a

THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU MỘT NĂM MỚI GIÁP THÌN AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

b

b
CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN HOÀNG DIỆU NĂM GIÁP THÌN VẠN SỰ NHƯ Ý - AN KHANG THỊNH VƯỢNG.

Thứ Năm, 1 tháng 8, 2024

THIÊN HẠ ĐỆ NHẤT HÙNG QUAN MỞ CỬA TRỞ LẠI SAU 2 NĂM TRÙNG TU.


Di tích Hải Vân Quan nằm giữa đèo Hải Vân hùng vĩ- nơi được mệnh danh là "thiên hạ đệ nhất hùng quan"- sau thời gian trùng tu sẽ mở cửa đón du khách tham quan miễn phí vào ngày mai, 1/8.
Hải Vân quan được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826), tọa lạc trên đỉnh đèo Hải Vân (Ải Vân, Ngãi Lãnh, Ải Vân Sơn, Ải Lĩnh…), phía Tây núi Hải Vân, chỗ giáp vai giữa hai ngọn Hải Vân Sơn (phía Đông) và Bà Sơn (phía Tây), ở độ cao 496m so với mặt nước biển, thuộc dãy núi Bạch Mã - Hải Vân nằm trên địa phận thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên Huế) và phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu (Tp. Đà Nẵng), cách trung tâm Tp. Huế khoảng 90km về phía Nam, trung tâm Tp. Đà Nẵng khoảng 28km về phía Bắc. Nhiều thư tịch cổ đã ghi lại vị trí và tầm quan trọng của núi Hải Vân và Hải Vân quan đều cho biết sự bao la hiểm trở của núi và ải Hải Vân, là một nơi xung yếu trên con đường từ Thuận Hóa đi vào Quảng Nam và đều có cửa ải, đặt binh canh giữ.
Trong lịch sử, trước năm 1306, vùng đất có đèo Hải Vân thuộc hai châu Ô, châu Lý của Vương quốc Champa. Sau sự kiện Huyền Trân công chúa nhà Trần lấy vua Chế Mân, đèo Hải Vân trở thành biên giới giữa hai nước Đại Việt và Champa. Năm 1402, nhà Hồ chia vùng đất Chiêm Động và Cổ Lũy thành bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đèo Hải Vân trở thành ranh giới giữa châu Hóa và lộ Thăng Hoa. Từ năm 1471, sau khi vua Lê Thánh Tông thân chinh Champa, đèo Hải Vân được lấy làm ranh giới giữa hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, trở thành một vị trí xung yếu, hết sức quan trọng trên con đường Thiên lý Bắc Nam, là mối quan tâm đặc biệt đối với nhiều triều đại.
Kể từ khi các chúa Nguyễn làm chủ Đàng Trong, đèo Hải Vân đã được coi là vị trí hiểm yếu, có tầm chiến lược hết sức quan trọng. Chúa Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) nhận định đây là “đất yết hầu của vùng Thuận Quảng”. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu (1692 - 1725), khi đi qua đèo Hải Vân đã cảm tác “Việt Nam hiểm ải thử sơn điên/Hình thế hỗn như Thục đạo thiên…” miêu tả khung cảnh hùng vĩ, hiểm trở…của nơi này. Năm 1774, tướng Hoàng Ngũ Phúc của chúa Trịnh đánh chiếm Phú Xuân đã cho đắp một bờ lũy cao chắn ngay đỉnh đèo Hải Vân gọi là Đỉnh Lũy. Vua Quang Trung (1788 - 1792) lấy núi Hải Vân làm nơi hội tụ quân sĩ để tiến đánh quân Trịnh ở Phú Xuân. Đến khi Nguyễn Ánh tiến quân ra Phú Xuân đã sai các tướng lĩnh “đến cửa ải Hải Vân theo chỗ hiểm mà đóng giữ”.
Triều Nguyễn thiết lập, Huế trở thành Kinh đô, đèo Hải Vân và núi Hải Vân ngày càng được coi trọng trong việc bảo vệ phía nam Kinh đô, đây là đài quan sát bao quát toàn bộ khu vực cả ở trên biển và trên đất liền và là yết hầu của đường bộ gần như duy nhất từ phía nam ra Huế, đồng thời khống chế được cả con đường biển đi qua dưới chân núi. Nhận thức được tầm quan trọng của ải Hải Vân, ngay từ thời Gia Long (1802 - 1820), triều đình đã cho đặt 4 dịch trạm tại huyện Phú Lộc và sửa đường lên đèo Hải Vân. Đến thời Minh Mạng (1820 - 1840), để khuyến khích người dân sinh sống ở vùng núi non hiểm trở này, nhà vua đã ban thưởng cho mỗi nhà dân ở đây một lạng bạc và xây đá thành bậc ở những đoạn đường dốc cho dễ đi lại.
