a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Tư, 6 tháng 8, 2014

"Nhảy Múa dưới cơn mưa"

                                          
                                    


Lúc đó khoảng 8;30 sáng, phòng cấp cứu rất bận rộn. Một ông cụ khoảng trên 80 tuổi bước vào phòng và yêu cầu được cắt chỉ khâu ở ngón tay cái. Ông cu nói ông rất vội vì ông có một cuộc hẹn vào lúc 9 giờ. Tôi bắt mạch, đo huyết áp cho ông cụ xong, tôi bảo ông ngồi chờ vì tôi biết phài hơn một tiếng đồng hồ nữa mới có người đến cắt chỉ khâu cho ông. Tôi thấy ông nôn nóng nhìn đồng hồ nên tôi quyết định sẽ đích thân khám vết thương ở ngón tay cái của ông cụ. vì lúc đó tôi cũng không bận với một bịnh nhân nào khác cả.
  Khi khám tôi nhận thấy vết thương đã lành tốt vì vậy tôi đi lấy dụng cụ để tháo chỉ khâu ra và bôi thuốc vào vết thương cho ông cụ. Trong khi săn sóc vết thương cho ông cụ tôi hỏi ông là ông vội như vậy chắc là ông có môt cuộc hẹn với một bác sĩ khác sáng hôm nay phài không.
      Ông nói không phải vậy nhưng ông cần phải đi đến nhà dưỡng lão để ăn điểm tâm với bà cụ vợ của ông ở đó. Tôi hỏi thăm sức khỏe của bà cụ thì ông cho biết là bà đã ở viện dưỡng lão một thời gian khá lâu rồi và bà bị bịnh Alzheimer (bịnh mất trí nhớ ở người lớn tuổi). Khi nói chuyện tôi có hỏi ông cụ là liệu bà cụ có buồn không nếu ông đến trể một chút. Ông cụ nói bà ấy không còn biết ông là ai nữa và đã 5 năm nay rồi bà không còn nhận ra ông nữa. Tôi ngạc nhiên quá và hỏi ông cụ, " và Bác vẫn đến ăn sáng với Bác gái mỗi buồi sáng mặc dù Bác gái không còn biết Bác là ai nữa?" Ông cụ mĩm cười, vỗ nhẹ vào tay tôi rồi nói "Bà ấy không còn  biết tôi nữa nhưng tôi vẫn còn biết bà ấy là ai."
  Khi ông cụ bước ra khỏi phòng, tôi phải cố gắng lắm để khỏi bật khóc. Tôi vô cùng xúc động và thầm nghĩ, "Ước gì đời mình có được một tình yêu như thế!"

                                 
         

     Tình yêu thật sự không phải là tình yêu thân xác, cũng không phải là tình yêu lãng mạn.
     Tình yêu thật sự là sự chấp nhận tất cả những gì đang có, đã từng có, và sẽ có hoặc không.
Mỗi ngày bạn nhận được rất nhiều email và phần lớn là chuyện vui hoặc chuyện khôi hài; nhưng thỉnh thoảng cũng có những email mang theo những thông điệp có ý nghĩa như thế này. Và hôm nay tôi muốn được chia xẻ thông điệp này với các bạn.
Người hạnh phúc nhất không nhất thiết là người có được những điều tốt đẹp nhất, mà là người biết chấp nhận và sống một cách tốt đẹp nhất với những  gì mà mình có được. Tôi hy vọng bạn chia xẻ ý tưởng nay với những người mà bạn yêu mến.

      "Cuộc sống không phải là làm sao để chịu đựng cho qua cơn bão, mà là làm sao để biết nhảy múa dưới cơn mưa".

Thứ Hai, 4 tháng 8, 2014

TÔI BÁN THỜI GIAN.....!




                                                                                                                                                             



 
TÔI BÁN THỜI GIAN AI CÓ MUA
 

Tôi ước mình có cơn mơ đẹp
Ở chốn thiên thai có chị Hằng
Nằm nghe tiếng sáo vi vu thổi
Khúc nhạc tình si ôi đắm say
Nhưng khổ thân tôi toàn mộng ảo
Nên đời trừng phạt phải thức đêm
Nằm nghe tiếng lũ côn trùng réo

 
Rả rích từng cơn tiếng ểnh ương
Buồn nghe não nuột lòng cô lẻ
Chẳng biết thời gian có đắt không?
Ngày mai rãnh rổi mình rao bán
Một khắc đêm khuya một lạng vàng!
Đắc nhỉ? chắc là phải để dành làm của,

Tiệm net một giờ có năm ngàn !

Hương Phụng HD 83 – 86.


Thứ Bảy, 2 tháng 8, 2014

Dâu của tui dạy con kiểu Mỹ

                                        


Con trai tôi du học, sau khi tốt nghiệp thì định cư tại Mỹ, và đã kiếm cho tôi cô con dâu người Mỹ tên Susan. Hiện giờ, cháu trai Peter đã 3 tuổi. Mùa hè năm nay, con trai đăng ký visa "thăm người thân". Thời gian 3 tháng tôi lưu lại Mỹ, con dâu Susan có cách giáo dụccon cái làm tôi đây - người mẹ chồng - phải đại khai nhãn giới.



Phần 1: Không ăn thì cứ nhịn đói

Mỗi buổi sáng, sau khi Peter thức dậy, Susan để phần ăn sáng lên bàn và bận rộn làm việc khác. Peter sẽ tự mình leo lên chiếc ghế, uống sữa, ăn bánh sandwich, sau khi ăn no, nó sẽ tự về phòng của mình, tự tìm quần áo trên tủ, rồi tự lấy giày, tự mình mặc lên. Bất kể chỉ mới 3 tuổi thôi, vẫn chưa phân biệt rõ ràng mặt trái hay mặt phải của bít tất, giày trái hay giày phải.
Có một lần, Peter lại mặc ngược chiếc quần lên người, tôi vội vàng chạy đến muốn thay lại cho cháu, nhưng đã bị Susan cản lại. Nó nói, nếu cảm thấy không thoải mái tự cháu sẽ cởi ra, và mặc lại; nếu nó không cảm thấy không có gì là không thoải mái, vậy thì tùy. Và nguyên ngày đó, Peter mặc cái quần ngược đó chạy tới chạy lui, Susan như không thấy gì hết.

Một lần nữa, Peter ra ngoài chơi với cháu nhà hàng xóm, chưa được bao lâu thì nó chạy thở hổn hển về đến nhà, nói với Susan: “Mẹ ơi, Lusi nói cái quần của con mặc ngược rồi, đúng không? Lusi là con nhà hàng xóm, năm nay 5 tuổi. Susan mỉm cười nói: “Đúng vậy, con có muốn mặc lại không?” Peter gật gật đầu, tự mình cởi quần ra, xem tỉ mỉ rồi, bắt đầu mặc lại. Từ lần đó về sau, Peter không bao giờ mặc ngược quần nữa.
Tôi đã không kiềm được mà nhớ lại, cháu gái ngoại của tôi lúc 5 - 6 tuổi chưa biết dùng đũa, lúc học tiểu học còn chưa biết cột dây giày, và bây giờ đang theo trung học dạng ký túc xá, mỗi cuối tuần là đem một đống quần áo dơ về nhà.
Có một buổi trưa, Peter giận dỗi, không chịu ăn cơm. Susan la rầy mấy câu, Peter giận hờn đẩy khay cơm xuống đất, thức ăn trên khay rớt đầy trên đất. Susan nhìn Peter, giọng nói nghiêm khắc: “Xem ra con đúng là không muốn ăn thật! Nhớ lấy, từ giờ đến sáng mai, con không được ăn gì hết.” Peter gật gật đầu, kiên quyết trả lời: “Yes!” Và tôi chợt cười thầm, hai mẹ con này cứng đầu như nhau!
Buổi chiều, Susan bàn với tôi, nhờ tôi nấu món ăn Việt Nam cho bữa tối. Tôi lại thầm nghĩ, Peter đặc biệt thích món ăn Việt Nam, nhất định Susan thấy sáng nay cháu không ăn gì hết, nên muốn buổi tối cháu ăn ngon và nhiều hơn. Tôi bèn trổ tài nấu ăn, làm món sườn chua ngọt mà Peter thích nhất, món tôm, và còn dùng mì Ý để làm món mì kiểu Việt Nam mà Peter rất thích, người nhỏ nhỏ như thế mà có thể ăn được một tô lớn.
Bắt đầu bữa cơm tối, Peter vui mừng nhảy lên ghế ngồi. Susan đến lấy đi dĩa và nĩa của con, nói: “Chúng ta giao ước rồi phải không, hôm nay con không được ăn gì hết, chính con cũng đồng ý rồi đó.” Peter nhìn nét mặt nghiêm túc của người mẹ, “òa” lên khóc, vừa khóc vừa nói: “Mẹ ơi, con đói, con muốn ăn cơm.” “Không được, nói rồi là phải giữ lời.” Susan không một chút động lòng. Tôi thấy đau lòng muốn thay cháu cầu xin, nói đỡ lời dùm, nhưng thấy ánh mắt ra hiệu của con trai tôi. Nhớ lại lúc mới đến Mỹ, con trai có nói với tôi: “Ớ nước Mỹ, lúc cha mẹ giáo dục con cái, người ngoài không nên nhúng tay, bất kể là trưởng bối cũng không ngoại lệ.” Không còn cách nào, tôi chỉ còn giữ im lặng mà thôi. Bữa cơm đó, từ đầu đến cuối, Peter tội nghiệp chỉ ngồi chơi với chiếc xe mô hình, mắt trưng trừng nhìn ba người lớn chúng tôi ăn như hổ đói. Đến đó tôi mới biết dụng ý của Susan khi nhờ tôi nấu món Việt. Tôi tin rằng, lần sau, trong lúc Peter muốn giận hờn quăng liệng thức ăn, nhất định sẽ nghĩ đến kinh nghiệm bụng đói nhìn ba mẹ và bà nội ăn cao lương mỹ vị. Bụng đói không dễ chịu tí nào, huống chi là đối mặt với món mình thích ăn.

