằng tất cả điều này là một trò lừa bịp. 

   – Marianne H. Gravely, quản trị đường dây nóng về thịt và gia cầm thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ.

Theo nhà nghiên cứu về thảo mộc thế kỷ 17 Nicholas Culpepper, hành tây có khả năng “hấp thụ chất thối rữa, và nếu bạn bóc một củ hành, và đặt nó trên một đống phân, bạn sẽ phát hiện nó bị thối rữa trong vòng nửa ngày do nó hấp thụ chất thối rữa”. Những người tin tưởng tương tự thậm chí còn bảo phải chôn những củ hành đã được sử dụng để trích xuất bệnh tật, bởi vì chất độc tập trung trong đó có thể quá mạnh.
Hành đã là một thực phẩm và là một vị thuốc dân gian quan trọng trong hàng ngàn năm, đã được sử dụng để chữa hàng loạt bệnh tật, chẳng hạn như những vấn đề về thị lực, những vết chó cắn, và răng sâu. Nghiên cứu hiện đại đã chỉ ra rằng hành tây có thể tăng cường hệ thống miễn dịch, hoạt động như một nhân tố làm loãng máu tự nhiên, ngăn ngừa ung thư, và điều trị các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp.
Nhưng liệu những củ hành thực sự có khả năng đặc biệt hấp thụ chất nhiễm độc? Chúng ta hãy cùng bóc từng lớp để tìm hiểu.


Củ hành, minh hoạ của Otto Thome, 1885. (Public Domain)

Những nguồn đáng tin cậy, những trích dẫn sai lầm

Để có độ tín nhiệm, những câu chuyện ủng hộ cho ý tưởng về độc tố của hành thường lấy chứng cứ từ các nguồn tin đáng tin cậy. Một thông điệp như vậy cho rằng “cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã đi đến kết luận, sau khi nghiên cứu, rằng những củ hành là một nam châm khổng lồ hấp thu các vi khuẩn, đặc biệt là hành chưa nấu chín. Bạn không bao giờ nên giữ một phần củ hành đã thái lát. Thậm chí cũng không an toàn nếu bạn đặt nó trong một túi có dây khoá và để vào tủ lạnh. Nó nhiễm đủ bẩn dù mới cắt ra chỉ một chút, đó có thể là một mối nguy hiểm cho bạn”.
Nghe rất thuyết phục, nhưng điều đó không đúng sự thật. Trong một bức thư điện tử, phát ngôn viên của FDA Lauren E. Sucher cho biết tổ chức này “không có kiến ​​nghị cụ thể về những lát hành”. Bà cung cấp các đường dẫn về lời khuyên của FDA đối với việc giữ an toàn thực phẩm nói chung: Bạn lưu giữ thực phẩm đủ an toàn chưa?Hãy xử lý Thực phẩm an toàn: Những điều bạn cần biết, và bảy lời khuyên làm sạch trái cây, rau quả.
Tuy không nằm trong phạm vi quyền hạn, nhưng Marianne H. Gravely, quản trị đường dây nóng về thịt và gia cầm của bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, cho biết bà nhận được những cuộc gọi từ những người quan tâm đến độc tố trong thức ăn thừa có hành. “Tôi nói với người tiêu dùng rằng tất cả điều đó là một trò lừa bịp,” bà viết trong một bức thư.
Barry E. Parsons, một chuyên gia về an toàn thực phẩm của Robson Forensic, xác nhận rằng khi nói đến vấn đề ô nhiễm, các củ hành không có “thiên hướng lớn hấp thụ vi khuẩn.”
Được xử lý đúng cách, nguyên củ hoặc cắt lát (để trong một hoặc hai ngày), chúng an toàn như mọi loại thực phẩm khác.
“Được xử lý đúng, nguyên củ hoặc cắt lát (để trong một hoặc hai ngày), chúng an toàn như mọi loại thực phẩm khác,” Parsons đã viết trong một email.
Snopes ghép nối nhiều tin đồn về quan niệm hành tây bị nhiễm độc tới một bài báo tuyên bố rằng những lát hành “gây ngộ độc thực phẩm nhiều hơn là mayonnaise hỏng.”
Theo Snopes, bài báo này được viết vào năm 2008 bởi tác giả sách dạy nấu ăn và là người viết về ẩm thực Sarah McCann dưới bút danh Zola Gorgon. Gorgon cho biết bà có được thông tin về hành trong khi tham quan cơ sở sản xuất thực phẩm Mullins. Bà xác nhận người hướng dẫn tour du lịch của bà là một nhà hóa học, Ed Mullins.
“Ed nói rằng khi có thông báo về ngộ độc thực phẩm, điều đầu tiên các quan chức tìm kiếm là các “nạn nhân” đã ăn hành tây lần cuối vào lúc nào và những củ hành đó đến từ đâu,” Gorgon viết. “Ông giải thích, những củ hành là một nam châm khổng lồ thu hút vi khuẩn, đặc biệt là hành chưa nấu chín. Bạn không bao giờ nên giữ một phần củ hành đã thái lát. Ông nói rằng thậm chí nếu bạn để nó trong một túi khoá và cất vào tủ lạnh cũng không an toàn. Nó bị nhiễm đủ bẩn dù chỉ mới bị cắt ra một chút, nó có thể là một mối nguy hiểm cho bạn (và hãy kiểm tra kỹ những lát hành trong chiếc hotdog của bạn tại sân bóng!) “
Epoch Times đã liên lạc với công ty Mullins để hỏi về nguồn gốc của đoạn trích. Theo một email từ Bill Mullins, “Cả Ed Mullins cũng như hãng sản xuất thực phẩm Mullins đều không tham gia vào việc chuẩn bị bài viết.”