Trước khi xây dựng Hải Vân quan, đèo Hải Vân đã được coi là vị trí xung yếu của Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế về quân sự cũng như giao thông bằng đường bộ, đó là cửa ngõ phía Nam của vùng đất này, nhưng chưa có công trình kiến trúc nào có tầm quan trọng và qui mô to lớn, vững chắc... được thực hiện tại nơi được đánh giá là một vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong hệ thống phòng thủ của Kinh đô Huế. Các đồn binh, trạm gác được bố trí trước thời điểm 1826 có qui mô nhỏ bé, đơn lẻ… không quá chú trọng về mặt quân sự như phòng thủ, bảo vệ đèo và đường trạm. Cho đến đầu thế kỉ XIX, Phú Xuân - Huế trở thành Kinh đô, đèo Hải Vân càng trở nên quan trọng, là cửa ngõ đi vào vùng kinh kỳ, cần phải tăng cường phòng ngự. Vì thế, tháng Hai năm Bính Tuất (1826), vua Minh Mạng xuống chỉ cho xây một cửa quan ở đỉnh đèo Hải Vân, cửa trước viết ba chữ Hải Vân Quan, cửa sau viết sáu chữ Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng Quan, hai bên tả hữu xếp đá làm tường, trước sau liền nhau. Từ đó, muốn vượt qua ải Hải Vân đều phải qua hai lần cửa xây bằng gạch vồ theo lối vòm cuốn, giống cửa ở kinh thành Huế, nhưng không có vọng lâu, bên trên cửa là sân thượng dùng để quan sát bốn phía, có xây bậc thang lên xuống. Công trình xây dựng trong vài tháng, do phủ Thừa Thiên và tỉnh Quảng Nam cùng thuê dân làm,sau đó triều đình phái biền binh chở súng ống theo viên tấn thủ đóng giữ. Về mặt quản lí và canh phòng Hải Vân quan do chính viên Đề đốc Kinh thành quản lí, dưới quyền quan Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Sau khi xây dựng xong cửa ải, triều đình chuẩn định từ cửa quan trở về Bắc thuộc quản hạt phủ Thừa Thiên, ngoài cửa quan trở về Nam thuộc quản hạt tỉnh Quảng Nam và ban hành các chính sách khuyến khích dân cư đến sinh sống từ chân núi đến đỉnh đèo, đồng thời dựng đền thờ thần núi Hải Vân.
Năm 1876, trước khi người Pháp lập nền Bảo hộ thì cửa ải có 50 lính canh phòng. Năm 1885, sau khi ký Hòa ước Giáp Thân (1884), số lính chỉ còn khoảng 5 người. Sang đầu thế kỷ XX, năm 1918, khi H.Cosserat tới Hải Vân quan khảo cứu cửa ải đã bị bỏ hoang không còn ai canh gác. Cuối năm 1946, khi Pháp trở lại xâm lược nước ta đã cải tạo Hải Vân quan thành một cứ điểm với nhiều công sự vững chắc án ngữ trên đỉnh đèo hiểm trở do hai trung đội lính Âu - Phi chiếm giữ. Sau năm 1954, hệ thống nhà ở, đồn bốt, công sự... được quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiếp tục sử dụng.
Sau năm 1975, một số công trình như trạm Viba, đường điện cao thế, đài kỷ niệm Chiến thắng Đồn Nhất...được xây dựng trong khu vực di tích cùng với những công trình do quân đội Pháp, Mỹ xây dựng trước đây đã làm thay đổi hoàn toàn bố cục mặt bằng nguyên gốc của di tích Hải Vân quan.
Di tích Hải vân quan đã được công nhận là Di tích Quốc gia. Cuối năm 2021, tỉnh Thừa Thiên Huế và TP Đà Nẵng đã thống nhất chi 42 tỉ đồng lấy từ nguồn ngân sách hai tỉnh để trùng tu di tích Hải Vân Quan sau thời gian dài xuống cấp nghiêm trọng. Việc trùng tu di tích này đã hoàn thành và sẽ mở cửa đón khách tham quan vào ngày 1-8 tới. Trước mắt mắt Hải Vân Quan sẽ mở cửa đón khách miễn phí. Sau khi HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế họp và thống nhất giá vé khu di tích này thì trung tâm mới mở bán vé.
Theo Thông tin dư địa chí của Thừa Thiên-Huế và báo Tuổi trẻ