Buổi tối, tôi và Susan cùng đến chúc Peter ngủ ngon. Peter cẩn thận dè dặt hỏi: “Mẹ ơi, con đói lắm, giờ con có thể ăn món Việt không?” Susan mỉm cười lắc đầu, kiên quyết nói: “Không!” Peter nuốt nước miếng, lại hỏi: “Vậy để con ngủ dậy rồi khi mở mắt con được ăn chứ?” “Đương nhiên được rồi”, Susan thật dịu dàng khẽ đáp. Peter đã cười tươi hẳn ra.

Sau bài học này, Peter rất tích cực ăn cơm, nó không muốn vì “tuyệt thực” mà lỡ bữa ăn ngon, và chịu cực hình bụng đói. Mỗi lần nhìn thấy Peter ngoạm từng phần lớn thức ăn, lúc miệng và mặt dính đầy thức ăn, tôi lại nhớ đến cháu ngoại, hồi bằng tuổi Peter; mấy người cầm tô cơm đí theo sau đuôi nó, dỗ dành, mà nó còn chưa chịu ngoan ngoãn ăn, mà còn ra điều kiện: ăn xong chén cơm mua một kiện đồ chơi, ăn thêm một chén thì mua thêm một kiện đồ chơi…



Phần 2: Ăn miếng trả miếng


Có một lần, chúng tôi dắt Peter ra công viên chơi. Rất nhanh, Peter đã cùng hai cô bé chơi nấu ăn với nhau. Cái nồi nhỏ bằng mủ, cái xẻng nhỏ, cái thau nhỏ, những cái chén nhỏ xếp đầy trên đường. Bất ngờ, Peter tinh nghịch cầm cái nồi bằng nhựa lên, đập rất mạnh lên đầu một cô bé. Cô bé bần thần một lúc trước khi oà khóc thật lớn. Cháu gái kia thấy tình hình vậy cũng òa khóc theo. Đại khái, Peter cũng không nghĩ đến hậu quả nghiêm trọng như vậy sẽ xảy ra, đứng qua một bên, trợn mắt nhìn. Susan đi tới. Sau khi hiểu được đầu đuôi sự việc, nó không quát nạt một tiếng, cầm lấy cái nồi ấy, gõ mạnh một cái lên đầu Peter. Peter không phòng bị, té ngã xuống bãi cỏ, khóc nức nở. Susan hỏi Peter: “Đau không? Lần sau có còn làm thế nữa không?” Peter vừa khóc vừa lắc đầu. Tôi tin rằng, lần sau nó sẽ không làm thế nữa.

Cậu của Peter tặng cho cháu một chiếc xe đạp nhỏ, Peter rất thích, khư khư giữ làm bảo bối không cho ai đụng vào. Lusi cô bé trong xóm, là bạn thân của Peter, đã mấy lần thỉnh cầu Peter cho chạy thử chiếc xe nhỏ này, Peter không đồng ý. Một lần, mấy cháu đang chơi chung với nhau, Lusi thừa lúc Peter không để ý, lén lén nhảy lên chiếc xe và đạp mau đi. Khi biết ra, Peter rất phẫn nộ, đến méc mẹ. Susan đang ngồi nói chuyện và uống café với mẹ của những đứa nhỏ kia, liền mỉm cười trả lời con: “Chuyện của chúng con thì chúng con tự giải quyết, mẹ không xen vào được.” Peter bất lực quay đi. Một lát sau, Lusi chạy chiếc xe về. Vừa thấy Lusi, Peter lập tức chạy tới đẩy bạn té xuống đất, giật lại chiếc xe. Lusi ngồi bệt dưới đất, khóc ré lên. Susan ẵm Lusi dậy và dỗ dành một lát. Rất nhanh sau đó Lusi đã chơi vui vẻ lại với những bạn còn lại. Peter tự mình chạy xe tới lui một lát thì cảm thấy hơi nhàm chán, nhìn thấy những bạn kia chơi thật vui vẻ với nhau nên nó muốn tham gia chung. Nó chạy tới chỗ Susan, lầu bầu thưa: “Mẹ, con muốn chơi với Lusi và tụi nó.” Susan không đả động gì và trả lời: “Con tự kiếm mấy bạn ấy vậy!” "Mẹ ơi, mẹ đi với con nhen”, Peter thỉnh cầu. “Chuyện này không được rồi, lúc nãy con đã làm cho Lusi khóc, giờ con lại muốn chơi với mọi người, vậy con phải tự đi giải quyết vấn đề". Peter leo lên chiếc xe và chạy từ từ đến chỗ Lusi, lúc gần đến chỗ, thì nó lại quay ngược đi. Chạy tới lui mấy vòng như vậy, không biết từ lúc nào mà Peter và Lusi lại vui vẻ với nhau, hợp thành nhóm ồn ào.

Phần 3: Dạy dỗ chăm nom con cái là chuyện của cha mẹ nó



Song thân Susan, biết tôi đang ở Mỹ, nên lái xe từ California đến thăm chúng tôi. Nhà có khách tới, Peter rất hào hứng, chạy lên chạy xuống. Nó lấy cái thùng đựng đầy nước, rồi xách đi tới đi lui trong nhà. Susan cảnh cáo nó mấy lần rồi, rằng không được làm nước văng lung tung trong nhà. Peter để ngoài tai. Cuối cùng Peter đã làm nước đổ hết ra nền. Chưa thấy mình làm sai, Peter còn đắc ý dẫm đạp lên vũng nước, làm ướt hết quần áo. Tôi lập tức chạy đi lấy cây lau nhà để dọn dẹp. Susan giật lại cây lau nhà và đem đưa cho Peter, nói với nó: “Lau sàn cho khô, cởi đồ ướt ra và tự mình giặt sạch.” Peter không chịu vừa khóc vừa la. Susan không nói thêm lời nào, lập tức kéo nó đến phòng trữ đồ, đóng chặt cửa lại. Nghe từ bên trong tiếng khóc hoảng sợ của nó, tim tôi đau thắt lại, rất muốn chạy đến ẵm cháu ra. Bà ngoại của Peter lại cản tôi, nói: “Đó là chuyện của Susan". Một lát sau, Peter không khóc nữa, nó ở trong phòng trữ đồ hét thật lớn: “Mẹ ơi, con sai rồi!” Susan đứng ở ngoài hỏi: “Thế giờ con biết phải làm gì chưa?” “Con biết.” Susan mở cửa ra, Peter chạy từ phòng trữ đồ ra, nước mắt đầy mặt. Nó cầm cây lau nhà cao gấp đôi nó ra sức lau cho khô sàn nhà. Sau đó tự cởi quần áo dơ ra, xách trên tay, trần truồng chạy vô nhà tắm, hí hửng giặt đồ. Ông bà ngoại của nó nhìn vào thái độ kinh ngạc của tôi, thích thú mỉm cười. Sự việc này làm tôi cảm động vô cùng.
Ở rất nhiều gia đình Việt nam, cha mẹ giáo dục con cái thì thường phát sinh vấn đề “đại thế chiến”. Trẻ luôn luôn được ngoại nuông chiều, nội thì can ngăn, vợ chồng cãi nhau, gà bay chó chạy. Sau này, tôi và ông bà ngoại của Peter trong khi trò chuyện có nhắc đến chuyện này, một câu họ nói đã gây ấn tượng sâu sắc cho tôi: “Con trẻ là con cái của cha mẹ chúng, trước tiên phải tôn trọng cách giáo dục của cha mẹ". Đứa bé tuy còn nhỏ, nhưng thường mang tính nghịch ngợm bẩm sinh. Nếu quan sát thấy các thành viên trong gia đình có mâu thuẫn, nó sẽ nhạy bén lợi dụng sơ hở. Việc này không cải thiện hành vi của nó, và chẳng ích lợi gì cho nó. Ngược lại còn làm cho vấn đề càng nghiêm trọng hơn, thậm chí còn gây ra những vấn đề khác.