Tranh minh hoạ hành từ Icones Plantarum của F.B. Vietz, 1806. (Public Domain)

Những củ hành chữa bệnh như thế nào

Trải qua nhiều thế hệ, con người đã có nhận thức về khả năng chữa bệnh của hành tây; tuy nhiên có vẻ như có sự lẫn lộn từ rất lâu về nguyên nhân khiến nó chữa được bệnh.
Ví dụ, các phương pháp của y học dân gian, như việc trải hành xắt nhỏ trên ngực để làm giảm sung huyết, hoặc đặt một lát hành tây trong tai để chữa nhiễm trùng được cho là có tác dụng vì hành sẽ hút bệnh ra. Nhưng hãy nghĩ về điều này: Nếu những lát hành còn sót lại là những miếng bọt biển đầy vi khuẩn có hại, thì tại sao không có vấn đề với những quầy salad và bàn chuẩn bị thức ăn trong các nhà hàng, hoặc trong rất nhiều nhà bếp trên khắp nước Mỹ, nơi các phần của củ hành thường được giữ lại để sử dụng dần?
Xét về tính hăng của hành, nhiều khả năng là các dược tính của nó toả khắp người bạn, chứ không phải là vi khuẩn.
Một đặc điểm không thể phủ nhận của hành là khả năng làm chảy nước mắt. Khi cắt một củ hành, các vách tế bào bị phá vỡ, giải phóng các enzyme trước đó được lưu giữ riêng biệt trong các lớp hành. Khi các enzym này kết hợp, nó tạo thành một phản ứng hóa học tạo ra một hơi sulfuric có thể làm bạn chảy nước mắt nước mũi. Các loại hóa chất khác trong hành tây đã được chứng minh là có các đặc tính kháng viêm, kháng sinh, và kháng virus. Hành tây cũng làm loãng các dịch nhầy, khiến các triệu chứng nhiễm trùng dễ dàng bị loại bỏ.
Hành tây có rất nhiều lợi ích khác có thể kiểm chứng. Chúng rất giàu vitamin C, sắt, và quercitin, một chất chống oxy hóa giúp hệ tim mạch và thậm chí có thể ngăn chặn sự phát triển của khối u. Hành tây cũng là một nguồn inulin có lợi – một loại chất xơ tham dự vào việc tạo nên sự sống để thúc đẩy hệ sinh thái vi khuẩn lành mạnh.
Trong khi nhiều nền văn hóa chấp nhận hành, nhiều nền văn minh khác lại hạn chế hoặc thậm chí tránh xa chúng. Ví dụ theo y học Ayurvedic cổ truyền, hành tây, tỏi, và các loại thực phẩm có vị hăng khác bị hạn chế vì được cho là kích thích quá mức các ham muốn. Hành tây và tỏi bị cấm trong các hệ thống Phật giáo cổ xưa vì người ăn chúng có mùi khó chịu rất mạnh. Thậm chí ngày nay, những người bị hội chứng ruột kích thích được đề xuất tránh xa hành tây và tỏi vì các loại thực vật có vị hăng có thể gây kích ứng nhiều hơn đến tình trạng của họ.
Có thể có nhiều lý do chính đáng để không ăn hành tây, nhưng không phải là tai tiếng gây vấn đề như một miếng bọt biển đầy mầm bệnh.

NỤ CƯỜI