Leuven City Hall: Kiệt Tác Kiến Trúc Brabantine Late Gothic ở Bỉ
Tòa thị chính Leuven, một công trình kiến trúc nổi bật ở Bỉ, được xây dựng theo phong cách Gothic muộn Brabantine giữa năm 1448 và 1469. Nổi tiếng với kiến trúc tinh xảo như những mảnh ren, tòa nhà này là biểu tượng của sự sáng tạo và tay nghề điêu luyện trong kiến trúc thời kỳ Trung Cổ.
Lịch Sử và Quá Trình Xây Dựng
Việc xây dựng Tòa thị chính Leuven bắt đầu vào năm 1448 dưới sự chỉ đạo của kiến trúc sư Matheus de Layens. Công trình kéo dài 21 năm và hoàn thành vào năm 1469. Tòa nhà được xây dựng trong thời kỳ hoàng kim của phong cách Gothic Brabantine, đặc trưng bởi các chi tiết chạm khắc tỉ mỉ và bố cục phức tạp.
Kiến Trúc và Thiết Kế
- Chi Tiết Chạm Khắc Tinh Xảo: Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của Tòa thị chính Leuven là sự phong phú và tinh tế của các chi tiết chạm khắc trên mặt tiền. Các bức tường bên ngoài được trang trí bằng những tượng thánh, thiên thần, và các nhân vật lịch sử, tạo nên một bức tranh sống động và đầy cảm hứng.
- Phong Cách Brabantine Late Gothic: Kiến trúc Gothic muộn Brabantine nổi bật với sự phức tạp và tinh xảo trong thiết kế. Các cột trụ, cửa sổ và mái vòm đều được chế tác với chi tiết tinh vi, tạo nên vẻ đẹp độc đáo và ấn tượng. Tòa nhà có ba tầng với những hàng cột và các cửa sổ lớn, mỗi chi tiết đều mang lại vẻ đẹp kỳ diệu như những mảnh ren bằng đá.
Bên trong Tòa thị chính Leuven cũng là một tác phẩm nghệ thuật đáng ngưỡng mộ. Các phòng hội nghị và sảnh chính đều được trang trí công phu với các bức tranh, tượng và các chi tiết kiến trúc tinh xảo. Tòa nhà không chỉ là nơi làm việc của chính quyền thành phố mà còn là một bảo tàng sống động, lưu giữ những giá trị văn hóa và lịch sử quý báu của Leuven.
Ngày nay, Tòa thị chính Leuven không chỉ là một công trình hành chính mà còn là điểm đến thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới. Kiến trúc độc đáo và lịch sử phong phú của tòa nhà khiến nó trở thành một trong những điểm tham quan nổi tiếng nhất ở Bỉ. Các tour tham quan dẫn dắt du khách khám phá vẻ đẹp kiến trúc và hiểu thêm về lịch sử của Leuven qua các thời kỳ.
Tòa thị chính Leuven là một minh chứng sống động cho tài năng và sự sáng tạo của các kiến trúc sư thời kỳ Gothic muộn Brabantine. Với các chi tiết chạm khắc tinh xảo và thiết kế phức tạp, tòa nhà này không chỉ là biểu tượng của thành phố Leuven mà còn là di sản văn hóa quý giá của Bỉ. Một chuyến thăm Tòa thị chính Leuven sẽ mang đến cho du khách cơ hội khám phá vẻ đẹp kiến trúc cổ kính và cảm nhận sự huy hoàng của một thời kỳ lịch sử rực rỡ.