Ngoài ra, nếu các thành viên trong gia đình xung đột, không khí gia đình không hòa thuận, trẻ sẽ có cảm giác bất an, sự phát triển tâm lý của nó sẽ bị ảnh hưởng bất lợi. Cho nên, dù ông bà cha mẹ bất đồng về cách giáo dục con cháu, hay là vợ chồng có quan niệm giáo dục khác nhau, cũng không nên để lộ sự mâu thuẫn trước mặt con cái. Ông bà ngoại của Peter ở lại một tuần và chuẩn bị về Cali. Hai ngày trước khi đi, ông ngoại của Peter rất nghiêm túc hỏi con gái mình: “Peter muốn chiếc xe đào đất, ba có thể mua cho nó chứ?”. Susan suy nghĩ rồi nói: “Ba mẹ lần này đã mua cho nó đôi giày trượt băng làm quà rồi. Đợi đến Noel ba hãy mua chiếc xe đó cho nó!”

Tôi không biết ông ngoại của Peter nói như thế nào với thằng nhóc này, mà sau đó tôi dắt cháu đi siêu thị, nó chỉ tay vào món đồ chơi, khoe “Ông ngoại nói, đến Noel sẽ mua tặng cháu cái này” với giọng thích thú và mong đợi.
Susan nghiêm khắc với con như vậy nhưng Peter lại yêu thương mẹ hết mực. Khi chơi ở ngoài, cháu hay thu thập một số hoa lá mà cháu cho là đẹp rồi trịnh trọng tặng mẹ. Người ngoài tặng quà cho cháu, cháu luôn gọi mẹ cùng mở quà; có thức ăn ngon, cháu luôn để phần một nửa cho mẹ. Nghĩ đến nhiều đứa trẻ Việt Nam coi thường và lạnh nhạt đối xử đối với cha mẹ, tôi không thể không kính phục cô con dâu Tây này của tôi. Theo tôi, cách giáo dục con cái của bà mẹ Phương Tây này rất xứng đáng để các bà mẹ Phương Đông như tôi học theo

Thứ Hai, 28 tháng 7, 2014

TÌNH ĐẸP MÙA NHÃN CHÍN.

               




VUI LÒNG CLICK PLAY ĐỂ NGHE NHẠC.

Mối tình của Rousseau ở Chambéry


Bài và ảnh Võ Quang Yến
Aix-les-Bains và Chambéry là hai thành phố lớn vùng Rhône-Alpes miền đông nam nước Pháp. Nếu Aix-les-Bains lừng danh với thi sĩ Lamartine, Chambéry hãnh diện có một nhà văn hào bậc nhất Rousseau qua mối tình với bà nam trước Warens.

Tượng Quatre sans cul ở Chambéry
Thời La Mã, dân cư thành Chambéry tụ tập quanh đồi Lemencum kế cạnh. Ngày nay đồi mang tên Lemenc, ở trên có xây một nhà thờ mang ở dưới hầm hình tượng nghi lễ "Đặt vào áo quan" (Mise au tombeau) rất đẹp. Một truyện thần thoại để lại từ thế kỷ XVI kể từ một cái tháp luôn có một cây đèn soi sáng đường đi cho khách hành hương. Đồi được chọn lựa là nơi dễ phòng thủ. Đến mùa tuyết tan, hẻm núi quanh đồi ứ đọng nhiều nước nếu không là lấm láp bùn lầy. Hai con sông Leysse và l'Albanne (ngày nay bị lấp, để lại hai vòi nước ở Quảng trường Saint-Léger) trà trộn đóng góp một điểm hữu tình nước non. Nhưng phải đợi qua các thế kỷ XII-XIII mới thấy thị trấn thành hình. Trong hơn 300 năm, từ 1232 đến 1562, Chambéry là kinh đô vùng đất những công tước Savoie, lớn thứ nhì sau thành phố Turin. Từ 1792 đến 1815, khi Savoie lần thứ nhất sáp nhập nước Pháp, Chambéry là tỉnh lỵ tỉnh Mont-Blanc. Qua 1860, Savoie hoàn toàn thuộc Pháp, Chambéry trở thành tỉnh lỵ tỉnh Savoie. Một trăm năm sau, thành phố phồng to nhờ hợp nhất những làng xóm kế cạnh. dần dần trở thành thủ phủ cả một vùng rộng lớn, không phải tình cờ mà nhờ ưu thế những trục giao thông giữa vùng Rhône, Thụy Sĩ và Ý. Những công tước Savoie từ thế kỷ XIV đã thấu hiểu thế lợi địa dư nhắm hướng hồ Léman nên đã chinh phục thành phố Genève. Ngày nay, địa thế nầy vẫn còn giữ vai trò chiến lược với một hệ thống đường sắt ngày càng mở mang : trục quốc tế từ Paris hay Lyon qua Ý xuyên qua đường hầm Fréjus, những tuyến địa phương dẫn vào những thung lũng Haute-Savoie tràn đầy cảnh núi non hùng vĩ hay lên những trạm trượt tuyết vùng Tarentaise và Maurienne nhộn nhịp mùa đông. Song song có những xa lộ chạy theo những đường rầy cũ thời xưa....
Mai tuyết lạnh
Chiều khói buồn
Chambéry 1949
Chambéry đối với tôi là một kỷ niệm xa xăm nhưng biết bao trìu mến. Năm 1949, vào tuổi 20, mới đặt chân lên đất Pháp, tôi đươc gởi về đây học lớp dự bị đại học. Xa nhà, xa nước, ngôn ngữ chưa thành thạo, lại là lần đầu tiên tôi được nếm mùi tuyết lạnh, những giờ cô đơn trong khói chiều, biết bao hình ảnh còn vấn vương khi tôi trở về đây hơn 60 năm sau. Trong đầu tôi luôn còn văng vẳng bài hát Etoile des neiges (Ngôi sao tuyết) tuy tim tôi chưa có dính một mối tình nào (một câu trong bài hát : mon coeur amoureux...). Tôi xúc động khi buớc qua lâu đài các công tước Savoie ví chính ở đây bọn sinh viên mới "bị "những sinh viên cũ "bắt nạt" trong một buổi lễ nhập môn truyền thống gọi là bizutage ngày nay còn thịnh hành nhưng trong một tinh thần có phần khác. Ngoài những màn như mặc ngược áo, đo sân nhà trường với những que diêm, làm xe cút-kít lần xuống các bậc thang,... trò được công chúng lại xem và thưởng thức nhiều nhất là chúng tôi được phát mỗi đứa một mẫu giấy ráp bột thuỷ tinh và có nhiệm vụ chùi mài vòi tượng bốn con voi. Đây là một trong những công trình tượng trưng đặt ở trung tâm thành phố : một đài nước, ở trong có bình đồ một thánh giá Savoie, gồm bốn đầu voi bằng gang không thân không đít (tên dân gian : Quatre sans cul), vòi phun nước trong một bể cạn bát giác. Đài mang ở giữa một cột trụ bằng đá vôi hình thân cây cọ cao 17,65m, ở trên có tượng vị ân nhân Tướng de Boigne. Xây năm 1838, đài kỷ niệm nầy nằm trên đại lộ dẫn lại lâu đài các công tước Savoie. Trong lúc bọn sinh viên mới cầm cù chùi mài, vài sinh viên viên cũ đi quanh, vận dụng một cái roi điện tử cho phát ra những tiếng động long trời (nhưng không có chút tác động lên cơ thể) gây hoảng sợ cho những khán giả ít biết về khoa học. Buôi lễ chấm dứt với một bữa cơm chung giữa các sinh viên cũ và mới ở Maison des Jeunes, đạm bạc nhưng rất thân mật, vui vẻ.

Les Charmettes
ngày nay
ngày xưa
Trước đây gần ba thế kỷ, một chàng trai không gia đình, không tiền bạc, cũng đã lại đây bắt đầu cuộc sống của mình. Chàng trai ấy là Jean-Jacques Rousseau, viết chữ Trung Quốc, đọc âm Hán Việt là Lư Thoa, tên được các cụ nhà ta lúc trước biết đến như Mạnh Đức Tư Cưu Montesquieu, Lã Phụng Tiên Lafontaine, Phúc Lộc Nhĩ Voltaire...
Ngồi buồn ta nhớ ông Lư Thoa
Dân ước nhân quyền ông xướng ra
Ông sinh thế kỷ thứ mười tám
Hai trăm năm nay đời đã qua...
         Tản Đà, Hữu Thanh 1921
Sinh ngày 28 tháng sáu năm 1712 ở Genève, Jean-Jacques Rousseau vừa là một nhà văn, một nhà triết lý vừa là một nhạc sĩ có tài. Đời sống của ông là một dãy dài năm tháng lẫn lộn độc lập, thất thuờng, vui thương, buồn tủi. Năm 16 tuổi, ông rời Genève qua Savoie để được bổ túc giáo dục và khai tâm tình ái trước lúc lên Paris dấn thân vào sự nghiệp. Sống kham khổ, ông có với bà Thérèse Levasseur năm đứa con đều gởi vào nhà "Con trẻ Nhặt được". Gặp Diderot, ông viết nhiều bài về âm nhạc cho bộ Bách khoa toàn thư. Ông bước vào địa hạt lịch sử những tư tưởng với những tiểu luận :Luận văn về khoa học và nghệ thuật (1750), Luận văn vể nguồn gốc và nền tảng sự bất bình đẳng trong loài người (1755). Trong các tiểu luận nầy, ông cho đối lập trạng thái thiên nhiên phát sinh hạnh phúc cho nhân loại và trạng thái xã hội gây nguồn cho mọi bất bình khắp thế gian. Ông tiếp tục suy nghĩ về cách vận hành của một xã hội dân chủ dựa lên khế ước xã hội(1762) trong ấy nhân dân toàn quyền tổ chức đời sống công cộng. Trong cuốn Emile, ou De l'éducation (1762), ông luận bàn về giáo dục dựa lên sự bảo tồn những đức tính thiên nhiên của con trẻ và dạy dỗ những nhận thức cụ thể thay vì những kiến thức sách vở. Trong lãnh vực văn học, đóng góp của ông rất lớn với cuốn Julie ou la Nouvelle Hélọse (1761) là cuốn sách có số lượng xuất bản lớn nhất thế kỷ với cách miêu tả tiền lãng mạn những ý thức về tình ái và thiên nhiên. Xuất bản sau khi ông mất như ông muốn, những tập Les Confessions (soạn thảo 1765-1770, in 1782, 1789), LesRêveries du promeneur solitaire (soạn thảo 1776-1778, in 1782) với những nhận xét sâu xa, những tình cảm mật thiết, được xem như là những tự truyện. Gặp nhiều khó khăn trong cuộc giao tiếp, ông sống ẩn náu, sau cùng trở về lại Thụy Sĩ năm 1762 khi những tác phẩm của ông bị Pháp viện Paris lên án. Ông quyết định viết tự truyện để bào chữa, trở về lại Paris, chép nhạc mà sống. Ông từ trần năm 1778 ở Ermenonville, tỉnh Oise vùng Picardie ở Pháp, hưởng thọ 66 tuổi. Thi hài ông được đưa vào điện Panthéon trong thời kỳ Cách Mạng Pháp 1794. Nhân dân Pháp đã biết đánh giá cao ảnh hưởng của ông vừa trong triết lý chính trị với những suy nghĩ sâu sắc về nền dân chủ, vừa trong lãnh vực văn chương, trong những thái độ mà năng lực cảm giác phát triển cùng phong trào lãng mạn.

Vườn Les Charmettes
Thế là đang học nghề chạm khắc khó khăn ở Genève, mồ côi mẹ từ thuở mới sinh, sau khi ông cha lập lại gia đình với một bà vợ khác, Jean-Jacques Rousseau bỏ học, một mình, túi rỗng, tay không, đi bộ vượt biên thùy qua Pháp, đến Savoie. Ông linh mục Benoit de Pontverre, một người hằng mong quy chàng trẻ Tin lành về đạo Cơ đốc, giới thiệu ông lại bà Françoise-Louise de Warens ở Annecy. Sinh ra ở Vevey năm 1699, bà là con nhà quý phái Tin lành. Năm 13 tuổi Louise Eléonore de la Tour du Pil lấy ông sĩ quan Warens 25 tuổi và trở thành bà nam tước Françoise Louise de Warens. Không chịu nổi cuộc sống với ông chồng quí phái và giàu có ở tổng Vaud, bà chạy sang ẩn náu ở Savoie, cạnh Quốc vương Piémont. Năm 1726, sau khi quy về đạo Cơ đốc, bà được Quốc vương bảo trợ, trả cho một số tiền phụ cấp và giao phó cho bà nhiệm vụ quy về đạo Cơ đốc những người Thụy Sĩ có đạo Tin lành mà hồi đó Genève là kinh đô. Bà là một phụ nữ ham muốn kinh doanh. Ở Vevey, bà xây dựng một hãng sản xuất tất lụa. và nghe nói bà bỏ đi mang theo quỹ của hãng. Ở Annecy bà có dự án một xưởng chế tạo nhưng không thành hình. Ở Chambéry, bà thành lập một Vườn cây Hoàng gia bên cạnh một Trường Dược học, lao mình vào cuộc chế biến xà phòng và sôcôla, bỏ công khai thác những mỏ than và mỏ kim loại .... Bà hái lượm nhiều cây cỏ, chế tạo những loại rượu cồn ngọt, nhựa thơm.... Bà tự hào biết được nhiều bí truyền để chế tạo những linh dược,... Tuy sống giữa những người tán tỉnh, xu nịnh, bà tỏ rất thông hiểu và phân biệt những mối tốt xấu trong vấn đề buôn bán. Victor-Amédée II, công tước Savoie và Quốc vương Sardaigne đề nghị bà làm thám tử mật và bà đã thành công trong vài sứ mệnh tế nhị, hợp tác với người thư ký đồng thời tình nhân Claude Anet. Vượt núi Alpes đi lại nhiều lần giữa Savoie và Ý, bà thường trú lại trong lâu đài ở Turin, nơi những hoàng thân công tử tổ chức liên miên tiệc tùng và mỗi lần niềm nở đón nhận cô nữ điệp viên xinh đẹp không nề hà chia sẻ cuộc vui.

Hai phòng ngủ của Françoise và Jean-Jacques
Jean-Jacques chờ đợi gặp một bà lớn tuổi, nghiêm trang đạo mạo. Nhưng không, hôm lễ hội Cành năm 1728, bà hiện ra trước chàng dưới dạng một thiếu phụ trẻ 28 tuổi, mặt mày yêu kiều, đôi mắt êm dịu, nước da lộng lẫy, một người đàn bà làm choáng mắt chàng trai. "Nàng có một sắc đẹp không bao giờ tàn vì sắc đẹp nầy thể hiện trong diện mạo chứ không phải trong nét mặt, một diện mạo vào thời rạng rỡ đầu tiên. Nàng có một dáng điệu mơn trớn, dịu dàng, một lối nhìn hiền lành, một nụ cười tiên nữ, một lỗ miệng vừa tầm miệng tôi, những mớ tóc màu tro tuyệt sắc mà nàng biết lơ đễnh uốn nắn cho thành sắc sảo". (Confessions, Livre II). Thiếu thốn tình mẫu tử, ("Mẹ tôi chết vì tôi và ngày sinh của tôi là mối họa đầu của tôi ") (ConfessionsLivre I), Jean-Jacques đắm mình vào phong cách đón tiếp nồng hậu của Françoise, tận hưởng cái thú của một mối ái tình thuần khiết. Jean-Jacques gọi Françoise là "Mẹ" (Maman), Françoise gọi Jean-Jacques là "Bé" (Petit). Có khi chàng trai cảm thấy chướng, thử rời đi nhưng nàng đã thành thần tượng, chàng không sao bỏ được ý đồ chạy trốn. Năm 1732, vào lúc Jean-Jacques lên 20 tuổi, Françoise dọn về một cái nhà ở Chambéry. "Mẹ" tiếp tục hoàn thiện giáo dục cho "Bé" về văn chương, toán học cũng như nhạc học. Kiến thức về nhạc của Jean-Jacques lên cao để sau nầy ông viết được nhều bài về nhạc cho bộ Bách khoa toàn thư, sáng tạo một hệ thống ký pháp nhạc học, sáng tác ngay cả hai nhạc kich opéra. Cả hai đều có dự phần vào vài buổi hòa nhạc nhỏ. Để kiếm chút ít tiền túi, Jean-Jacques dạy nhạc cho vài cô gái con các bà bạn Françoise. Thế rồi, chàng trai lọt vào mắt một trong mấy cô gái kia. "Mẹ" thấy "Bé" đã lớn lên thành người và sợ không chóng thì chầy thế nào cũng có cô bứng đi. Cách hay nhất để giữ anh chàng lại với mình là đối xử anh như một người tình ! Jean-Jacques tỏ ra nuối tiếc thái độ nầy. "Nàng đã đối với tôi hơn là một người chị, hơn là một người mẹ, ngay hơn cả một người tình ; vì vậy mà nàng không phải là một nhân tình. Nói cho cùng, tôi yêu nàng quá sức để thèm muốn nàng. Trong đầu óc tôi không thể rõ ràng hơn....Tôi tự xem như đã phạm tội loạn luân. Hai ba lần, khi rung cảm ôm ép nàng trong cánh tay, nước mắt tôi ràng rụa..." Khi biết Jean-Jacques và Françoise trở nên tình nhân, anh thư ký Claude Anet bỏ đi và năm 1734 uống thuốc laudanum có thể xem như là tự tử.
Tượng Jean-Jacques Rousseau
ở Chambéry
ở Les Charmettes
  Năm 1736, tài chánh trở nên eo hẹp, theo đề nghị của Jean-Jacques, Françoise thuê một cái nhà nhỏ không xa Chambéry bao lăm. "Sau khi tìm kiếm, chúng tôi chấm một ngôi nhà ở Les Charmettes trên đất ông Conzié, ngay ở ngoài cửa Chambéry, kín đáo và hiu quạnh như ở xa một nghìn dặm. Giữa hai ngọn đồi khá cao, chạy dài một thung nhỏ, dưới đáy len một cái rãnh giữa sạn đá và cỏ cây. Dọc theo thung, lưng chừng đồi, lác đác vài ngôi nhà, thật thích thú cho ai ưa thích một nơi ẩn trú hẻo lánh và có phần hoang dã." (Les Confessions, Livre V). Chỗ chọn lựa đúng theo sở thích vì sau nầy nhớ lại, Jean-Jacques luôn còn giữ một kỷ niệm êm đềm. "Tôi khuyên Mẹ về ở nhà quê. Một ngôi nhà đơn độc trên một sườn thung là nơi nương náu của chúng tôi và cũng là nơi trong thời gian bốn hay năm năm tôi đã hưởng thụ một thế kỷ cuộc sống với một hạnh phúc tràn đầy, cao quý." (Les Rêveries du promeneur solitaire, 10ème promenade). Thật vậy, từ 1736 đến 1740, ở một nơi hiền hòa êm dịu, với một người bạn đường yêu thương, những môn giải trí đơn giản như dạo chơi, đọc sách, chơi nhạc là đủ đem lại hạnh phúc cho Jean-Jacques. Trong hai cuốn Les Confessions Livres V,VI và trong những dòng cuối Les Rêveries du promeneur solitaire, chàng liên miên kể lại chuổi ngày đằm thắm cạnh Françoise. Tại nơi ẩn náu nầy, Jean-Jacques đã khám phá ra ái tình với một người chàng từng gọi là "Mẹ" và trở nên nhân vật nhạy cảm dễ gây xúc động và ái mộ trong lòng thanh niên lãng mạn. Ngày nay, đặt chân đến Les Charmettes, trở thành Viện bảo tàng và nơi hành hương sau Cách Mạng nước Pháp, chìm đắm trong bầu không khí đặc biệt, khách dễ dàng đi ngược thời gian 300 năm sống lại hạnh phúc của chàng Jean-Jacques trẻ tuổi. Cái bàn thờ nhỏ trên cầu thang nối liền với tầng nhất, phòng Jean-Jacques có hốc kê giường, phòng Françoise hướng về Chambéry qua cửa sổ, phòng khách mở ra thềm nhà dẫn vào vườn,...mỗi một chi tiết kể lại một màn sống của đôi nhân tình lãng mạn.