Trước khi cơn bão lớn xảy ra, ngọn hải đăng ở Michigan đứng vững và chắc chắn bên bờ hồ hoặc biển, nổi bật với cấu trúc vững chãi và ánh sáng kiên định. Những ngọn hải đăng này thường được xây dựng bằng đá hoặc thép, với màu sắc truyền thống như đỏ, trắng hoặc xám, giúp chúng dễ dàng nhận diện giữa cảnh vật xung quanh. Cảnh quan quanh ngọn hải đăng có thể là một bãi biển rộng, những cây cối xanh mướt, hoặc mặt nước yên bình của hồ hoặc biển, tạo nên một bức tranh phong cảnh thanh bình.
Sau khi cơn bão lớn qua đi, cảnh tượng bên ngọn hải đăng thay đổi đáng kể. Các lớp băng dày bao phủ ngọn hải đăng, biến nó thành một cấu trúc lấp lánh nhưng cũng rất nặng nề. Lớp băng có thể tạo ra các hình dạng kỳ diệu, bao phủ toàn bộ ngọn hải đăng và tạo ra một vẻ ngoài như một tác phẩm điêu khắc băng đá. Ánh sáng từ ngọn hải đăng có thể bị làm mờ bởi lớp băng, khiến nó trông như một đốm sáng yếu ớt trong cảnh tượng lạnh lẽo.
Môi trường xung quanh cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Các bãi biển có thể bị bao phủ bởi lớp băng trơn trượt, trong khi những cây cối gần đó có thể bị gãy gập do trọng lượng của băng. Mặt nước có thể đóng băng hoặc có những lớp băng nổi, thêm vào sự hùng vĩ của cảnh quan mùa đông. Tuy nhiên, vẻ đẹp của ngọn hải đăng trong lớp băng vẫn gây ấn tượng mạnh, thể hiện sự kiên cường của nó giữa điều kiện thời tiết khắc nghiệt.




Những kính TV thử nghiệm từ thập niên 1960 đại diện cho một chương thú vị trong lịch sử điện tử tiêu dùng và công nghệ cá nhân. Những thiết bị sớm này là một trong những nỗ lực đầu tiên nhằm tạo ra trải nghiệm xem TV cá nhân, cho phép người dùng xem truyền hình ở dạng di động.
Công nghệ của những chiếc kính này thường bao gồm các ống tia âm cực nhỏ (CRT) hoặc màn hình nhỏ được tích hợp vào trong mắt kính. Ý tưởng là cung cấp một trải nghiệm xem riêng tư bằng cách đặt màn hình gần mắt, từ đó truyền hình ảnh truyền hình trực tiếp tới người dùng.
Thiết kế của những chiếc kính này thường khá cồng kềnh và nặng nề so với tiêu chuẩn hiện nay. Chúng được trang bị nhiều điều khiển và tùy chỉnh để cải thiện trải nghiệm xem, nhưng công nghệ vẫn còn ở giai đoạn sơ khai. Độ phân giải và chất lượng hình ảnh bị hạn chế, và trải nghiệm tổng thể của người dùng còn xa mới hoàn hảo.
Mặc dù có những hạn chế này, những chiếc kính TV thử nghiệm từ thập niên 1960 đã tiên phong trong việc đặt nền móng cho các phát triển trong công nghệ đeo được và thiết bị giải trí cá nhân sau này. Chúng đánh dấu một nỗ lực sớm trong việc kết hợp phương tiện hình ảnh với công nghệ di động cá nhân, một khái niệm đã tiến hóa đáng kể với các thiết bị headset và kính thực tế tăng cường (AR) hiện đại ngày nay.

Tất cả cảm xú