Françoise Warens
ảnh internet
Vườn Les Charmettes dính ngay sát nhà, kiểu Pháp, phong cách thế kỷ XVIII, gồm có bốn hình vuông trồng cây. Jean-Jacques và François trồng khoảng 80 loại cây thông dụng hay đã quên, phần lớn là cây thuốc, cây gia vị, cây ăn rau và cây ăn trái. Đặc biệt ở cuối dưới vườn, một mảnh dành cho những thứ cây xưa các loại táo, lê, đào,... Phía trên, một vuờn nho gốc Savoie choáng cả một sườn đồi lớn khoảng 100m2, nhìn ra xa tầm mắt phóng đến dãy Charmant Som sừng sững. Cuộc chung đụng với cây cỏ nầy đã mở đường cho Jean-Jacques khi về già trở nên một nhà thực vật học mà tư tưởng tràn đầy tập LesRêveries du promeneur solitaire. Riêng vườn Les Charmettes đã chiếm đoạt hoàn toàn trái tim chàng trẻ si tình luôn mấy năm. Tuy nhiên, mặc dầu gần Françoise, Jean-Jacques cảm tấy cô đơn. Anh đọc sách nhiều, suy nghĩ nhiều, anh muốn trí tuệ trở thành chín chắn. "Mỗi khi đọc một tác giả, tôi tự đặt một thông lệ chấp nhận và theo dõi ý kiến của mỗi người nhưng không cho trà trộn với ý kiến của mình. Tôi tự bảo phải bắt đầu xây dựng một kho tư tưởng, đúng hay sai, nhưng minh bạch, trong lúc chờ đợi đầu óc tôi được cung cấp đủ để có thể so sánh và chọn lựa....Từ từ, tôi tự thấy tách riêng và đơn độc trong ngôi nhà ấy mà tôi đã là linh hồn, nơi gần như tôi sống hai mặt. Dần dần tôi quen tách rời những gì xảy ra trong nhà, ngay cả những người ở trong nhà ấy, và để tránh mọi rầy rà luôn tiếp, tôi tự nhốt mình trong sách vở hay mặc sức đi thở dài và khóc lóc giữa khu rừng. Tôi cảm thấy sự hiện diện cá nhân hay sự rời xa trái tim một người đàn bà quá thân kích thích nỗi đau của tôi và khi thôi không gặp nữa tôi cảm thấy cuộc chia lìa ít đau đớn hơn" (Les Confessions, Livre VI). Thấy sức khỏe của anh sụt dần, năm 1737, Françoise gởi Jean-Jacques đi khám bác sĩ Fizes ở Montpellier. Trong chuyến đi nầy anh làm quen với bà Larnage, lớn hơn anh 20 tuổi, đã có 10 đứa con, người sẽ hướng dẫn anh trong tình yêu xác thịt. Về lại Chambéry, anh không ngạc nhiên thấy một người khác đã chiếm chỗ trong tim bà Warens, người thợ làm tóc giả Jean Samuel Rodolphe Wintzenried. vừa mới quy về đạo Cơ đốc ...

Françoise và Jean-Jacques ở Les Charmettes
tranh minh họa những tập Les Confessions
Đã đến lúc Jean-Jacques biết mình phải rời tổ ấm. Năm 1740, sau ba năm hạnh phúc, Françoise tìm được cho anh một chân gia sư ở Lyon tại nhà ông sĩ quan quân cảnh de Mably. Trước đó một năm anh cho xuất bản tập thơ đầu tay được đánh giá là hoa mỹ, khoa trương Le verger de madame de Warens. Lyon không quá xa Chambéry, thỉnh thoảng anh về thăm chốn cũ nhưng như đàn đứt giây, mọi sự không còn như xưa. Anh mong vườn Les Chamettes chỉ còn là một kỷ niệm xa xôi. Năm 1743, không muốn cầm chân ở vai gia sư đơn điệu nữa để thử xa lánh hoàn toàn Les Charmettes, anh rời Lyon lên Paris bắt đầu một cuộc đời mới...
Verger cher à mon coeur, séjour de l'innocence,
Honneur des plus beaux jours que le ciel me dispense.
Solitude charmante, Asile de la paix ;
Puissé-je, heureux verger, ne vous quitter jamais...
(Le verger de madame de Warens, 1739)(Vườn cây quả thân thiết trong lòng tôi, nơi lưu lại của kẻ vô tội,
Làm rạng danh những ngày vui đẹp mà trời ban cho tôi.
Nổi cô đơn mê say, Nơi nương náu hòa bình ;
Vườn cây quả may mắn, làm thế nào để tôi chẳng bao giờ xa vườn.)
Hoa dừa cạn
Tem kỷ niệm 300 năm Jean-Jacques Rousseau
Tuy nhiên, mặc dầu có nhiều ham mê, say đắm khác trong đời, Jean-Jacques không bao giờ quên mối tình lớn nhất của chàng. Françoise Warans đã thành bất tử trong các tác phẩm của ông đến nỗi ba mươi lăm năm sau, trong tậpLes Confessions, ông muốn xây một "chấn song vàng" quanh nơi chàng đã gặp nàng. Ông kể trong cuốn Les Confessions Livre VI thế nào một kỷ niệm chia sẻ với người yêu đã gây ra trong tim ông những cảm giác sâu đậm. Một lần đi dạo rừng với một người bạn, ông bắt gặp một hoa dừa cạn (pervenche) màu hoa cà nhạt. Mối xúc động quá lớn để ông có thể dấu diếm, chỉ vì ba mươi năm trưóc, cũng trong một cuộc di dạo, Françoise thốt ra một câu : kìa xem hoa dừa cạn đã nở ! Về cuối đời, trong giấc mộng thứ 10 tập Rêveries du promeneur solitaire, ông thử tìm hiểu thái độ của Françoise trong một bản tỏ tình tuyệt đỉnh : "Hôm nay, ngày lễ Phục sinh, tôi làm quen với bà Warens đã đúng năm mươi năm. Hồi ấy nàng hai mươi tám tuổi, sinh ra với thế kỷ. Tôi chưa lên mười bảy và tuy tôi chưa biết, tính khí tôi chớm nở bắt đầu sưởi ấm tim tôi vốn sẵn chan hòa sinh lực. Nếu không có gì lạ khi nàng hiến lòng nhân từ cho một người linh hoạt nhưng hiền từ và khiêm tốn, bộ mặt dễ thương, ít lạ hơn là một người phụ nữ đẹp tràn đầy tài trí và duyên dáng gợi cảm cho tôi với những tình cảm thắm thiết mà tôi không nhận rõ..." Và ông luyến tiếc một mối tình dở dang : "Trong rất lâu trước lúc chiếm hữu nàng, tôi chỉ sống trong nàng và cho nàng. Ô, nếu tôi đáp ứng đủ lòng nàng cũng như nàng đáp ứng đủ lòng tôi ! Chúng tôi sẽ sống được với nhau biết bao ngày thanh bình và thú vị." Một một mối tình ngắn ngủi nhưng biết bao thắm thía. Như Julie, phu nhân nhà vật lý học Jacques Charles trở thành Elvire bất tử nhờ gặp được Lamartine, bà Warens may mắn để tên lại hậu thế nhờ có người tình mang tên Rousseau vì dù có đẹp như tiên cũng chưa chắc được ghi tên trong sách sử.
ROUSSEAU ET Mme DE WARENSLà-bas où le canal fredonne....
Au printemps de sa vie,
Il n'avait que seize ans.
Au printemps de l'année
Jours de Pâques Fleuries.
Lui qui n'aimait
Que le printemps
En toute chose
Il fit cette rencontre
Avec son égérie
En Annecy
Au printemps de sa vie
Au printemps de l'année
Là-bas où le canal fredonne....
Georgette Chevallier, 
Almanach des traditions savoyardes, Année 2012 Ed.
(Đằng kia, nơi kênh đào ngân nga... - Vào tuổi xuân đời chàng - Chàng chì lên mười sáu - Vào mùa xuân trong năm - Ngày Phục sinh Nở hoa. - Chàng chỉ yêu mùa xuân - Chàng gặp nàng cảm hứng - ở Annecy - Vào tuổi xuân đời chàng - Vào mùa xuân trong năm - Đằng kia, nơi kênh đào ngân nga...)

Kênh Thiou ở Annecy

Võ Quang Yến

Thế giới truyện chưởng Kim Dung ở Sà gòn trước năm 1975



Image




Khoảng năm 1960, tờ Dân Nguyện của ông chủ bút Hà Thành Thọ bỗng khởi đăng nhiều kỳ (feuilleton) cuốn tiểu thuyết võ hiệp Lam y nữ hiệp của Hồng Kông, một tác phẩm thuộc loại “tân trào võ hiệp tiểu thuyết” (danh từ của các nhà xuất bản Hồng Kông), nghĩa là nó khác với các loại “cựu trào” trước Chiến tranh thế giới thứ hai. 


Do mới và lạ, Lam y nữ hiệp được đông đảo độc giả đón nhận, khen hay, báo bán đắt như tôm tươi! Thấy “ngon ăn”, một tờ báo khác vung tiền “mua đứt” dịch giả cuốn Lam y nữ hiệp, mời ông này dịch bộ Lã Mai Nương. Từ đó, truyện chưởng Hồng Kông bắt đầu bùng nổ trên báo chí miền Nam VN, khi cùng lúc xuất hiện hai dịch giả Tiền Phong (thường gọi là “Sìn Phoóng”, tên Việt là Từ Khánh Phụng) ngoài 50 tuổi, người Minh Hương, và Tam Khôi (người gốc Hải Nam). Có thể tuyên bố Từ tiên sinh là vị sứ giả đầu tiên đưa truyện chưởng Kim Dung đến Sài Gòn qua bộ Bích huyết kiếm, còn Tam Khôi dịch bộ Anh hùng xạ điêu. Tờ Đồng Nai đăng nhiều kỳ truyện dịch của Tiền Phong (Cô gái Đồ Long), còn tờ Dân Việt khai thác tài dịch thuật của Tam Khôi, tờ Báo Mới, đăng bộ Thần điêu đại hiệp và hàng chục tờ báo (trong số đó có một số nhật báo Hoa ngữ như Thành Công, Tân Văn Khoải báo, Luân Đàn Mới, Nhân Nhân, Quang Hoa, Á Châu, Kiến Quốc...) đua nhau đăng truyện chưởng. “Có báo sắp khai tử, nhờ đăng Cô gái Đồ Long mà hồi sinh mãnh liệt, lượng phát hành tăng vọt”!


Tên truyện của Kim Dung được nhiều báo khai thác theo những cách khác nhau, như trường thiên tiểu thuyết Thiên long bát bộ, có báo đặt tên là A Tỷ Kiều Phong, báo thì đăng Lục mạch thần hiếm, có báo lại là Cô Tô Mộ Dung...

Image

Truyện chưởng (kiếm hiệp tân kỳ) đã làm cho nhiều người, nhất là thanh niên, say như điếu đổ, với những Võ lâm ngũ bá, Cô gái Đồ Long, Võ lâm tuyệt địa, Lưu Hương đạo soái, Tiếu ngạo giang hồ, Kiếm sĩ si tình, Giang hồ hiệp khách, Tướng cướp Liêu Đông, Lục mạch thần kiếm, Anh hùng xạ điêu, Thần điêu đại hiệp, Lộc Đỉnh Ký, Thiên long bát bộ... Từ Đài Loan, Hồng Kông, sách chưởng của những Mộ Dung Mỹ, Gia Cát Thanh Vân, cổ Long, Ngọa Long Sinh, Nhược Minh, Nam Kim Thạch, Độc Cô Hồng, Điển Ca, Kim Dung, Trần Thanh Vân, Trần Trung Vân... tràn vào Sài Gòn - Chợ Lớn qua tờ Minh Báo từ Hương Cảng (Hồng Kông), với hơn 30 nhà xuất bản (NXB) tranh nhau in truyện chưởng như An Hưng, An Thành, Bừng sống, Đại Hưng, Đông Hưng, Đông Phương, Hương Hoa, Quyền sống, Vui Sống, Vân Thành, Sông Hữu, Sông Xanh, Trung Thành, Trường Giang, Thành Phương, Thời Đại, Thế Kỷ, Tổ Hợp Tiến, Tổ Hợp sống...
Image

Có năm NXB in 5 bộ chưởng của Ngọa Long Sinh, trong đó có bộ dài tới 2.000 trang; có ít nhất sáu NXB in sách chưởng của Gia Cát Thanh Vân. Trong hơn mười bộ sách chưởng của cây bút này, có bộ Tứ hải quần hùng dài hơn 1.300 trang, bộ Đoạt hồng kỳ dài hơn 1.500 trang. Không hề kém cạnh, sách chưởng của Cổ Long được bốn NXB in khoảng 11 bộ, cộng chung lại gần 40 tập, tròm trèm 13.000 trang! Nổi bật hơn cả là truyện chưởng Kim Dung, đạt mức kỷ lục: hơn 20 bộ, trong đó Cô gái Đồ Long gồm 6 tập với 2.370 trang; Lục mạch thần kiếm (8 tập) cộng lại tới 2.400 trang; Anh hùng xạ điêu cũng 8 tập với 2.820 trang, còn Tiếu ngạo giang hồ có tới 15 tập với ngót 3.000 trang. Từ khi thể loại truyện chưởng tràn ngập Sài Gòn - Chợ Lớn, lập tức xuất hiện một “guồng máy dịch thuật”: Từ Khánh Vân, Từ Khánh Phụng, Thương Lan, Phan Cảnh Trung, Hàn Giang Nhạn, Phương Thảo, Khưu Văn, Dương Quân, Quần Ngọc, Lão Son Nhân, Điền Trung Tử, Lã Phi Khanh... Phan Cảnh Trung dịch ít nhất 10 bộ chuởng của sáu tác giả, in ở năm nhà xuất bản, trong khi đó chỉ từ năm 1969 đến 1973, riêng Thương Lan đã dịch không dưới 62 bộ chưởng của 5 tác giả, in ở 5 NXB khác nhau, còn Hàn Giang Nhạn thì dịch ít nhất 25 bộ truyện chưởng, in ở năm NXB (riêng sách chưởng Kim Dung là 14 bộ gồm 102 tập với ngót 25.000 trang)! Đặc biệt, bộ Ỷ thiên Đồ Long ký (tức Cô gái Đồ Long) của Kim Dung do Từ Khánh Phụng dịch (NXB Trung Thành - 1966) thu hút hàng trăm ngàn độc giả thuộc mọi tầng lớp.


Bên cạnh việc tranh nhau phóng tác, in truyện chưởng, cải biên truyện chưởng thành truyện tranh, viết truyện chưởng... giả, người ta còn bày ra những cuộc đàm luận, tranh cãi, phân tích, phê bình truyện chưởng, thậm chí một số nhà văn, nhà thơ, nhà báo ghiền truyện kiếm hiệp đến độ đã không ngần ngại lấy tên các nhân vât võ lâm làm bút danh như Lê Tất Điều (Kiều Phong), Nguyên Sa (Hư Trúc), Chu Tử (Kha Trấn Ác)...


Image

Các cao thủ võ lâm trong truyện chưởng Kim Dung như Lệnh Hồ Xung, Hoàng Dược Sư, Trương Vô Kỵ, Dương Quá, Đông Phương Bất Bại, Cừu Thiên Nhận, Âu Dương Phong, Vi Tiểu Bảo, Nhạc Bất Quần, Quách Tỉnh, Châu Bá Thông, Vương Trùng Dương... được giới trẻ coi như thần tượng, hoặc như những anh hùng hảo hán. Những tên nhân vật, chiêu thức võ công, ai cũng phải nằm lòng để không bi chê là... lạc hậu! Hai bộ chưởng Xác chết loạn giang hồ và Lệnh xé xác (dịch giả Lã Phi Khanh) luôn là vật bất ly thân, là sách “gối đầu giường” của không ít tay anh chị giang hồ thời đó. Chưa hết, từ khi truyện chưởng Kim Dung xuất hiện, khắp hang cùng ngõ hẹp ở Sài Gòn - Chợ Lớn, đi đâu cũng nghe những “tiếng lóng” nhuộm màu sắc võ lâm như: “Thằng cha đó bị tẩu hỏa nhập ma”; “Cà chán là tao cho một chưởng”; “Có cô gái Đồ Long lắc bầu cua, lắc một cái ra ba con gà mái”; “Gã đó chơi ma giáo”; “Cái bang đại hiệp”; “Ông này công phu thượng thừa, đao thương bất nhập” hoặc Nhất dương chỉ, Nhị thiên đường, Tam Tông Miếu, Tứ đổ tường, Ngũ vị hương, Lục tào xá...


Do sách, báo in tràn ngập truyện kiếm hiệp, đầy dẫy chiêu thức kỷ ảo, quái đản, bí hiểm như Ma Vân Chưởng, Hàn Băng Chưởng, Thất Thương Quyền, Hàm Mô Công, Giáng Long Thập Bát Chưởng, Nhất Dương Chỉ, Lăng Ba Vi Bộ... dẫn đến sự bùng nổ trào lưu thanh thiếu niên ùn ùn “tầm sư học đạo”. Một số võ đường dạy võ cổ truyền đang lèo tèo dăm bảy môn sinh, bỗng chốc học trò kéo đến nườm nượp xin thọ giáo, thầy tha hồ hốt bạc. Một số lò võ còn trương bảng chiêu sinh thường kèm luôn mấy chữ “Thiếu Lâm Nga Mi, Võ Đang, Côn Lôn”

Image

“Hội chứng truyện chưởng Kim Dung” ở miền Nam VN trước 1975 không chỉ mê hoặc bọn du đãng cướp giật ở Sài Gòn - Chợ Lớn mơ tưởng luyện thành tuyệt kỹ Bích hổ du tường (thằn lằn leo tường) nhằm dễ bề leo rào khoét vách, ôm mộng học được công phu Thủy thượng phiêu (chạy trên mặt nước) như nhân vật Cừu Thiên Nhận trong Anh hùng xạ điêu hòng thoát thân cho lẹ nếu chẳng may bị cảnh sát rượt mà còn lan sang giới chính khách.


Do quá nhập tâm truyện chưởng Kim Dung, lúc thảo luận, tranh luận, tọa đàm về đường lối kinh tế, ngoại giao, chính sách kinh tế, xã hội, an sinh... họ đều viện dẫn lý lẽ dựa trên các sự kiện, nhân vật... võ lâm trong truyện chưởng! Không chỉ “đi sâu vào thế giới Kim Dung”, nhiều người còn bỏ công sức, tiền của tổ chức các buổi “loạn đàm” về tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung và sản phẩm của họ không chỉ là các bài báo lẻ tẻ mà có khi là sách, là công trình chuyên khảo về truyện chưởng Kim Dung hẳn hoi như Vô Kỵ giữa chúng ta của Đỗ Long Vân (NXB Trình Bày -1968); Nỗi băn khoăn của Kim Dung (Nguyễn Mộng Giác, NXB Văn Mới - 1972).


Một vài hãng phim ở Sài Gòn thấy đề tài kiếm hiệp “ngon ăn”, vội nhảy vào khai thác; sau Báu kiếm rửa hận thù, xuất hiện phim Quái nữ Việt quyền đạo do hãng Mỹ Vân thực hiện (đạo diễn Lê Mộng Hoàng, kịch bản Lê Khanh) với bốn “quái nữ” gồm Thanh Nga, Lệ Hoa, Á hậu Ngọc Tuyết, Ngọc Dung cùng Thanh Việt, Văn Chung, Khả Năng, Thanh Hoài, Tùng Lâm, Xuân Phát, Bảo Quốc, Kim Ngọc, Kim Cúc, Năm Châu, chỉ đạo võ thuật: Lý Huỳnh; Long hổ sát đấu do hãng phim Cửu Long thực hiện (chỉ đạo võ thuật là võ sư Hồng Kông Hàn Anh Kiệt và Lý Huỳnh) với các nghệ sĩ Trần Quang, Hoàng Long, Việt Hùng, Bạch Lan Thanh, Ngọc ĐanThanh, Ba Vân, Lý Huỳnh...

Lượm lặt

Bí Quyết Lãnh Đạo Của Alecxander Đại Đế

                                      

Sau khi đã thống trị Hy Lạp cổ đại, Alecxander Đại Đế quyết tâm chinh phục xứ sở Ba Tư. Đường xa hiểm trở, cả đoàn quân phải dừng lại trước một vùng núi đá rét buốt quanh năm.

Cảnh tuyết giá mênh mông ngút ngàn làm tất cả vô cùng hoảng sợ. Các binh sĩ không chịu tiến bước vì với họ, tiến lên chỉ là nhanh chân đi về “bên kia thế giới”
Trong tình thế như vậy, Alecxander không đề nghị phạt một ai. Ông xuống ngựa và tiến thẳng một mình lên vùng băng tuyết.

Những cận thần của ông thấy thế làm theo, rồi lần lượt các tướng tá, binh sĩ cũng nhanh chân bắt kịp đoàn. Không những vậy, nhà vua còn cầm rìu phá băng, mở đường đi qua vùng “đất trắng”. Sau vài giờ, họ vượt qua được rặng núi hiểm nguy đó và tới được một địa điểm có lửa và con người sinh sống. Cả đoàn quân an toàn tuyệt đối.

Trên đây chỉ là một trong hàng trăm câu chuyện chứng minh tài lãnh đạo siêu việt của Alecxander Đại Đế. Trên lý thuyết, trong tình huống này, ông có thể dùng uy quyền lãnh đạo của mình để bắt các binh sĩ phải tiến bước, thậm chí có thể bắt binh sĩ phải “mở đường máu”.
Nhưng ông hiểu rằng: không có sự truyền cảm hứng nào của nhà quản lý mạnh mẽ và hiệu quả bằng tính gương mẫu, nhà lãnh đạo “đã nói được là phải làm được”.

Thật vậy, những nhà lãnh đạo tài ba được định nghĩa là:
• Dám tạo ra sự khác biệt.
• Quyết tâm hành động trong khi những người khác e dè.
• Lời nói đi đôi với hành động.
• Người bình thường với những tư tưởng khác thường.
• Biến ước mơ thành hiện thực.
• Nhận biết trước những sự thay đổi và vạch ra con đường đúng đắn nhất.
• Vinh dự cao cả nhất của họ không phải là không bao giờ thất bại mà là biết đứng lên sau mỗi thất bại đó.

Chữ LEADER (người lãnh đạo) được đúc kết từ những yếu tố sau:
• L (Learning - Học hỏi): Họ chắc chắn phải học hỏi được rất nhiều điều từ những thất bại. Họ phải trải nghiệm thất bại bởi họ luôn luôn hành động. Nhưng, chính những thất bại đó sẽ mang đến cơ hội thành công cho họ vì họ rút ra được kinh nghiệm “xương máu” cho mình.

• E (Excitement - Sự sôi nổi, nhiệt huyết): Họ luôn sôi nổi và nhiệt huyết với những tư tưởng, tầm nhìn của mình và có khả năng truyền những nhiệt huyết đó đến cho mọi người.

• A (Asking – Biết đặt câu hỏi “Ai, khi nào, tại sao và điều gì xảy ra nếu...”): Họ luôn đặt ra những câu hỏi, thích nghi nhanh và quyết định về các đề án hành động khả thi nhất.

• D (Decisiveness - Quyết đoán): Họ phải hành động, quyết đoán và chịu mọi trách nhiệm về các quyết định của mình. Họ phải biết rõ những quyết định nào là cần thiết vì sự phát triển của công ty.

• E (Elevation – Khích lệ, khuyến khích): Họ luôn biết cách làm phấn chấn tinh thần nhân viên. Họ hiểu rõ tập thể sở hữu một sức mạnh to lớn. Họ luôn tìm kiếm những nhân viên tiềm năng, động viên, khích lệ, khen thưởng và thăng chức cho những con người xuất sắc đó.

• R (Risk - Mạo hiểm): Đôi khi họ sẽ đi ngược với con đường của đại đa số, nghĩ đến những điều không ai nghĩ ra được và chia sẻ truyền thụ đến những người xung quanh. Nếu đám đông không đồng ý, nhà lãnh đạo vẫn cương quyết đeo đuổi ý tưởng của mình với niềm tin tuyệt đối. Nhà lãnh đạo giỏi là người biết chấp nhận rủi ro và mạo hiểm.

Hãy thong thả Sống


Nhiều khi chúng ta sống mà quên bẵng đi là mình có thể chết bất cứ lúc nào. Ta hối hả sống, vui, buồn, khỏe, yếu, ta cứ lướt qua rồi không ngoái đầu lại nhìn chuỗi ngày tháng ta đã tiêu hao của một đời người.
 
Cho đến khi có một người bạn vừa ngã bệnh, bệnh nặng, không biết sẽ mất đi lúc nào, lúc đó ta mới xa, gần, hốt hoảng gọi nhau. Tưởng như chưa từng có người bạn nào “Chết” bao giờ. Hay ta có một người thân trong gia đình, đang rất khỏe vừa báo tin bị bệnh hiểm nghèo. Gia đình, họ hàng cuống lên, sợ hãi như chưa nghe đến ai nói về cái chết bao giờ, chưa chứng kiến cảnh vào bệnh viện, cảnh tang ma bao giờ.
 
Cả hai người trên có thể đã ngoài 70 tuổi. Lạ thật! Cái tuổi nếu có chết thì cũng đã sống khá lâu trên đời rồi, sao những người chung quanh còn hoảng hốt thế. Hóa ra người ta, không ai muốn nghe đến chữ “Chết” dù chữ đó đến với mình hay với người thân của mình.
 
 
                                                   
  
 
 
Hình như không ai để ý đến mỗi sáng chúng ta thức dậy, nhìn thấy mặt trời mọc (nếu còn để ý đến mặt trời mọc) là chúng ta đã tiêu dùng cái ngày hôm qua của đời sống mình. Có người vì công việc làm ăn, cả tuần mới có thời giờ ngửng mặt nhìn lên mặt trời. Buổi sáng còn tối đất đã hấp tấp ra đi, buổi chiều vội vã trở về lúc thành phố đã lên đèn, làm gì nhìn thấy mặt trời. Nhưng mặt trời vẫn nhìn thấy họ, vẫn đếm mỗi ngày trong đời họ. Họ tiêu mất cái vốn thời gian của mình lúc nào không biết. Tiêu dần dần vào cái vốn Trời cho mà đâu có hay. Rồi một hôm nào đó bỗng nhìn kỹ trong gương, thấy mình trắng tóc. Hốt hoảng, tiếc thời gian quá! Khi nghe tin những người bạn bằng tuổi mình, bệnh tật đến, từ từ theo nhau rơi xuống nhanh như mặt trời rơi xuống nước, họ vừa thương tiếc bạn vừa nghĩ đến phiên mình.
 
Thật ra, nếu chúng ta bình tâm nghĩ lại một chút, sẽ thấy “Cái chết” nó cũng đến tự nhiên như “Cái sống” . Đơn giản, mình phải hiểu giữa sống và chết là một sự liên hệ mật thiết, vì lúc nào cái chết cũng đi song song từng ngày với cái sống.
 
                                                  
  
 
 
Dẫu biết rằng, đôi khi có những cái chết đến quá sớm, nhưng ta cũng đâu có quyền từ khước chết.
 
Tôi biết có người mẹ trẻ, con của bạn thân tôi. Chị bị ung thư, chị cầu xin Thượng Đế cho sống đến khi đứa con duy nhất của mình vào Đại Học. Chị không cưỡng lại cái chết, chị chỉ mặc cả với Thượng Đế về thời gian vì con chị lúc đó mới lên 3 tuổi. Thượng Đế đã nhận lời chị. Ngày con chị tốt nghiệp Trung Học, chị ngồi xe lăn đi dự lễ ra trường của con và tuần lễ sau chị qua đời. Trong suốt mười mấy năm trị bệnh, chị vẫn làm đủ mọi việc: chị đội tóc giả đi làm, đến sở đều đặn, lấy ngày nghỉ hè và ngày nghỉ bệnh đi trị liệu.
 
Những bạn làm chung không ai biết chị bị ung thư, ngay cả xếp của chị. Khi họ biết ra, thì là lúc chị không đứng được trên đôi chân mình nữa. Chị sửa soạn từng ngày cho cái chết với nụ cười trên môi. Vẫn vừa đi làm, vừa cơm nước cho chồng con, ân cần săn sóc cha mẹ, hiền hòa giúp đỡ anh em trong nhà, chị mang niềm tin đến cho tất cả những người thân yêu của mình. Sau ba năm chị mất, cậu con trai mỗi năm vẫn nhận được một tấm thiệp sinh nhật mẹ viết cho mình (Mẹ đã nhờ qua người dì gửi hộ). Hôm sinh nhật 21 tuổi của cậu cũng vào ngày giỗ năm thứ ba của Mẹ, cậu nhận được tấm thiệp mừng sinh nhật mình, với dòng chữ nguệch ngoạc, chị viết cho con: Mừng sinh nhật thứ 21 của con. Hãy bước vui trong đời sống và nhớ rằng mẹ luôn luôn bên cạnh con. Tôi đọc những dòng chữ mà ứa nước mắt.
 
Tôi nghĩ đến chị với tất cả lòng cảm phục. Chị là người biết sống trong nỗi chết. Khi không thắng được bệnh tật, chị biết hòa giải với nó để sống chậm lại với nó từng ngày cho con mình. Chắc “Cái chết” cũng nhân nhượng với chị, thông cảm với chị như một người bạn.
 
Một chị bạn kể cho nghe về một bà bạn khác. Bà này mới ngoài sáu mươi, nhanh nhẹn, khỏe mạnh và tính nết vui vẻ, yêu đời. Nhưng khi nào đi ra khỏi nhà bà cũng mang theo một bộ quần áo đặc biệt, đủ cả giầy vớ bỏ vào một cái túi nhỏ riêng trong va-li. Hỏi bà, sao lại để bộ này ra riêng một gói vậy, bà thản nhiên nói:“Nếu tôi chết bất thình lình ở đâu, tôi có sẵn quần áo liệm, không phiền đến ai phải lo cho mình.” Bà mang theo như thế lâu lắm rồi, tôi không biết có khi nào bà ngắm nghía mãi, thấy chưa dùng tới, bà lại đổi một bộ mới khác cho ưng ý không? Giống như người phụ nữ sắp đi dự tiệc hay cầm lên, để xuống, thay đổi áo quần sao cho đẹp. Đi vào cái chết cũng có thể coi như đi dự một đám tiệc.
 
Tôi nghĩ đây là một người khôn ngoan, sẵn sàng cho cái chết mà bà biết nó sẽ đến bất cứ lúc nào. Bà đón nhận cái chết tự nhiên, giản dị như đi dự tiệc, hay một chuyến đi xa, đi gần, nào đó của mình.
 
                                                     

  
Nhưng không phải ai cũng nghĩ về cái chết giản dị như vậy. Phần đông muốn được sống lâu, nên bao giờ gặp nhau cũng thích chúc cho nhau tuổi thọ. Thích hỏi nhau ăn gì, uống gì cho trẻ trung mãi. Loài người nói chung, càng ngày càng thích sống hơn chết. Họ tìm kiếm đủ mọi phương thuốc để kéo dài tuổi thọ. Người ta ức đoán, trong một tương lai rất gần, loài người có thể sống đến 120 tuổi dễ dàng với những môn thuốc ngăn ngừa bệnh tật và bồi dưỡng sức khỏe.
 
  
                                                            
  
 
Rồi người ta sẽ còn tạo ra những bộ phận mới của nội tạng để thay thế cho những bộ phận gốc bị nhiễm bệnh. Gan, ruột, bao tử v.v, sẽ được thay như ta thay những phần máy móc của một cái xe cũ. Chúng ta, rồi sẽ sống chen chúc nhau trên mặt đất này.
 
Chỉ tiếc một điều là song song với việc khám phá ra thuốc trường thọ người ta cũng phải phát minh ra những người máy (robot) để chăm sóc những người già này, vì con cháu quá bận (chắc đang chúi đầu tìm thuốc trường sinh) không ai có thời giờ chăm sóc cha mẹ già. Theo tôi, ngắm nhìn hình ảnh một cụ ông hay một cụ bà lưng còng, tóc bạc, đang cô đơn ngồi trong một căn buồng trống vắng, được một người máy đút cơm vào miệng, thật khó mà cảm động, đôi khi còn cho ta cái cảm giác tủi thân nữa.
 
Nhưng sống như vậy mà có người vẫn thích sống. Một người đàn ông ngoài bẩy mươi, bị bệnh tim nặng, đang nằm trong phòng đặc biệt (ICU) lúc mơ màng tỉnh dậy, nhắn với các con cháu là khi nào vào thăm không ai được mặc áo mầu đen. Ông kiêng cữ mầu của thần chết. Ông quên rằng thần chết, đôi khi, có thể đến với chiếc áo mầu hồng
 
                                               
 
 
 
Thật ra, chính nhờ “cái chết” cho ta nhận biết là “cái sống” đẹp hơn và có giá trị hơn, dù có người sống rất cơ cực vẫn thấy cuộc đời là đẹp.
 
Những bậc thiên tài, những nhà văn lớn đã tự tìm về cái chết khi họ bắt đầu nhìn thấy cái vô vị trong đời sống như nhà văn Ernest Hemingway, Yasunari Kawabata và họa sĩ Vincent van Gogh, v.v… Chắc họ không muốn sống vì thấy mình không còn khả năng hưởng hết vẻ đẹp của “cái sống” nữa. Họ là một vài người trong số nhỏ trên mặt đất này sau khi chết để lại tên tuổi trên những trang sử, lưu lại hậu thế, còn phần đông nhân loại, sau khi chết một thời gian, không để lại một di tích nào. Con cháu có thờ cúng được một hai thế hệ, sau đó tên tuổi mờ dần, mất hẳn theo ngày tháng, vì chính những kẻ thờ phụng đó lại tiếp theo nằm xuống cùng cát bụi.
 
Ðời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích.(Thánh Vịnh)
 
Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu. Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng cần thông báo trước.
 
Chúng ta cứ thong thả sống từng ngày, khi nào chết thì chết, mặt trời mọc rồi mặt trời lặn, bông hoa nở rồi bông hoa tàn, thế thôi.
 
Tại sao ta phải cay cú với cái chết? Hãy dùng trí tưởng tượng của mình, thử hình dung ra một thế giới không có cái chết.
 
Chắc lúc đó chúng ta sẽ không còn không khí mà thở chứ đừng nghĩ đến có một phiến đất cho bàn chân đứng.
 
Trần Mộng Tú